Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Phát triển năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên khối lý luận chính trị học viện báo chí và tuyên truyền hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

LÊ THỊ TRUNG ANH

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO TRONG HỌC TẬP VÀ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN KHỐI LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ - HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

LÊ THỊ TRUNG ANH

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO TRONG HỌC TẬP VÀ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN KHỐI LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ - HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH


: TRIẾT HỌC

CHUYÊN NGÀNH

: TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
PGS.TS Nguyễn Minh Hoàn

HÀ NỘI, 2020


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Minh Hoàn
– Trưởng khoa Triết học, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn tác giả hồn
thành khóa luận tốt nghiệp đúng thời gian quy định.
Khóa luận tốt nghiệp không chỉ là kết quả của riêng 2 tháng nghiên cứu
mà được đúc rút từ những kiến thức mang tính nền tảng trong suốt 4 năm
dưới mái trường Học viện Báo chí – Tuyên truyền. Do vậy, tác giả xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc đến tất cả các thầy cô trong khoa Triết học, đặc biệt là TS.
Nguyễn Thị Như Huế - cố vấn học tập lớp Triết học K36 trong suốt 4 năm
qua đã luôn động viên, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện giúp đỡ để tác giả có
hướng phấn đấu nhằm mang lại kết quả tốt nhất trong học tập.
Với điều kiện thời gian có hạn cũng như những kinh nghiệm hạn chế
của một sinh viên nên khóa luận sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót, tác giả
rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cơ, hội đồng
cùng tồn thể độc giả quan tâm để tác giả có điều kiện bổ sung, học hỏi kinh
nghiệm nhằm hoàn thiện kiến thức của mình trong q trình học tập, cơng tác
sau này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên

Lê Thị Trung Anh


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO
TRONG HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN KHỐI LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ - HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN ......................................... 10
1.1. Thực chất phát triển năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu
khoa học của sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên
truyền ........................................................................................................... 10
1.2. Những nhân tố quy định phát triển năng lực sáng tạo trong học tập và
nghiên cứu khoa học ở sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và
Tuyên truyền ................................................................................................ 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO TRONG HỌC TẬP
VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN KHỐI LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TẠI HỌC
VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN HIỆN NAY .................................................... 36
2.1. Những ưu điểm cơ bản trong phát triển năng lực sáng tạo của sinh viên
Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay ............. 37
2.2. Hạn chế trong phát triển năng lực sáng tạo cho sinh viên Khối Lý luận
chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền ................................................ 59
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO
TRONG HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN KHỐI LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN HIỆN NAY ........................... 66
3.1. Nâng cao năng lực

c n iệm của c ủ thể phát triển năng lực sáng


tạo cho sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền 66


3.2. Phát huy tính tích cực trong tự học tập, tự nghiên cứu để phát triển
năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học ở sinh viên Khối Lý
luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay ......................... 72
3.3. Tiếp tục đổi mới mục
p ương

u, nội dung c ương

ìn gắn với đổi mới

ức đào ạo.................................................................................... 78

3.4. Tăng cường xây dựng môi ường đào ạo thuận lợi cho phát triển năng
lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học ở sinh viên Khối Lý luận
chính trị – Học viện Báo chí và Tuyên truyền ............................................... 85
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................... 93
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 96


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Nhận thức của Đảng ủy lãn đạo Học viện và Khoa chủ quản về vai
trò của việc phát triển năng lực sáng tạo của sinh viên Khối Lý luận chính trị
hiện nay. .......................................................................................................... 39
Biểu đồ 2: Kết quả học tập của sinh viên - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
hiện nay. .......................................................................................................... 40

Biểu đồ 3: Những yếu tố nào

c động đến quá trình phát triển năng lực sáng

tạo của sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện
nay ................................................................................................................... 41
Biểu đồ 4: Nhận thức của sinh viên Khối Lý luận chính trị về c c đặc

ưng

nguồn nhân lực chấ lượng cao ngành Lý luận chính trị.................................. 42
Biểu đồ 5: Tính tích cực và chủ động trong học tập và Nghiên cứu khoa học
của sinh viên Khối Lý luận chính trị – Học viện Báo chí và Tuyên truyền ........ 43
Biểu đồ 6: Tính tích cực của sinh viên trong hoạ động học tập và nghiên cứu
khoa học. ......................................................................................................... 46
Biểu đồ 7: T i độ của sinh viên Khối Lý luận chính trị đối với hoạ động
nghiên cứu khoa học. ...................................................................................... 48
Biểu đồ 8: T i độ của sinh viên khi tiến hành nghiên cứu khoa học.............. 49
Biểu đồ 9: Hiệu quả q trình phát triển tính sáng tạo của sinh viên Khối Lý
luận chính trị tại HVBCTT hiện nay. ................................................................. 54
Biểu đồ 10: Đ n gi của sinh viên về sự phân bổ thời gian giữa lý thuyết và
thực àn

ong đào ạo Khối Lý luận chính trị - HVBCTT hiện nay. ............... 55

Biểu đồ 11: Chấ lượng đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy cho sinh viên
Khối Lý luận chính trị ....................................................................................... 58
Biểu đồ 12: Mức độ đảm bảo p ương iện c o đào ạo và nghiên cứu khoa
học của sinh viên Khối Lý luận chính trị - HVBCTT hiện nay ............................ 59



Biểu đồ 13: Mục đíc sử dụng thời gian rảnh rỗi của sinh viên Khối Lý luận
chính trị............................................................................................................ 60


