Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ phát triển năng lực nhận thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.95 KB, 98 trang )

2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
THỰC CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN NĂNG
LỰC NHẬN THỨC KHOA HỌC CỦA HỌC VIÊN
ĐÀO TẠO SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI Ở TRƯỜNG
SĨ QUAN LỤC QUÂN 2

1.1.

12

Thực chất phát triển năng lực nhận thức khoa học
của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường

1.2.

sĩ quan Lục quân 2
Đặc điểm phát triển năng lực nhận thức khoa học

12

của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường
sĩ quan Lục quân 2
Chương 2

34



THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NHẬN THỨC KHOA
HỌC CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN CẤP
PHÂN ĐỘI Ở TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2
HIỆN NAY

2.1.

49

Thực trạng phát triển năng lực nhận thức khoa học
của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường

2.2.

sĩ quan Lục quân 2 hiện nay
Một số giải pháp cơ bản phát triển năng lực nhận

49

thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân
đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


65
85
87
91


3
Nhận thức khoa học là một thành quả vĩ đại của trí tuệ con người, có
vai trị quan trọng đối với đời sống con người và quá trình phát triển của xã
hội. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại đã và đang mang lại những biến đổi sâu sắc, to lớn trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Sự phát triển đó làm cho tri thức khoa học trở thành sức
mạnh, tài sản của mỗi quốc gia. Do vậy, mỗi quốc gia dân tộc muốn phát
triển, đều cần có tiềm lực khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực bậc cao,
phù hợp với trình độ phát triển của thời đại, địi hỏi phải khơng ngừng vươn
lên làm chủ những tri thức khoa học mới hiện đại.
Hiện nay, sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng “Quân đội
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” đã và đang đặt
ra những yêu cầu mới đối với công tác giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực chất
lược cao. Đặc biệt là đào tạo đội ngũ cán bộ sĩ quan của Đảng trong quân đội,
nhất là đội ngũ sĩ quan chỉ huy cấp phân đội - cấp trực tiếp huấn luyện quân sự
và chính trị cho bộ đội; trực tiếp chỉ huy chiến đấu và duy trì hoạt động sẵn sàng
chiến đấu của đơn vị và các phân đội thuộc quyền phải có sự phát triển tồn diện
về mọi mặt, trong đó có phát triển năng lực nhận thức khoa học. Bởi vì, phát
triển năng lực nhận thức khoa học nhằm nâng cao trình độ tri thức khoa học,
phương pháp tư duy và khả năng vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn bảo
đảm cho họ thực hiện tốt cương vị chức trách được giao.
Trường sĩ quan Lục quân 2 là một trung tâm đào tạo sĩ quan của

Quân đội nhân dân Việt Nam. Có nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ sĩ quan
chỉ huy cấp phân đội - nguồn cán bộ kế cận, quan trọng ở các đơn vị quân
đội phía Nam. Những năm qua, nhà trường đã có nhiều chủ trương, biện
pháp, tích cực đổi mới nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục - đào tạo,


4
trong đó đặc biệt chú trọng đến bồi dưỡng, phát triển nâng cao năng lực
nhận thức khoa học của học viên. Vì vậy, đã đào tạo được một đội ngũ sĩ
quan sau khi tốt nghiệp ra trường vừa có hệ thống tri thức toàn diện, vừa
chuyên sâu chuyên ngành quân sự, biết vận dụng tri thức vào phát hiện và
giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình quản lý, huấn luyện,
giáo dục bộ đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Tuy nhiên, so với mục tiêu yêu cầu đào tạo việc phát triển năng lực nhận
thức khoa học của học viên còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cả trong nhận thức
và tổ chức thực hiện. Một số cán bộ, giảng viên chưa thật sự coi trọng bồi dưỡng
phát triển, nâng cao năng lực nhận thức khoa học của học viên; trong khi đó, đối
với học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay,
chưa nhận thức đầy đủ về vai trò nhận thức khoa học và phát triển năng lực
nhận thức khoa học trong quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Do đó, một
số học viên cịn có những hạn chế về nhận thức khoa học như: tư duy cịn chủ
quan, máy móc, thụ động thiếu linh hoạt, quyết đốn và sáng tạo; khả năng
phân tích và tổng hợp, trừu tượng hóa và khái quát hóa chưa sâu; liên hệ và vận
dụng tri thức khoa học vào xem xét, lý giải những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn quân sự và thực tiễn giáo dục - đào tạo của nhà trường cịn yếu.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống những vấn đề lý
luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp cơ bản phát triển năng lực nhận
thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan
Lục quân 2 hiện nay là vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa cơ bản lâu dài.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Vấn đề nhận thức khoa học nói chung, nhận thức khoa học trong lĩnh
vực qn sự nói riêng, ln được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Liên quan đến vấn đề nhận thức và nhận thức khoa học, đã có sự đề
cập của nhiều tác giả với các cơng trình khoa học cụ thể như: Ngơ Đình Xây


5
(1993), Phương pháp nhận thức khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải (1998), Tư duy khoa học trong cách mạng
khoa học - công nghệ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Duy Quý
(1999), Nhận thức thế giới vi mô, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Bùi Mạnh
Hùng (2004), “ Tiếp cận một số vấn đề về nhận thức khoa học”, Tạp chí Triết
học, 8(159).…Với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các cơng trình trên đã
luận giải và làm rõ nhiều vấn đề về nhận thức khoa học, vai trò của nhận thức
khoa học trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là nhận thức khoa
học trong lĩnh vực hoạt động quân sự.
Bàn về Phương pháp nhận thức khoa học, tác giả Ngơ Đình Xây đã đi
sâu luận giải hệ thống phương pháp nhận thức khoa học, trong đó có phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, và những
phương pháp nhận thức khoa học chung, phương pháp biện chứng mácxít.
Tác giả Lê Hữu Nghĩa, Phạm Duy Hải đã chỉ ra những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, yêu cầu của tư duy trong cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại. Đồng thời, cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại đã đem lại khả năng, điều kiện mới cho sự phát triển tư duy của loài
người lên một bước mới.
Cơng trình khoa học nhận thức thế giới vi mơ tác giả Nguyễn Duy Q
đã phân tích tính quy luật tất yếu của q trình nhận thức của lồi người; đồng
thời, hướng tới thế giới vĩ mơ và thế giới vi mơ. Trên cơ sở đó, đã hệ thống hố
và phân tích những thành tựu của khoa học cuối thế kỷ XIX, đặc biệt là các
thành tựu của vật lý học của thế kỷ XX. Với những thành tựu của con người