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học là một trong
những phẩm chất quan trọng và cần thiết, giữ vai trò chi phối trực tiếp đến
chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên. Trong bối
cảnh cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ và có tác động
đến mọi mặt của xã hội hiện nay, trong đó có lĩnh vực giáo dục và đào tạo,
việc phát triển năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học ngày
càng trở nên quan trọng và cần thiết.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, là cơ sở đào tạo được xây dựng thành trường đại học trọng
điểm của mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân. Học viện là cơ sở nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực chất lượng cao trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng, cơng tác xây dựng Đảng
và chính quyền nhà nước, báo chí -truyền thơng và một số lĩnh vực khoa học
và xã hội nhân văn khác. Đối với sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, học tập và nghiên cứu khoa học là một hoạt động
thường xuyên, diễn ra trong suốt quá trình học tập tại Học viện nhằm đáp ứng
mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Học viện và xã hội. Để nâng cao chất lượng,
hiệu quả học tập và nghiên cứu khoa học, một trong những yêu cầu quan
trọng là phải phát triển năng lực sáng tạo của lực lượng này.
Nhận thức rõ vấn đề này, trong những năm qua Đảng ủy, Ban Giám đốc
Học viện Báo chí và Tuyên truyền luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học trong Học viện. Trong đó,

phát triển năng lực sáng tạo trong học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên
Khối Lý luận chính trị là một nhiệm vụ thường xuyên của Đảng ủy, Ban Giám
đốc Học viện cho tới các Phịng, Ban và các Khoa. Do đó, chất lượng học tập,


2
nghiên cứu khoa học của sinh viên Khối Lý luận chính trị ở Học viện Báo chí
và Tuyên truyền đã đạt được những thành tựu quan trọng: Số liệu thống kê
các đề tài khoa học sinh viên đã nghiệm thu năm 2018 cho thấy, 11/26
(42,4%) đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên đạt loại xuất sắc, 14/26 (53,8%)
đề tài xếp loại khá và 1/26 (3,8%) đề tài xếp loại đạt. Năm 2019, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền đã tổ chức 14 Hội thảo khoa học sinh viên (do các
khoa chủ trì), nhiều hơn 13 hội thảo so với năm 2018, các bài tham luận phải
được duyệt trước khi đưa vào kỷ yếu, thực hiện 35 đề tài khoa học sinh viên,
tăng 9 đề tài (34,6%) so với năm 2018... [47, Hoạt động nghiên cứu khoa học
của sinh viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền - thực trạng và phương
hướng, giải pháp, PGS.TS Nguyễn Đức Luận, 4/6/2019]
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận, kết quả nghiên
cứu khoa học của một bộ phận sinh viên Khối Lý luận chính trị chưa tương
xứng với tiềm năng vốn có. Họ cịn thiếu hụt, lúng túng về phương pháp trong
phân tích, so sánh, phân biệt sự giống và khác nhau giữa các đối tượng nhận
thức, chưa chỉ ra rõ ràng, chính xác đặc điểm chung và riêng trong từng lớp
đối tượng, còn biểu hiện nhầm lẫn giữa các khái niệm công cụ, khái niệm
trung tâm trong các công trình khoa học, ý nghĩa đóng góp với thực tiễn chưa
lớn, hoặc có nhưng hạn chế, hay chỉ có ý nghĩa thuần túy giúp người học biết
tiến hành một công trình nghiên cứu. Số sinh viên thực sự nổi trội về sáng tạo
trong học tập và nghiên cứu khoa học chưa xuất hiện nhiều. Nguyên nhân chủ
yếu của hạn chế trên là một bộ phận sinh viên Khối Lý luận chính trị chưa có
sự nỗ lực, phấn đấu hoặc có biểu hiện thỏa mãn, cầm chừng trong quá trình
học tập và nghiên cứu khoa học. Tính nhạy bén, phương pháp nghiên cứu còn

hạn chế; khả năng phát hiện và giải quyết các vấn đề thực tiễn cịn gặp nhiều
khó khăn…
Trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong bối


3
cảnh cuộc các mạng Công nghiệp lần thứ tư hiện nay. Để không ngừng nâng
cao chất lượng học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên Khối Lý luận
chính trị ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, vấn đề phát triển năng lực sáng
tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học ở sinh viên Khối Lý luận chính trị là
một vấn đề cấp thiết. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề “Phát triển năng lực
sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên Khối Lý luận
chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay” có ý nghĩa quan trọng
cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Qua nghiên cứu, tôi thấy rằng hiện nay đã có một số cơng trình nghiên
cứu có liên quan đến năng lực nói chung và năng lực sáng tạo nói riêng cho
nhiều đối tượng tùy thuộc góc độ tiếp cận.
* Nhóm các cơng trình tiếp cận sáng tạo dưới góc độ triết học
Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong cơng trình “Q trình sáng tạo và sự
phát triển nhân cách” đăng trên Tạp chí Triết học [15] đã cho rằng, sáng tạo là
một trong những hình thức cao nhất trong việc khẳng định sự tồn tại và sự
phát triển của chủ thể sáng tạo về mặt nhân cách. Đặc trưng chủ yếu của quá
trình sáng tạo là khi đạt được một mục tiêu nào đó thì mục tiêu đó lập tức
phải trở thành tiền đề cho sự tìm tịi trên một trình độ mới; một kết quả phải
vừa là nó, vừa là sự chuẩn bị cho sự vượt qua chính nó. Đây là biện chứng
của sự phát triển sáng tạo.