khám phá thế giới vi mô vừa là cơ sở, vừa là sự đòi hỏi con người về khả năng
và phương pháp nhận thức mới.
Dưới góc độ bài báo khoa học, tác giả Bùi Mạnh Hùng đã luận giải
xung quanh vấn đề nhận thức của các quan điểm khác nhau trong lịch sử triết


6
học. Từ đó, tác giả đi sâu nghiên cứu những quan điểm của các nhà kinh điển
về nhận thức khoa học và những vấn đề có liên quan như: ý thức, tư duy…
Trên cơ sở quan điểm của các nhà mácxít tác giả cho rằng: nhận thức khoa
học là quá trình phản ánh tự giác, tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của
con người thông qua thực tiễn; nhằm đạt tới hệ thống tri thức đúng đắn về tự
nhiên, xã hội và các lĩnh vực cụ thể khác, nâng cao khả năng tư duy và hiệu
quả hoạt động thực tiễn của con người. Đồng thời, tác giả chỉ ra các đặc trưng
cơ bản của nhận thức khoa học để phân biệt với nhận thức thơng thường và
các loại hình nhận thức khác.
Liên quan đến nhận thức khoa học trong lĩnh vực qn sự, có các tác
giả với các cơng trình khoa học: Đề tài khoa học KX. HV -02-03 “Hoạt động
khoa học của Học viện chính trị quân sự (1986-2005) thành tựu và kinh nghiệm”
(2005) của tập thể tác giả do Tiến sĩ Nguyễn Bá Dương chủ biên; Đào Văn Tiến
(1998), “Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội
Quân đội nhân dân Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội; Lê Quý Trịnh
(2001), “Phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân
Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội; Bùi Mạnh Hùng (2004), “Vai trò
nhận thức khoa học trong hoạt động quân sự của sĩ quan phân đội quân đội ta
hiện nay”, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội…Các công trình khoa học trên đã
nghiên cứu làm rõ vị trí, vai trò của nhận thức khoa học và hoạt động nghiên cứu
khoa học đối với nhiệm vụ giáo dục - đào tạo và thực tiễn hoạt động quân sự.
Đề tài nghiên cứu hoạt động khoa học của Học viện chính trị quân sự từ
năm 1986 đến năm 2005, tập trung làm rõ đặc điểm hoạt động khoa học trong

môi trường khoa học xã hội nhân văn quân sự, hoạt động khoa học có mối quan
hệ chặt chẽ với hoạt động giáo dục đào tạo của cán bộ chính trị và giảng viên
khoa học xã hội nhân văn quân sự. Hoạt động khoa học đã đi sâu nghiên cứu
lĩnh vực khoa học quân sự và nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản trong lĩnh


7
vực khoa học xã hội nhân văn quân sự. Hoạt động khoa học tập trung nghiên
cứu những vấn đề lý luận cơ bản làm cơ sở nâng cao chất lượng dạy – học và
đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại trong quá trình đổi mới đất nước. Đề
tài đã khẳng định hoạt động khoa học ở Học viện Chính trị quân sự là một
bộ phận đặt thù của hoạt động khoa học xã hội nhân văn quốc gia, gắn liền
và không tách rời công tác tư tưởng, lý luận quân sự của Đảng và của quân
đội. Đề tài làm rõ nhiện vụ của hoạt động khoa học đối với công tác giáo
dục - đào tạo; đồng thời chỉ ra những kinh nghiệm trong hoạt động khoa
học, giúp cho các nhà khoa học có cơ sở để khái quát thành những tiêu chí
trong hoạt động khoa học của Học viện. Đề tài đã đưa ra những phương
hướng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động khoa học của Học viện Chính
trị quân sự. Phát huy tốt nhất tiềm lực khoa học hiện có của Học viện, chủ
động vượt qua mọi khó khăn, động viên tinh thần lao động sáng tạo của cán
bộ, giảng viên để tạo ra bước chuyển biến mới về chất lượng, hiệu quả các
cơng trình, đề tài khoa học, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công
nghệ thông tin và kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn giáo dục, xây
dựng Học viện ngang tầm một trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội nhân
văn trong qn đội và có uy tín của quốc gia.
Bàn về vấn đề “Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan
cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam”, tác giả Đào Văn Tiến cho rằng
năng lực tư duy sáng tạo là “Tổng hợp khả năng ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng,
trừu tượng hoá, khái qt hố, xử lý thơng tin trong q trình phản ánh và
sáng tạo ra tri thức mới về đối tượng để chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con

người ngày càng đạt hiệu quả cao”. Thơng qua đó, tác giả chỉ rõ cấu trúc năng
lực tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội trong Quân đội ta hiện
nay, như các yếu tố: Khả năng ghi nhớ, tái hiện, liên tưởng, trừu tượng hoá
khái quát và xử lý thông tin...


8
Tiếp cận vấn đề “Phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ trong Quân
đội nhân dân Việt Nam”, tác giả Lê Quý Trịnh đã làm rõ khái niệm phát triển
năng lực trí tuệ là “khả năng hoạt động của trí tuệ trong việc tìm kiếm, khám
phá, tích luỹ tri thức và vận dụng tri thức vào giải quyết những nhiệm vụ do
cuộc sống đặt ra, đảm bảo cho hoạt động của con người đạt chất lượng và
hiệu quả cao” [40, tr.17]. Theo đó, tác giả chỉ ra cấu trúc cơ bản của năng lực
trí tuệ gồm: trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của
con người; luận giải làm rõ các yếu tố cấu thành năng lực và mối quan hệ
giữa các yếu tố đó trong sự hình thành và phát triển năng lực của mỗi con
người, cung nhu trong quá trình phát triển phẩm chất đạo đức, năng lực công
tác của đội ngũ sĩ quan trẻ. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp có tính chất
phương pháp luận góp phần nâng cao năng lực công tác của đội ngũ sĩ quan
trẻ trong giai đoạn cách mạng mới.
Liên quan đến năng lực nghiên cứu khoa học và nâng cao năng lực
nghiên cứu khoa học, có các cơng trình: Nguyễn Văn Lan (2004), “Phát triển
năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ
quan Lục quân 2 hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội; Trần Văn Luận
(2008), “Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên khoa
học xã hội nhân văn ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
Triết học, Hà Nội; Dương Quang Hiển ( 2007), “Mối quan hệ giữa phát triển
năng lực sư phạm và phát triển tư duy khoa học của học viên đào tạo giáo viên
khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện chính trị quân sự”, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Hà Nội. Các cơng trình khoa học trên đã nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý

luận và thực tiễn về năng lực nghiên cứu khoa học, chỉ ra tính quy luật và giải
pháp, phát triển, nâng cao năng lực của con người trong nghiên cứu khoa học.
Tác giả Nguyễn Văn Lan cho rằng năng lực nghiên cứu khoa học là khả
năng về trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng sáng tạo của con


9
người được sử dụng trong việc phát hiện, giải quyết đúng đắn những vấn đề
thực tiễn nảy sinh, nhằm nâng cao nhận thức và hiệu quả trong hoạt động thực
tiễn. Đồng thời, tác giả đưa ra khái niệm phát triển năng lực nghiên cứu
khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân 2 là
không ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri thức khoa học, nâng cao ph ương
pháp tư duy và khả năng vận dụng linh hoạt sáng tạo tri thức khoa học
vào phát hiện đúng đắn những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh trong q
trình học tập, rèn luyện và cơng tác sau này. Ngồi ra, tác giả chỉ ra vai
trị, tính quy luật và đề ra giải pháp phát triển năng lực nghiên cứu khoa
học cho học viên ở nhà trường.
Bàn về mối quan hệ giữa phát triển năng lực sư phạm và phát triển tư
duy khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở
Học viện Chính trị quân sự, t á c giả Dương Quang Hiển làm rõ quan niệm về
phát triển năng lực sư phạm là “quá trình nhận thức và hoạt động của các chủ
thể trên cơ sở nắm vững tính quy luật, để làm chuyển hố, hồn thiện các mặt
cấu trúc của năng lực sư phạm theo mục tiêu, mơ hình đào tạo giáo viên khoa
h?c xó h?i nhõn van trong các nhà trường quân đội ở các giai đoạn lịch sử nhất
định” [15, tr.12]; trên cơ sở đó đi sâu luận giải mối quan hệ năng lực sư phạm
với tư duy khoa học, đó là sự tác động ràng buộc, quy định, chuyển hoá lẫn
nhau của hai mặt đối lập trong một thể thống nhất. Mối quan hệ này xuất phát
từ bản chất của quá trình giảng dạy và yêu cầu của hoạt động sư phạm trong
công tác giáo dục – đào tạo người giảng viên khoa học xã hội nhân văn. Tiếp
cận mối quan hệ trên hai góc độ là vai trị phát triển năng lực sư phạm đối với

phát triển tư duy khoa học và ngược lại vai trò phát triển tư duy khoa học đối
với phát triển năng lực sư phạm của người giảng viên khoa học xã hội nhân
văn. Theo đó, chỉ ra tính quy luật vận động của mối quan hệ này, từ đó tìm ra


10
cơ chế tác động để có phương hướng, giải pháp cho công tác giáo dục – đào tạo
đội ngũ giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở Học viện chính trị qn sự.
Như vậy, dưới nhiều góc độ khác nhau các cơng trình khoa học đã
làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn nhận thức khoa học và vai trò của
nhận thức khoa học trong hoạt động thực tiễn của con người, trong đó có
lĩnh vực hoạt động quân sự. Qua đó, đã cung cấp nhiều luận cứ có giá trị để
tác giả nghiên cứu phát triển năng lực nhận thức khoa học của học viên đào
tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường. Tuy nhiên, do mục
đích và phạm vi nghiên cứu, cho nên chưa có cơng trình khoa học nào
nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về phát triển năng lực nhận thức
khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục
quân 2 hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp cơ bản phát
triển năng lực nhận thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ thực chất và đặc điểm phát triển năng lực nhận thức khoa học
của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2.
- Đánh giá thực trạng phát triển năng lực nhận thức khoa học của học
viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản phát triển năng lực nhận thức khoa học

của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu


11
Phát triển năng lực nhận thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan
cấp phân đội.
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu phát triển năng lực nhận khoa học của học viên đào tạo sĩ
quan cấp phân đội bậc đại học ở Trường sĩ quan Lục quân 2 hiện nay. Tư liệu,
số liệu, điều tra từ năm 2003 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các
Nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Bộ quốc phòng về giáo dục đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới.
* Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa trên tình hình thực tiễn phát triển năng
lực nhận thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ
quan Lục quân 2. Các báo cáo tổng kết hàng năm của các cơ quan, đơn vị và
nhà trường đã công bố và kết quả khảo sát, điều tra của tác giả về chất lượng
giáo dục - đào tạo ở Trường sĩ quan Lục quân 2.
* Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, cùng với sử dụng các phương pháp
nhận thức khoa học chung: Phân tích và tổng hợp; hệ thống và cấu trúc, khái qt hố
và trừu tượng hố; lơgíc và lịch sử ; phương pháp chuyên gia, điều tra xã hội học.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học
giúp các cơ quan, đơn vị trong nhà trường vận dụng vào phát triển năng lực
nhận thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội, đáp ứng yêu
cầu nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo trong tình hình mới. Kết quả
nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu,