Tác giả Nguyễn Văn Huyên “Sự hình thành


con người với tư cách chủ thể sáng tạo” đăng trên Tạp chí Triết học [16], đã
khẳng định sự hình thành chủ thể sáng tạo diễn ra trong những điều kiện xã
hội mà ở đó cá nhân say mê với cơng việc mình lựa chọn, đã tích lũy được
vốn tri thức nhất định, con người vượt lên trên giới hạn tự nhiên của chính
mình để tạo ra những giá trị mới. Sự kết hợp hài hòa giữa hứng thú cá nhân
với nghĩa vụ xã hội, đáp ứng cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là con đường
phát triển của chủ thể sáng tạo.


4
Tác giả Lê Huy Hồng (2002) trong cơng trình "Sáng tạo và những điều
kiện chủ yếu để kích thích sự sáng tạo của con người Việt Nam hiện nay" đã
nghiên cứu trực tiếp về sáng tạo và nhấn mạnh lý thuyết phản ánh duy vật biện
chứng với tính cách là cơ sở triết học của sáng tạo. Bên cạnh đó, tác giả đã
nghiên cứu tương đối công phu những quan niệm trước Mác và ngồi mácxít về
sáng tạo trên bình diện triết học cả phương Đông và phương Tây. Tác giả đã hệ
thống hóa những quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về
sáng tạo để cuối cùng đưa ra quan niệm mácxít về sáng tạo và bản chất của sáng
tạo.
Các cơng trình trên là cơ sở để chúng tôi tiếp tục phát triển quan niệm
về sáng tạo nói chung và năng lực sáng tạo của sinh viên Khối Lý luận chính
trị - Học viện Báo chí và Tun truyền nói riêng theo quan điểm của triết học
Mác-Lênin.
* Các cơng trình nghiên cứu về sáng tạo dưới các góc độ nghiên cứu
khác
Hiện nay những cơng trình tập trung nghiên cứu tương đối chi tiết,
chuyên sâu về sáng tạo,năng lực sáng tạo nói riêng đều thuộc tâm lý học sáng
tạo.
Tâm lý học sáng tạo của tác giả Đức Uy [41] là cuốn sách đầu tiên ở
Việt Nam bước đầu trình bày một số vấn đề tâm lý của sáng tạo. Một số vấn

đề của tác phẩm liên quan đến sáng tạo như: định nghĩa khái niệm sáng tạo, ý
tưởng sáng tạo, tư duy sáng tạo, động lực sáng tạo. được tác giả trình bày chủ
yếu ở những nét phác họa ban đầu mang tính tìm tịi, đặt vấn đề. Bên cạnh đó,
năng lực sáng tạo của con người được tác giả nghiên cứu ở khía cạnh những
phẩm chất nhân cách tiêu biểu của các cá nhân có năng lực sáng tạo ở mức
cao, đặc biệt là thiên tài. về vấn đề này, tác giả nhận định “hình như một trong
những điều kiện để phát triển tài năng là tự do, khơng vâng lời”.
Giáo trình Tâm lý học sáng tạo của tác giả Huỳnh Văn Sơn [28]. Ở


5
cuốn sách này, những nội dung cơ bản về sáng tạo như khái niệm sáng tạo, tư
duy sáng tạo, động cơ sáng tạo, các giai đoạn sáng tạo, trình độ sáng tạo được
tác giả trình bày một cách mạch lạc, khúc triết có sự hợp lý nhất định.
Giáo trình Tâm lý học sáng tạo của Phạm Thành Nghị [25]. Trong cơng
trình này, tác giả khơng chỉ trình bày những vấn đề của sáng tạo trên diện
rộng dưới góc độ của tâm lý học mà cịn trình bày cơ sở sinh học và cơ sở xã
hội của sáng tạo. Cơng trình đã đề cập đến những nội dung về sáng tạo như
định nghĩa sáng tạo, đặc điểm sáng tạo, các giai đoạn sáng tạo, ý tưởng sáng
tạo, động cơ sáng tạo. Nhìn chung, đây là cơng trình có giá trị nhất định với
đề tài vì đã cung cấp nhiều tư liệu, dưới góc nhìn của tâm lý học về sáng tạo,
năng lực sáng tạo với khơng ít những yếu tố tích cực.
Ngồi ra, cịn có cơng trình khác như: "Một tư duy hoàn toàn mới" của
Daniel H. Pink (Tiếng Việt, 2008). "Luyện trí sáng tạo" của Samm.S. Baker
(Tiếng Việt, 2001) do Dương Hội và Tạ Văn Doanh biên dịch, đã giới thiệu
phương pháp sáng tạo sáu bước. Cơng trình "6 chiếc mũ tư duy" của Edward
De Bono (Tiếng Việt, 2003) do Thanh Châu dịch, đã đưa ra phương pháp tư
duy giải quyết vấn đề chủ yếu được áp dụng trong việc giải quyết vấn đề
chung của tập thể ở các công ty, tổ chức... Tác giả đề xuất phương pháp tư
duy song song cùng với trình tự tư duy theo biểu tượng của 6 chiếc mũ (mũ

trắng, mũ đỏ, mũ đen, mũ vàng, mũ lục, mũ lam) được coi là phương pháp
tương đối hiệu quả. Cơng trình "Suy nghĩ - hành động sáng tạo trong kinh
doanh" của Mỹ Ly và Lan Khanh (2004 và "Bí quyết sáng tạo" của Jack
Foster, Nguyễn Minh Hồng dịch, xuất bản 2005, đã trình bày các cách tạo ra
những điều kiện cần thiết cho trí não hoạt động phát sinh ý tưởng, từ sự tạo ra
tâm lí thoải mái, đặt mục tiêu cho trí não đến việc học cách tư duy, phối hợp,
thu thập thông tin, đi tìm ý tưởng, qn phứt nó đi và biến ý tưởng thành hành
động.
* Các cơng trình nghiên cứu về năng lực sáng tạo trong học tập và


6

nghiên cứu khoa học
Tác giả Lê Văn Quang trong công trình "Phát triển trí tuệ và năng lực
sáng tạo khoa học trong đào tạo sau đại học" [27] đã chỉ ra những yêu cầu
khách quan về chất lượng đào tạo, địi hỏi các lực lượng tham gia q trình
đào tạo cần tập trung mọi cố gắng tạo ra sự chuyển biến về chất lượng; đánh
giá khách quan đối với chất lượng đào tạo của các ngành khoa học; nghiên
cứu, phát triển, bổ sung, đổi mới và phát huy vai trò các nhân tố trong đào tạo.
Tác giả Hồng Chí Bảo trong cơng trình “Dân chủ trong nghiên cứu khoa
học xã hội và nhân văn” [02], đã chỉ ra tính phức tạp của khoa học này. “Vấn đề
càng trở nên phức tạp hơn khi đối tượng - khách thể nghiên cứu là một hiện
tượng văn hóa, một quan hệ con người chứ không phải hiện tượng tự nhiên trong
giới tự nhiên vơ cơ hoặc giới tự nhiên sinh vật. Chính điều này quy định tính
phức tạp của khoa học xã hội. Đây là tính phức tạp đặc thù của khoa học xã hội
và nhân văn có trong những khoa học “khơng chính xác” - cái phân biệt chúng
với các khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ - vốn là khoa học “chính xác”,
có thể thực chứng được”.
Bài viết “Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh viên

Trường Cao đẳng Văn hoá nghệ thuật Hạ Long” của tác giả Phan Thị Huệ
đã phân tích là rõ vai trị bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học cho sinh
viên, đánh giá thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên ở các
trường đại học, cao đẳng nói chung và Trường Cao đẳng Văn hố nghệ thuật
Hạ Long nói riêng. Đánh giá thực trạng hoạt động bồi dưỡng năng lực
nghiên cứu khoa học cho sinh viên của nhà trường còn mờ nhạt, chưa thực
sự trở thành phong trào. Đa phần sinh viên còn bỡ ngỡ với nghiên cứu khoa
học và mới dừng lại ở việc viết báo cáo kiến tập, thực tập tốt nghiệp. Một
vài khoa đã chủ động hướng dẫn sinh viên thực hiện đề tài nghiên cứu, hội
thảo khoa học và viết bài đăng trên bản tin, website nhà trường trao đổi các
phương pháp, kinh nghiệm học tập, những thông tin mới về chuyên môn,


7
ngành nghề đang theo học, nhìn chung sinh viên ít tham gia nghiên cứu khoa
học. Theo tác giả trở ngại lớn nhất của hoạt động nghiên cứu khoa học cho
sinh viên là: do sinh viên không quan tâm đến nghiên cứu khoa học; sinh viên
chưa thực sự tự tin, tính độc lập và tính sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu
cũng như kết quả nghiên cứu chưa cao.
Qua tổng quan những nghiên cứu liên quan đến đề tài cho thấy những
cơng trình trên đã cung cấp cho chúng tơi những cứ liệu khoa học, có giá trị
nhất định cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, đến nay nhưng chưa có đề tài
nào nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống về nâng cao tính sáng tạo trong học tập
và nghiên cứu khoa học của sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo
chí và Tun truyền. Do đó, đề tài khơng trùng lặp với các cơng trình đã được
nghiên cứu và cơng bố. Đây là một cơng trình nghiên cứu mới có giá trị khoa
học và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận
và đánh giá thực trạng phát triển năng lực sáng tạo của sinh viên Khối Lý luận

chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong học tập và nghiên cứu
khoa học, đề tài đề xuất một số giải pháp phát triển năng lực sáng tạo của sinh
viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong học tập
và nghiên cứu khoa học; đáp ứng yêu cầu đào tạo tại Học viện Báo chí và
Tuyên truyền hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ các vấn đề về sáng tạo; năng lực sáng tạo; lập luận, phân tích,
khái quát về thực chất phát triển năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên
cứu khoa học ở sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên
truyền;
- Đánh giá thực trạng, nguyên nhân, chỉ ra yếu tố tác động đến phát
triển năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên


8

Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền;
- Đề xuất hệ thống giải pháp nhằm phát triển năng lực sáng tạo trong
học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học
viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển năng lực sáng tạo trong học tập và
nghiên cứu khoa học của sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí
và Tuyên truyền.
* Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của
sinh viên các lớp khóa 36, 37, 38 Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí
và Tuyên truyền từ năm 2015-2019.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của đề tài: là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản

Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng và phát huy nguồn lực con
người và các cơng trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn của đề tài: Thực tiễn phát triển năng lực sáng tạo
trong học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên Khối Lý luận chính trị Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay. Các kết quả điều tra khảo sát của
tác giả và những số liệu báo cáo, tổng kết của các cơ quan, đơn vị có liên
quan trực tiếp đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu: Đề tài vận dụng hệ thống phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; ngồi ra đề tài cịn
sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, trừu tượng
hóa, khái quát hóa, hệ thống - cấu trúc, lôgic, lịch sử, phương pháp nghiên
cứu tài liệu, điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài góp phần bổ sung, làm rõ các vấn đề về năng lực sáng tạo, đề