giảng dạy trong các nhà trường quân đội.
6. Kết cấu của luận văn


12
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
Chương 1
THỰC CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
NHẬN THỨC KHOA HỌC CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN
CẤP PHÂN ĐỘI Ở TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2
1.1. Thực chất phát triển năng lực nhận thức khoa học của học viên
đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2
1.1.1. Nhận thức khoa học và năng lực nhận thức khoa học của học
viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở trường sĩ quan Lục quân 2
* Nhận thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở
Trường sĩ quan Lục quân 2
Nhận thức khoa học, với tư cách là một loại hình nhận thức luận mác xít,
nhận thức khoa học được hình thành một cách tự giác, mang tính trừu tượng, khái
quát cao nhằm hướng tới nắm bắt quy luật, bản chất của sự vật, hiện tượng. Nhận
thức khoa học lấy hiện thực khách quan làm điểm xuất phát, là phương pháp dựa
trên hệ thống tri thức khoa học và các thao tác của tư duy khoa học, dựa vào lý trí
của con người chứ không phải dựa vào cái chủ quan, duy ý, dựa vào lịng tin mù
qng và hồn tồn khác với nhận thức có tính chất duy tâm, duy ý chí. Tuy
nhiên, nhận thức khoa học là một quá trình biện chứng phức tạp, có thể tiếp cận
theo các góc độ khác nhau: theo nguồn gốc (chủ thể, khách thể, thực tiễn); theo
trình độ (trực quan khoa học, kinh nghiệm khoa học, lý luận khoa học); theo các
vòng khâu (cảm tính, lý tính…). Trong phạm vi luận văn của mình, tác giả tiếp
cận cấu trúc nhận thức khoa học từ các thành tố: tri thức khoa học; phương pháp
tư duy khoa học; khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn.

Các yếu tố cấu thành nhận thức khoa học đều có vị trí, vai trị khác
nhau, song có mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động qua lại chuyển hóa


13
lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Nếu tri thức khoa học là cơ sở ban đầu, nền
tảng cần thiết của các thành tố, thì phương pháp tư duy khoa học với tư cách là
công cụ, phương tiện để “giải phẫu” của hệ thống tri thức đang có và tìm kiếm
chân lý; đồng thời, khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn, làm cho nhận thức
khoa học thực sự xuất phát từ thực tiễn và quay trở lại phục vụ hoạt động thực
tiễn. Nếu tuyệt đối hóa hay xem nhẹ bất kỳ một thành tố nào đều dẫn tới sai
lầm trong nhận thức và tác động tiêu cực đến hoạt động thực tiễn. Xem xét
nghiên cứu nhận thức khoa học phải nắm rõ những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, nhận thức khoa học mang tính khách quan, thơng qua q trình
định hướng tự giác, tích cực, sáng tạo để tìm ra chân lý.
Nhận thức khoa học phản ánh đúng bản chất, quy luật sự vận động,
phát triển của các khách thể trong tự nhiên, xã hội và tư duy, tồn tại một cách
độc lập. Bản thân khách thể và đối tượng nghiên cứu của nhận thức khoa học
là các sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, nhận thức khoa học phản ánh
trung thành các sự vật, hiện tượng, q trình như vốn có của nó chứ không
xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.
Việc nhận thức chân lý khách quan, thơng qua q trình định hướng tự
giác, tích cực. Địi hỏi chủ thể nhận thức không chỉ nắm vững các phương
tiện, phương pháp nghiên cứu mà cịn phải có định hướng giá trị đúng đắn;
đồng thời, phải là những người có trình độ trí tuệ cao, có năng lực tư duy sâu
rộng, linh hoạt, mềm dẻo trong hoạt động thực tiễn…nhằm nắm bắt bản chất,
quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong thực tế, nhận thức
khoa học không phải là hoạt động diễn ra tức thì và đạt kết quả xong xuôi
trong một thời điểm nhất định, mà là một q trình phản ánh liên tục, nó hồn
tồn xa lạ với những biểu hiện giản đơn, cứng nhắc, bất biến và tính thụ

động… đối lập với các quan điểm duy tâm, siêu hình về nhận thức.
Hai là, nhận thức khoa học mang tính hệ thống, có luận cứ, sáng tạo ra
hệ thống tri thức khoa học mới.


14
Tính hệ thống là đặc trưng quan trọng để phân biệt nhận thức khoa học
với nhận thức thông thường và các loại hình nhận thức khác nhau. Nhận thức
khoa học phản ánh hiện thực khách quan với tư cách là khách thể của nhận
thức thế giới hiện thực khách quan tồn tại trong tính hệ thống. Cho nên, nhận
thức của chủ thể chỉ đạt tới chân lý khi tôn trọng tính hệ thống của khách thể,
hay tính hệ thống của nhận thức khoa học là tính hệ thống của chủ thể và suy
đến cùng là hình ảnh chủ quan phản ánh khách thể trong một thể thống nhất.
Nó biểu hiện các giai đoạn của quá trình nhận thức như mục đích (mục đích
trước mắt, mục đích lâu dài, phương pháp, phương tiện…). Như vậy, với tư
cách là sản phẩm nhận thức của con người, nhận thức khoa học gồm hệ thống
các khái niệm, các phạm trù, quy luật…phản ánh hiện thực khách quan trong
tính chỉnh thể tồn diện, ln vận động, phát triển.
Nhận thức khoa học mang tính luận cứ được minh chứng bởi sự kiểm
tra thông qua thực nghiệm, thực tiễn; đồng thời, giúp con người phát hiện ra
những tri thức mới, đúng quy luật, tiến trình vận động và phát triển của tự
nhiên, xã hội mà nhận thức thơng thường khơng thể có được, đó là q trình
phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào
đầu óc người. Trên cơ sở các thao tác của tư duy như khái niệm, phán đốn,
suy luận… con người có thể phản ánh đúng đắn quá khứ, hiện tại và tương lai
với tất cả các yếu tố, các điều kiện đã biết để rút ra những kết luận mới,
những tiên đoán và dự báo những khoa học mới. Sự sáng tạo ra tri thức mới là
một đặc trưng chủ yếu của nhận thức khoa học.
Ba là, nhận thức khoa học đòi hỏi yêu cầu cao về tính trừu tượng hố,
khái qt hố, có mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn.

Nhận thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách
quan, có mục đích chỉ đạo hoạt động thực tiễn, do đó phải được định hình bằng
các khái niệm, phạm trù, quy luật, phản ánh ngày càng sâu sắc thế giới khách
quan thơng qua các phương pháp khái qt hóa, trừu tượng hóa. Q trình nhận


15
thức của con người phải thông qua các thao tác tư duy để khám phá nhận thức
chân lý. Suy cho cùng bản chất nhận thức khoa học là sự phản ánh hiện thực
khách quan từ những hình ảnh trực tiếp về sự vật, hiện tượng, tư duy loại bỏ cái
ngẫu nhiên, những mặt thứ yếu, phát hiện ra những mặt, những thuộc tính,
những mối quan hệ tất yếu. Thơng qua trừu tượng hóa, khái quát hóa nhằm xác
định liên hợp các thuộc tính vào một lớp chung, thể hiện ra những cái chung
trong một loạt các khách thể riêng, từ đó hình thành nên những khái niệm khoa
học phù hợp tương ứng. Vì vậy, trừu tượng hóa, khái qt hóa là sự thể hiện đặc
trưng cho tính biện chứng phức tạp của quá trình nhận thức khoa học, là cơ sở để
phân biệt với nhận thức thông thường và các loại nhận thức khác.
Nhận thức khoa học có mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn, đây là đặc
trưng cơ bản để phân biệt giữa nhận thức duy vật với nhận thức duy tâm, tơn
giáo. Mục đích của nhận thức khoa học khơng chỉ giải thích thế giới mà cao
hơn là cải tạo thế giới, con người với tư cách vừa là sản phẩm của thế giới vật
chất, vừa là chủ thể sáng tạo, năng động trong cải tạo tự nhiên, xã hội và
chính bản thân mình. Trong q trình tồn tại, con người khơng phải chỉ sống
thích nghi, phù hợp với điều kiện khách quan vốn có, mà ln biến đổi khách
quan theo nhu cầu, lợi ích của mình. Mặt khác, nếu giữa nhận thức thông
thường với thực tiễn có sự liên hệ gần gũi, trực tiếp với đời sống hiện thực, thì
trong nhận thức khoa học sự liên hệ với thực tiễn mang tính khái quát và sâu
sắc hơn. Thực tế cho thấy, có những kiểu nhận thức như nhận thức thuần túy,
lý luận sách vở… không coi trọng thực tiễn, không lấy thực tiễn làm tiêu
chuẩn để kiểm tra chân lý, đó chính là thứ lý luận sng, giáo điều, phản khoa

học. Vì vậy, nhận thức khoa học có vai trị to lớn trong chỉ đạo thực tiễn và
chính hoạt động thực tiễn là thước đo chân lý của nhận thức khoa học.
Bốn là, nhận thức khoa học có sự thống nhất giữa nội dung (tri thức
khoa học) với hình thức diễn đạt (ngơn ngữ khoa học).


16
Nhận thức khoa học phản ánh hiện thực khách quan không chỉ thông
qua hệ thống ngôn ngữ tự nhiên (hệ thống tín hiệu âm thanh và sau đó là chữ
viết), mà cịn sử dụng ngơn ngữ chun biệt (hệ thống lý luận bổ trợ được tạo
ra bằng cách trên cơ sở ngơn ngữ tự nhiên được chuyển hóa). Đặc biệt, nhận
thức ở trình độ lý luận, chủ thể phản ánh khách thể một cách gián tiếp, là giai
đoạn trừu tượng hóa, khái qt hóa cao những thuộc tính, những mối liên hệ
bản chất của sự vật, hiện tượng thành hệ thống lý luận tri thức khoa học. Do
vậy, phải sử dụng ngôn ngữ khoa học, hệ thống ngôn ngữ được xây dựng chặt
chẽ, rõ ràng và được sử dụng tương đối nhất quán, hình thành hệ thống vốn từ
phong phú đa dạng, cùng với cấu trúc ngôn ngữ khoa học tinh tế, giúp cho
con người ngày càng phản ánh chính xác và đầy đủ về đối tượng nhận thức.
Những đặc trưng của nhận thức khoa học, là cơ sở để phân biệt sự
khác nhau giữa nhận thức khoa học với nhận thức phản khoa học và các dạng
nhận thức khác. Đồng thời, giúp chúng ta rèn luyện và phát triển tư duy khoa
học, chính vì vậy phải dựa trên cơ sở lập trường duy vật biện chứng, lấy chủ
nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở thế giới quan, phương pháp luận và kim
chỉ nam cho mọi hoạt động của nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn.
Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân. Là
một bộ phận trong hệ thống nhà trường quân đội, cho nên cũng như các đối tượng
học viên khác trong hệ thống học viện, nhà trường quân đội, học viên đào tạo sĩ
quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2 cũng mang những đặc điểm
chung của đối tượng học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội nói chung. Song, do
đặc thù khu vực đứng chân, tính chất hoạt động quân sự vùng đồng bằng sông

nước, nên học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2 có
những đặc điểm riêng, được thể hiện trên những nội dung sau:
Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2
được tuyển chọn theo tính đặc thù vùng miền.