9
xuất quan niệm phát triển năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa
học ở sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền và
những nhân tố quy định phát triển năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên
cứu khoa học của sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và
Tun truyền.
Từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản, đồng bộ nhằm phát triển năng
lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên Khối Lý luận
chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ
một số vấn đề lý luận về phát triển năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên
cứu khoa học của sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và
Tuyên truyền.
* Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần thúc đẩy hiệu

quả phát triển và phát triển năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu
khoa học của sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên
truyền hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm: phần mở đầu; phần nội dung (3 chương, 8 tiết);
kết luận; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


10
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG
LỰC SÁNG TẠO TRONG HỌC TẬP VÀ NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN KHỐI LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
- HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
1.1. Thực chất phát triển năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu
khoa học của sinh viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và
Tuyên truyền
1.1.1. Năng lực sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học của sinh
viên Khối Lý luận chính trị - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
* Một số vấn đề chung về sáng tạo
Sáng tạo là thuộc tính cơ bản nhất của con người. Con người có thể dùng khả
năng sáng tạo để đặt vấn đề một cách bao quát, dự đoán các khả năng trên cơ sở nắm
bắt bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng. Trong khi giải quyết vấn đề, sáng tạo
giúp con người tìm ra nhiều cách giải quyết và lựa chọn cách giải quyết tối ưu nhất,
hợp lý nhất và hiệu quả cao nhất.
Trước đây, sáng tạo thường được gắn với các thiên tài, những tài năng
trong các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật. Tới giữa thế kỷ XX các nhà khoa học
quan niệm rằng bản chất của sáng tạo là ở hoạt động tưởng tượng, nhờ hoạt
động tưởng tượng mà kích thích khả năng sáng tạo. Theo mơ hình lý thuyết
về cấu trúc trí tuệ 120 thành tố của nhà tâm lý học Mỹ Guilford (1967) thì trí
tuệ con người được phân làm hai phần cơ bản là: thơng minh (intelligence) và

tính sáng tạo (creativity). Hiện nay, quan niệm về sáng tạo là khá đa dạng tùy
theo góc độ nghiên cứu của các nhà khoa học.
Có nhóm tác giả quan niệm sáng tạo là hoạt động của con người tạo ra
cái mới như tác giả L.X.Vưgốtxki quan niệm: “hoạt động tạo ra cái mới
không phân biệt kết quả tạo ra nó có ý nghĩa hiện thực cụ thể hay có ý nghĩa
về mặt tư duy - tình cảm” [28, tr.25]. Tác giả Nguyễn Đức Uy lại cho rằng


11
sáng tạo là: “sự đột khởi thành hành động của một sản phẩm liên hệ mới mẻ,
nảy sinh từ sự độc đáo của một cá nhân, và những tư liệu biến cố, nhân sự hay
những hoàn cảnh của đời người ấy” [41, tr.9].
Nhóm tác giả khác thì quan niệm sáng tạo là hoạt động tạo ra cái mới
nhưng phải có giá trị. Trong đó, từ điển Tiếng Việt định nghĩa "sáng tạo là tạo
ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần” hay “tìm ra cái mới, cách giải
quyết mới, khơng bị gị bó phụ thuộc vào cái đã có” [39, tr.817] hay “ Sáng
tạo là q trình hoạt động của con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh
thần mới về chất. Các loại hình sáng tạo được xác định bởi đặc trưng nghề
nghiệp như khoa học kỹ thuật, tổ chức quân sự. Có thể nói sáng tạo có mặt
trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần” [28, tr. 24-25].
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: "Muốn giữ kỷ luật lao động phải có
tinh thần hăng hái, có tính sáng tạo. Hăng hái thì các cơ, các chú đã biết. Cịn
thế nào là tính sáng tạo? Trước kia tư bản khơng cho công nhân phát triển tài
năng. Nhà máy dệt Nam Định trước chỉ cho mỗi công nhân đứng một máy,
nay về ta thì cơng nhân đứng được nhiều máy. Nhà máy về ta, ta cố làm nhiều
làm tốt, tìm hết mọi cách để tiến bộ mãi, đó là tính sáng tạo, đó là thái độ tiên
tiến" [22,tr.59].
Theo tác giả Phan Dũng thì: “Sáng tạo là hoạt động tạo ra bất kỳ cái gì có
đồng thời tính mới và tính ích lợi” [8, tr.14]. Tác giả Trần Thị Tuyết Oanh trong
bài đăng của mình trên Tạp chí Giáo dục thì quan niệm: “Sự sáng tạo được hiểu

như là một hoạt động phức tạp của con người, nhằm tạo nên những giá trị vật chất
và tinh thần mới dựa trên sự cải biến điều đã nhận thức. Những giá trị mới đó có
thể là kết quả mới hoặc những con đường và phương pháp độc đáo để thu được
kết quả. Sự sáng tạo có tính độc đáo là ở chỗ nó đối lập với sự bắt chước, sự sao
chép, hoạt động theo khuôn mẫu, theo hình ảnh đã có sẵn, đặc điểm của hoạt động
sáng tạo là cái mới và sự cải biến” [26].


12
Theo M.E.Wilson: “Sáng tạo là quá trình mà kết quả là tạo ra những kết
hợp mới cần thiết từ các ý tưởng, dạng năng lượng, các đơn vị thông tin, các
khách thể hay tập hợp của hai - ba các yếu tố nêu ra” [trích theo 28, tr.27- 28].
Từ điển Triết học khẳng định “sáng tạo là quá trình hoạt động của con
người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Các loại hình sáng
tạo được xác định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học kỹ thuật, tổ chức
quân sự. Có thể nói sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất
và tinh thần” [trích theo 28, tr. 24-25]. Với quan niệm trên, sản phẩm sáng tạo
phải là cái mới về chất.
Tuy nhiên, sáng tạo lại có mối liên hệ mật thiết với tư duy, do đó cần
phải tiếp cận quan niệm sáng tạo trên lập trường duy vật biện chứng. Tác giả
Lê Huy Hoàng [10] đã khái quát quan niệm mácxít về sáng tạo trên một số khía
cạnh:
Thứ nhất, sáng tạo là hoạt động bậc cao của con người, chứ khơng phải
là hoạt động thần bí và hơn nữa sự sáng tạo cũng khơng có trong tự nhiên nói
chung, chỉ có ở con người - động vật bậc cao.
Thứ hai, dựa trên lý thuyết phản ánh để lý giải về sáng tạo: Phản ánh (ý
thức) và sáng tạo luôn gắn bó với nhau. “Phản ánh là thuộc tính phổ biến của
vật chất (thế giới khách quan); còn sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất, là
sản phẩm của vật chất có tổ chức phức tạp và hồn thiện nhất - bộ óc người”
Thứ ba, sáng tạo gắn liền với lao động, hay sáng tạo chính là sự phản

ánh của các trình độ lao động khác nhau.
Thứ tư, sáng tạo là “hành động” ln thể hiện thành một q trình liên
tục, độc đáo, vừa mang bản chất cá nhân, vừa mang bản chất lịch sử xã hội.
Qua nghiên cứu các quan niệm của các tác giả, kế thừa các yếu tố hợp
lý trong quan điểm, chúng tôi cho rằng: Sáng tạo là hoạt động giải quyết vấn
đề của chủ thể tạo ra cái mới có giá trị dưới sự tác động của môi trường.
Như vậy, sáng tạo gắn liền với ý thức, tư duy của chủ thể, biểu hiện sự


13
phản ánh chủ động, tích cực ở trình độ cao của ý thức. Tuy nhiên, sáng tạo
không đồng nhất với phản ánh ý thức. Sáng tạo là hoạt động của con người
tạo ra cái mới có giá trị trong đó có sự tham gia khơng chỉ của những yếu tố ý
thức, tư duy mà có cả những yếu tố hoạt động của cơ thể, những yếu tố ở bên
ngoài con người như năng lượng, nguyên vật liệu, công cụ... Sự hình thành
sản phẩm sáng tạo thường là sự tổng hợp của nhiều yếu tố trong đó hoạt động
của ý thức là yếu tố trung tâm. Hoạt động sáng tạo bao gồm các thành tố có
mối liên hệ chặt chẽ: Chủ thể sáng tạo; vấn đề sáng tạo; môi trường sáng tạo
và sản phẩm sáng tạo. Trong đó, thành tố quan trọng nhất chính là chủ thể
sáng tạo.
Chủ thể sáng tạo là cá nhân hay tập thể giữ vai trò quyết định trong q
trình tạo ra sản phẩm mới có giá trị. Việc tạo ra sản phẩm sáng tạo nào đó có
thể có rất nhiều người tham gia, nhưng khơng phải tất cả mọi người đó đều là
chủ thể sáng tạo. Chủ thể sáng tạo là những người quyết định đến việc xác
định vấn đề sáng tạo, ý tưởng sáng tạo và tạo ra sản phẩm sáng tạo. Những
người khác là những người “thi công”, giúp việc hoặc làm ở những khâu,
công việc không quan trọng. Ở hầu hết những sản phẩm sáng tạo thì ý tưởng,
lời giải của sản phẩm sáng tạo luôn là phần quan trọng nhất, do vậy chủ thể
sáng tạo phải là người tạo ra ý tưởng sáng tạo và đề xuất những khuyến nghị
có tính mới, thể hiện ở sản phẩm sáng tạo. Đối với những cơng trình sáng tạo

lớn, có nhiều hạng mục thì chủ thể sáng tạo là một tập thể, mỗi cá nhân trong
tập thể đảm nhận giải quyết một vấn đề lớn trong hệ vấn đề. Như vậy, chủ thể
sáng tạo phải là những người có tư duy sáng tạo và cao hơn là có năng lực
sáng tạo.
Tác giả Phan Dũng cho rằng tư duy sáng tạo là quá trình suy nghĩ giải
quyết vấn đề và ra quyết định: “Tư duy (suy nghĩ) sáng tạo (Creative
Thinking) là quá trình suy nghĩ đưa người giải: 1) Từ khơng biết cách đạt tới
mục đích đến biết cách đạt mục đích, hoặc; 2) từ khơng biết cách tối ưu đạt


14
tới mục đích đến biết cách tối ưu đạt mục đích trong số các cách đã biết” [8,
tr.22].
Tư duy sáng tạo không chỉ là tư duy giải quyết vấn đề mà cịn là cách
giải quyết mang tính sáng tạo như quan niệm của tác giả Huỳnh Văn Sơn: “tư
duy sáng tạo là khả năng giải quyết vấn đề hiệu quả dựa trên sự phân tích lựa
chọn các giải pháp tốt nhất có thể có. Cách giải quyết vấn đề này thường là
mới, mang tính sáng tạo và hướng đến xu thế tối ưu” [28, tr.28]. Đây là sự
tiếp cận khá đúng đắn về tư duy sáng tạo.
Chúng tôi cho rằng, về thực chất mọi tư duy đều mang bản chất sáng tạo.
Bởi sự sáng tạo ra bất kỳ sản phẩm nào cũng trước hết là kết quả của tư duy
nhằm tạo ra cái mới có giá trị về mặt ý tưởng, lời giải. Tư duy là quá trình đi từ
chưa biết đến biết, từ cái cũ đến cái mới nhằm giải quyết vấn đề đặt ra. Nên từ
đó cần hiểu tư duy sáng tạo chính là khả năng của tư duy đạt đến trình độ cao,
tạo ra nhiều ý tưởng sáng tạo, lời giải sáng tạo trong một lĩnh vực hoạt động nhất
định. Đó phải là những ý tưởng, giải pháp mới, độc đáo hoặc là tối ưu hóa các
giải pháp đã có; là giải pháp khả thi về những vấn đề khó khăn mà người khác
chưa làm được. Người có tư duy sáng tạo trong một lĩnh vực nhất định nhất
thiết cần được biểu hiện ra là những ý tưởng, lời giải sáng tạo trong lĩnh vực
đó. Tư duy sáng tạo chính là nền tảng để chủ thể sáng tạo phát hiện ra vấn đề