17
Học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục
quân 2 hầu hết ở lứa tuổi thanh niên, tuổi đời còn rất trẻ và ít nhiều đã có
những kinh nghiệm nhất định trong cuộc sống. Hầu hết họ là hạ sĩ quan, binh
sĩ và thanh niên tuyển sinh quân sự thường ở độ tuổi từ (18 - 20) là chủ yếu.
Họ được sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, được giáo dục đầy đủ, chu đáo của nhà trường, gia
đình, địa phương, xã hội…, đó là lớp thanh niên có điều kiện học tập, lĩnh hội
những tri thức mới, có nhiều hoài bão, ước mơ khát vọng vươn lên, ham hiểu
biết, năng động, sáng tạo trong cuộc sống, có xu hướng nghề nghiệp rõ ràng,
có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn để trở thành sĩ quan phục vụ lâu dài
trong quân đội. Với đặc điểm đối tượng “đầu vào” là những học sinh và quân
nhân có đủ tiêu chuẩn về lai lịch chính trị, phẩm chất đạo đức, có tri thức cơ
bản của bậc học phổ thông trung học, có sức khỏe đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
học tập, rèn luyện trong môi trường quân đội. Đây là những điều kiện thuận
lợi để người học phát triển năng lực nhận thức khoa học trong quá trình học
tập, rèn luyện tại trường. Tuy nhiên, ở họ cũng cịn có những mặt hạn chế nhất
định ảnh hưởng tới quá trình phát triển năng lực khoa học. Trước những điều
kiện sinh hoạt, học tập, rèn luyện vất vả, căng thẳng thì tính kiên trì, sức chịu
đựng của học viên cịn kém, hành động hay bột phát, dễ dẫn tới chán nản, bi
quan, ngại học tập, rèn luyện. Số học viên là quân nhân do đã trải qua rèn
luyện trong hoạt động thực tiễn quân sự ở đơn vị cơ sở nên có nhiều mặt tích
cực, tính tự giác và ý thức tổ chức kỷ luật tốt hơn, bước đầu xác định tốt động
cơ học tập, rèn luyện. Nhưng, do thời gian ở đơn vị chưa nhiều, nhân cách của

người quân nhân mới bước đầu hình thành, nên chưa có tính ổn định. Vì vậy,
phát triển năng lực nhận thức khoa học của học viên phải tồn diện cả về trình
độ tri thức, phương pháp tư duy khoa học; đồng thời, phải nâng cao năng lực
vận dụng sáng tạo những tri thức được trang bị vào giải quyết những nhiệm


18
vụ cụ thể trong thực tiễn hoạt động quân sự. Tuy nhiên, điểm khác biệt của
học viên đầu vào ở trường sĩ quan lục quân 2 là vừa theo chế độ cử tuyển, vừa
thi tuyển theo vùng miền, cho nên chất lượng học viên rất đa dạng và không
đồng đều về trình độ. Mặt khác, do tuổi đời và trải nghiệm thực tiễn chênh
lệch dẫn tới sự khác biệt về kinh nghiệm, vốn sống và ứng xử quan hệ xã hội.
Ở độ tuổi này, nhu cầu và sự hiểu biết năng động, nhạy cảm với cái mới, có
nhiều hồi bão, ước muốn, khát vọng vươn lên, song khả năng nhận thức và
sự sáng tạo còn nhiều hạn chế.
Học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2 đa
dạng về cơ cấu vùng miền, dân tộc và thành phần xuất thân.
Học viên ở Trường sĩ quan Lục quân 2 chủ yếu xuất thân từ nông dân, cơng
nhân, gia đình viên chức nhà nước ở các tỉnh, thành trên địa bàn từ Quảng Trị trở
vào, có một số học viên là con em các dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Nguyên như:
Ê đê, Giarai, Bana…dân tộc Chăm ở các tỉnh miền Trung Nam bộ, dân tộc
Khơme ở các tỉnh miền Tây Nam bộ. Vì vậy, chịu ảnh hưởng rất lớn tới phong tục
tập quán, lối sống, thói quen của vùng miền, dân tộc, thành phần xuất thân. Nhìn
chung, học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2 có tinh
thần tự chủ, tự lập, chịu khó, chịu khổ. Tuy nhiên, một số học viên trong quá trình
học tập, rèn luyện cịn có biểu hiện dựa dẫm, ỷ lại, ngại học tập, rèn luyện…
Mặt khác, quá trình đào tạo của nhà trường luôn chịu sự tác động của
môi trường kinh tế - xã hội khu vực đóng quân, Trường sĩ quan Lục quân 2
đóng quân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai - địa bàn thuộc tam giác phát triển kinh
tế - xã hội năng động của đất nước. Trên địa bàn đứng chân của nhà trường có

3 khu cơng nghiệp là Tam Phước, An Phước và khu công nghiệp Long Thành.
Các khu cơng nghiệp đã thu hút hàng chục nghìn lao động vào làm việc, trong số
đó có một lượng lao động khơng nhỏ là người ở các tỉnh phía Bắc di cư vào. Sự
phát triển của các khu công nghiệp đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt kinh tế - xã hội


19
của địa phương, tốc độ đơ thị hóa diễn ra nhanh, đời sống của nhân dân được cải
thiện đáng kể. Tuy nhiên, sự phát triển của các khu công nghiệp đã làm gia tăng
các vấn đề xã hội, các mối quan hệ xã hội của học viên ngày càng có xu hướng
mở rộng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập, rèn luyện của học viên.
Điểm đáng chú ý là hiện nay, liên quan đến khu vực địa bàn đóng quân của nhà
trường có tới 13 nhà thờ Thiên Chúa giáo, 12 ngôi chùa của Phật giáo thường
xuyên tổ chức hành lễ nên các tín đồ, phật tử ở địa phương và các nơi tụ tập về rất
đông. Theo đó, có nhiều phần tử q khích trà trộn trong các tín đồ, gây mất ổn
định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mặt khác, khu vực nhà trường đóng
qn hiện nay vẫn cịn một số ngụy quân, ngụy quyền đi cải tạo về, hoặc mới hồi
hương nhưng vẫn lén lút hoạt động chống phá cách mạng [41, tr.4-5]. Vì vậy, tình
hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội trên địa bàn đóng qn của nhà trường
hết sức phức tạp, tác động không nhỏ đến tâm lý, thái độ, động cơ học tập của
người học qua sự so sánh về lựa chọn nghề nghiệp, biểu hiện lối sống thực dụng,
sự thiếu cố gắng phấn đấu vươn lên trong học tập, học tủ, học lệch.
Do đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ, nhà trường thường thực hiện nhiệm vụ
huấn luyện quân sự trên địa bàn rộng lớn thuộc các tỉnh Đồng Nai, Bà RịaVũng Tàu, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang; tính chất huấn luyện quân sự chủ
yếu ở vùng trung du, đồng bằng sông nước, điều kiện địa hành khó khăn, phức
tạp ảnh hưởng đến tâm lý, trí tuệ, sức khỏe. Ngồi ra, nhà trường cịn thường
xun huấn luyện dã ngoại kết hợp làm cơng tác dân vận nên học viên có điều
kiện để tiếp xúc với các thành phần, tầng lớp xã hội dân cư trong vùng.
Những đặc điểm của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ
quan Lục quân 2 vừa có cái chung của lứa tuổi thanh niên, sinh viên; vừa có