sáng tạo trong thực tiễn để từ đó tạo ra các sản phẩm sáng tạo có tác dụng
thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động hoặc chất lượng sống của con người.
* Quan niệm về năng lực sáng tạo
Trong thực tiễn, ngoài việc quan tâm nghiên cứu các thành tố của hoạt
động sáng tạo như trình bày ở trên, thì con người thường quan tâm đến cái
chủ yếu chính là năng lực sáng tạo. Vì người có tư duy sáng tạo nhất định là
năng lực sáng tạo hiện có của chủ thể trong khơng gian có vấn đề sáng tạo và xuất
hiện sản phẩm sáng tạo. Nên khi đánh giá người có năng lực tư duy sáng tạo cần
căn cứ vào những kết quả tư duy mà người đó đã đạt được. Do đó, cần quan tâm


15
nghiên cứu cả về năng lực sáng tạo trong mối quan hệ với các thành tố của hoạt
động sáng tạo.
Năng lực, theo Từ điển tiếng Việt là: “Khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”, “là phẩm chất
tâm và sinh lý tạo cho con người khả năng hoạt động nào đó với chất lượng
cao” [39, tr.660-661]. Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng: “năng lực sáng tạo
là khả năng tạo ra những cái mới hoặc giải quyết vấn đề một cách mới mẻ của
con người” [28, tr.29]. Với định nghĩa này, năng lực sáng tạo là khả năng giải
quyết vấn đề của con người theo một cách mới. Đây là hướng tiếp cận hợp lý.
Như vậy theo nghĩa chung nhất, năng lực là tổng hoà các yếu tố chủ
quan của chủ thể đáp ứng một yêu cầu nào đó, đảm bảo cho hoạt động đó đạt
kết quả cao. Khi nói đến năng lực cần phải hiểu nó khơng phải là một yếu tố
đơn lẻ, duy nhất mà là tổng hoà các yếu tố bảo đảm cho chủ thể đó đạt được tốc
độ, hiệu quả trong hoạt động; cũng không phải là phép cộng giản đơn của các
yếu tố chủ quan của chủ thể mà là sự thống nhất hữu cơ, tác động, đan xen,
xâm nhập vào nhau của tất cả các yếu tố.
Năng lực của con người bao gồm cả yếu tố yếu tố tự nhiên và yếu tố xã
hội. Trong đó, yếu tố tự nhiên có vai trị rất quan trọng, nhưng nó mới ở dạng

tiềm năng. Tiềm năng đó cần được phát huy, nâng cao và đổi mới, nếu khơng
sẽ mai một. Chính thơng qua yếu tố xã hội - hoạt động thực tiễn, trực tiếp là lao
động sản xuất làm cho yếu tố tự nhiên của con người phát triển. Đồng thời
cũng thông qua hoạt động thực tiễn con người tích lũy những kinh nghiệm và
tri thức tạo nên những điều kiện để đáp ứng những hoạt động nhất định. Đó là
q trình phát triển khơng ngừng về năng lực của con người. Bởi chính q
trình hoạt động thực tiễn không những chỉ cải tạo tự nhiên, xã hội phục vụ nhu
cầu đời sống con người mà cịn cải tạo chính bản thân con người, làm cho con
người phát triển hoàn thiện hơn. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Năng lực của con người khơng phải hồn tồn do tự nhiên mà có, mà một


16
phần lớn do cơng tác, do tập luyện mà có” [24, tr.280].
Ở mỗi chủ thể, do hoạt động thực tiễn khác nhau, dẫn đến năng lực cũng
khác nhau. Năng lực của con người được hình thành và biểu hiện ra trong hoạt
động, thông qua hoạt động và căn cứ kết quả hoạt động để đánh giá năng lực của
chủ thể. Năng lực bao giờ cũng là năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nhất
định do đó năng lực rất phong phú, đa dạng. Năng lực phụ thuộc vào đặc điểm của
chủ thể, vào môi trường hoạt động và chủ động tích cực của chủ thể. Do đó, có
chủ thể có thể có năng lực sáng tạo hoặc khơng hình thành năng lực này.
Từ những phân tích trên đây có thể quan niệm: Năng lực sáng tạo là
tổng hoà các yếu tố chủ quan của chủ thể được huy động vào hoạt động tư
duy và hoạt động thực tiễn nhằm tìm ra bản chất, quy luật, nội dung, hình
thức mới của sự vật, hiện tượng và phương pháp.
Cũng như mọi năng lực khác, năng lực sáng tạo không phải là một yếu
tố đơn nhất, hay sự cộng lại giản đơn của các yếu tố chủ quan, mà là sự thống
nhất hữu cơ của các yếu tố. Các yếu tố đó luôn tác động biện chứng, làm tiền
đề và điều kiện cho nhau, chúng có vai trị, vị trí khác nhau trong năng lực sáng
tạo. Các yếu tố cơ bản cấu thành năng lực sáng tạo bao gồm:

Một là, trình độ tri thức của chủ thể sáng tạo.
Đây là yếu tố cơ bản, cốt lõi quyết định trực tiếp đến năng lực sáng tạo.
Trình độ tri thức đó là mức độ hiểu biết, nắm bắt quy luật vận động, phát triển của
tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người, là những điều hiểu biết có hệ thống
về sự vật, hiện tượng, tự nhiên hoặc xã hội. Nói đến trình độ tri thức là nói đến
số lượng và chất lượng thơng tin mà chủ thể thu nhận và tích luỹ được trong
quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tri thức của nhân loại hết sức
phong phú và đa dạng bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuỳ từng góc độ
nghiên cứu để phân loại tri thức cho phù hợp. Xét trên phương diện mà tri thức
khái quát bao gồm: Tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về con
người.


17
Xét theo trình độ bao gồm: Tri thức kinh nghiệm, tri thức tiền khoa học,
tri thức khoa học. Căn cứ vào hoạt động sống của con người, có tri thức lý
luận, tri thức thực tiễn và tri thức nghề nghiệp.
Tri thức lý luận đó là sự tổng kết, khái quát thực tiễn đấu tranh cách
mạng và hoạt động xã hội của lồi người trong tiến trình lịch sử thành hệ thống
những khái niệm, phạm trù, quy luật về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là sự tổng
hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội trữ lại trong quá trình lịch sử. Tri thức
lý luận là cơ sở dẫn dắt nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hội của con người,
đồng thời là cơ sở để con người khám phá ra những tri thức mới. Lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lê nin là ngọn đuốc soi đường cho nhận thức và hoạt động cải
tạo thực tiễn của giai cấp vô sản, là cơ sở cho mọi sự sáng tạo của người cách
mạng.
Tri thức thực tiễn: Là những hiểu biết của con người được hình thành
trong thực tiễn cuộc sống, trong lao động, đấu tranh xã hội. Tuy chưa khái quát
thành hệ thống, song nó có vai trị to lớn đối với sự phát triển tư duy. Kinh

nghiệm lao động, đấu tranh xã hội của các thế hệ trước là cơ sở cho các thế hệ
sau nhận thức và hành động sáng tạo.
Tri thức nghề nghiệp: Là sự hiểu biết kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của con
người trong một lĩnh vực hoạt động nhất định. Tri thức nghề nghiệp là cơ sở để
nâng cao khả năng sáng tạo trong nhận thức và hoạt động xã hội của con người.
Tri thức lý luận, tri thức kinh nghiệm, tri thức nghề nghiệp có vai trị
khơng ngang bằng nhau trong nhận thức và hoạt động của con người, nhưng
chúng ln xâm nhập, tác động, hồ quyện vào nhau tạo thành trình độ tri thức.
Chỉ khi nào con người đạt tới mức độ hiểu sâu sắc về bản chất, quy luật
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, thì khi đó mới có đủ cơ sở để
nhận thức và hoạt động sáng tạo. Có lý luận khoa học làm cho hoạt động
con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mị mẫm, tự phát.


18
Thiếu tri thức lý luận sẽ thiếu cơ sở khoa học để hình thành tư duy sáng
tạo. “Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” [20, tr.234-235].
V.I.Lênin đã khẳng định: “Khơng có lý luận cách mạng thì cũng khơng thể
có phong trào cách mạng” [15, tr.30]. Tri thức thực tiễn, tri thức lý luận, tri
thức nghề nghiệp là những yếu tố đóng vai trị quan trọng trong năng lực tư
duy sáng tạo, thiếu những tri thức đó tư duy dễ xa rời thực tiễn, phi thực
tiễn, tư duy giáo điều máy móc.
Hai là, động cơ sáng tạo của chủ thể.
Nó có vai trị trong việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo của chủ thể. Hoạt
động sáng tạo là hoạt động có tính rủi ro, khơng chắc chắn thành cơng nên
cần phải có niềm tin nhất là mong muốn, khát vọng sáng tạo mới có thể thúc
đẩy hành vi của chủ thể vượt qua những trở ngại, khó khăn nhất định hướng
tới sản phẩm sáng tạo. Tăng cường động cơ sáng tạo ở chủ thể cũng là cách
thức để phát triển năng lực sáng tạo, trong đó mục tiêu cao nhất là làm sao
chủ thể có niềm say mê sáng tạo.

Ba là, điều kiện hoạt động sáng tạo của chủ thể.
Chúng ta thấy rằng nếu khơng có não bộ, giác quan thì chủ thể khơng
thể tiến hành hoạt động nhận thức và tư duy được nên não bộ, giác quan và cả
cơ thể sinh học nói chung đều là điều kiện vật chất cho hoạt động sáng tạo.
Chăm sóc não bộ, làm cho các giác quan nhạy cảm hơn, tăng cường sức khỏe
thể chất cũng đều gián tiếp làm tăng cường năng lực nhận thức, tư duy của
chủ thể và do vậy đều phát triển năng lực sáng tạo. Bên cạnh đó, trong một số
loại hình sáng tạo, khả năng điều khiển đôi tay hay điều khiển cơ thể cũng là
điều kiện vật chất cho hoạt động sáng tạo, cũng thuộc về năng lực sáng tạo ở
chủ thể mặc dù ở thứ yếu. Chẳng hạn, trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật,
chủ thể phải điều khiển đôi tay, cơ thể nói chung trong việc tạo ra sản phẩm
sáng tạo.
Bốn là, trải nghiệm, cảm xúc, tình cảm,ý chí và bản lĩnh.


×