những nét riêng, ở họ vừa có những đặc điểm phù hợp với hoạt động quân sự,
vừa có xu hướng nghề nghiệp rõ ràng phấn đấu trở thành người sĩ quan quân
đội. Điểm chung nhất là đều có sức khoẻ, có trình độ tri thức, có xu hướng


20
nghề nghiệp ổn định có khả năng đáp ứng với mục tiêu, yêu cầu đào tạo ở nhà
trường. Đây là điều kiện thuận lợi để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và
phát triển năng lực nhận thức khoa học của người học.
Trên cơ sở phân tích nhận thức khoa học và đặc điểm của học viên đào
tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 có thể quan niệm:
Nhận thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường Sĩ
quan Lục quân 2 là quá trình nhận thức tự giác mang tính trừu tượng khái
quát ngày một cao hướng tới nắm bắt bản chất các nội dung học tập, nghiên
cứu tại trường của người học. Thực chất quan niệm này là đề cập tới tri thức,
phương pháp tư duy, khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn của học viên
đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở trường sĩ quan Lục quân 2. Nhận thức khoa
học được xác định vừa là mục tiêu hướng tới, vừa là phương pháp trong quá
trình học tập, nghiên cứu của người học tại trường.
Tri thức khoa học với tư cách vừa là kết qủa, vừa là cơng cụ của q
trình nhận thức khoa học nói chung, nhận thức khoa học của học viên nói
riêng. Hệ thống tri thức trang bị cho người học trong quá trình đào tạo ở nhà
trường là hệ thống lý luận, hệ thống khoa học quân sự, kinh nghiệm khoa học
quân sự đã được đúc kết, khái quát trên nền tảng tri thức khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sau thời gian đào tạo ở nhà trường,
người học có mặt bằng kiến thức tổng hợp, tồn diện cả về chính trị, quân sự,
khoa học chuyên ngành; từng bước hình thành và phát triển hệ thống tri thức
chuyên ngành, phương pháp tư duy qn sự, có trình độ tổ chức, điều hành và
quản lí đơn vị. Trình độ tri thức của người học viên cịn được tích lũy qua thực
tiễn lao động, học tập, nghiên cứu khoa học của người học, nơi mà trình độ

năng lực có điều kiện thường xun bộc lộ và phát triển. Thực tiễn quá trình
học tập, rèn luyện ở nhà trường đã tạo ra môi trường xã hội cho nghiên cứu,
tìm tịi sáng tạo ra tri thức khoa học, phát hiện cái mới, cái hữu ích góp phần


21
phần phát triển năng lực nhận thức khoa học của học viên trong quá trình đào
tạo. Đồng thời, trình độ tri thức của học viên còn phụ thuộc vào yếu tố bên
trong của chính họ như khả năng tư duy, khả năng sáng tạo, tâm lí, tình cảm, tố
chất thơng minh… Những yếu tố tâm lý này có vai trị quan trọng trong tích lũy
và thể hiện năng lực nhận thức của người học.
Phương pháp tư duy, là một trong các thành tố cơ bản của nhận thức khoa
học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Trong quá trình giáo dục - đào
tạo cùng với việc trang bị hệ thống tri thức khoa học toàn diện, phải chú trọng
bồi dưỡng nâng cao phương pháp tư duy khoa học cho người học, đặc biệt là
phương pháp tư duy biện chứng duy vật. Bởi vì, thực tiễn hoạt động quân sự
trong điều kiện biến động, phức tạp, nhiều yếu tố ngẫu nhiên, các tình huống
chiến đấu xuất hiện và chuyển hố mau lẹ ngồi dự đốn. Do đó, để phản ánh
đúng đối tượng, tìm được cái bản chất, quy luật của nó địi hỏi người học viên
phải có phương pháp tư duy thích hợp. Trong đó, phương pháp tư duy biện
chứng duy vật là phương pháp quan trọng, chủ yếu nhất. Phương pháp tư duy
biện chứng góp phần trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học, giúp
cho người học viên nhận thức đúng đắn về thế giới khách quan, phát hiện ra bản
chất, quy luật các sự vật hiện tượng, quá trình hoạt động quân sự diễn ra; phát
hiện và giải quyết linh hoạt những mâu thuẫn nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống.
rèn luyện cho người học tính sâu sắc, linh hoạt, mềm dẻo trong tư duy, giúp
người học giải quyết đúng đắn mối quan hệ trong lĩnh vực hoạt động quân sự.
Để có phương pháp tư duy khoa học, địi hỏi người học phải có vốn tri
thức, trình độ tư duy cao làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của chủ thể. Đặc
biệt, người học viên với tư cách là chủ thể của tư duy phải nắm vững và vận

dụng linh hoạt, sáng tạo các nguyên tắc: khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ
thể, phát triển; những khái niệm, phạm trù, quy luật; những thao tác mà tư


22
duy sử dụng có tính khái qt và tính biện chứng cao như: phân tích và tổng
hợp, cụ thể và trừu tượng, lịch sử và lôgic…
Khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn là thành phần căn bản bên trong
nhận thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Vấn đề này trong
quá trình học tập ở nhà trường được biểu hiện thông qua việc quán triệt các
nguyên lý, lý luận gắn với thực tiễn, lý thuyết gắn với thực hành, nhà trường gắn
với đơn vị cơ sở. Qua đó, từng bước hình thành cách thức, biện pháp vận dụng
lý luận vào thực tiễn hoạt động quân sự phù hợp với cương vị, chức trách đảm
nhiệm sau khi tốt nghiệp ra trường. Theo chương trình đào tạo từng năm học
và môn học cụ thể, quá trình học tập và rèn luyện ở nhà trường, người học
được lần lượt đứng trên các cương vị như: tiểu đội trưởng, trung đội trưởng
và một số học viên được thực hành trên cương vị đại đội trưởng, thông qua đó
để người học hình thành cách thức, biện pháp, phương pháp tác phong chỉ
huy, quản lý và huấn luyện bộ đội; nâng cao khả năng nhận thức, quán triệt
các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và nhiệm vụ của cấp mình, từ đó cụ thể
hố thành chủ trương, biện pháp tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được
giao.
Như vậy, nhận thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội
ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 là nhận thức đang hình thành và phát triển, phản
ánh tính năng động, sáng tạo thực tiễn nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của nhà
trường và đời sống hoạt động quân sự. Là nấc thang, một “mắt khâu” của quá
trình phát triển tri thức khoa học của người học viên sĩ quan lên nhận thức
khoa học của người sĩ quan chỉ huy cấp phân đội binh chủng hợp thành sau
khi tốt nghiệp ra trường đạt trình độ đại học quân sự.
* Năng lực nhận thức khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân

đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2


23
Năng lực hiểu theo nghĩa chung nhất, là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc
tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; là phẩm chất tâm lý và sinh lý
tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với hiệu quả cao.
Mặt khác, năng lực của con người là sản phẩm của sự phát triển xã hội, năng lực
của con người không ngừng phụ thuộc vào hoạt động của bộ não mà cịn do trình
độ phát triển lịch sử lồi người quy định. Cùng với sự phát triển của thực tiễn lịch
sử xã hội, các dạng năng lực của con người phát triển vô cùng phong phú, đa
dạng. Mỗi lĩnh vực hoạt động khác nhau đòi hỏi con người với tư cách là chủ thể
hoạt động phải có khả năng tương ứng, phù hợp với yêu cầu khách quan của hoàn
cảnh, điều kiện xã hội lịch sử. Năng lực nói chung, năng lực nhận thức khoa học
nói riêng của con người ln gắn liền và không tách rời hoạt động lao động xã
hội, cùng với hệ thống giáo dục tương ứng. Theo đó, năng lực nhận thức khoa học
là khả năng bên trong của con người để họ tiến hành khám phá, thu nhận, sáng tạo
ra hệ thống tri thức mới và vận dụng vào hoạt động thực tiễn đạt kết quả cao.
Năng lực nhận thức là sự tác động tổng hợp của nhiều yêu tố như: trình độ tri
thức, phương pháp tư duy, khả năng vận dụng tri thức trong hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên, năng lực nhận thức không phải là cái trừu tượng, thần bí mà nó được
biểu hiện ra bên ngồi thơng qua hoạt động thực tiễn và chính thơng qua thực tiễn
mà năng lực của con người được hình thành, phát triển và hồn thiện. Trong tác
phẩm “Luận cương về Phoiơbắc” C.Mác đã khẳng định: “Đời sống xã hội về
thực chất là có tính thực tiễn” [26,tr.11]. Như vậy, thông qua hoạt động thực tiễn
mà con người đã “nhân đôi” thế giới hiện thực và cũng “nhân đơi” chính mình
trong thế giới tinh thần. Nhờ có hoạt động thực tiễn mà ý thức của con người ngày
càng phát sinh, phát triển và hồn thiện, nó giúp cho con người nhận thức sâu sắc
hơn về thế giới. Mặt khác, làm cho con người nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai
trị và sức mạnh của chính mình trước thế giới khách quan. Vì vậy, năng lực của

con người là một yếu tố thuộc sức mạnh bản chất người, nảy sinh, phát triển
phong phú và đa dạng trong hoạt động hàng ngày của họ.


24
Từ sự phân tích năng lực nhận thức khoa học và đặc điểm của học viên
đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội, có thể quan niệm: Năng lực nhận thức
khoa học của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân
2 là khả năng vận dụng hệ thống tri thức khoa học, phương pháp tư duy vào quá
trình khám phá, thu nhận tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lãnh đạo, chỉ huy của
người sĩ quan cấp phân đội vào quá trình học tập, rèn luyện tại trường.
Các yếu tố cấu thành năng lực nhận thức khoa học của học viên đào tạo
sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2 là một thể thống nhất, tác
động biện chứng lẫn nhau, song mỗi yếu tố có cấu trúc và vai trị riêng của nó.
Trình độ tri thức, là yếu tố cơ bản của năng lực nhận thức khoa học, là khả
năng hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy; là lượng thông tin mà
con người lĩnh hội được trong quá trình học tập, rèn luyện và hoạt động thực tiễn.
Trình độ tri thức của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục
quân 2 được cấu thành từ sự tác động hữu cơ của các tri thức như: tri thức khoa học
cơ bản, tri thức khoa học cơ sở, tri thức khoa học xã hội và nhân văn, tri thức khoa
học chuyên ngành quân sự. Mỗi tri thức khoa học tuy có vai trị khác nhau nhưng
có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, tri thức khoa học cơ bản
và khoa học cơ sở là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển của tri thức khoa học
chuyên ngành quân sự; ngược lại, tri thức khoa học chuyên ngành quân sự phát
triển, củng cố, hoàn thiện thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng; định
hướng chính trị, hướng dẫn nhận thức và hành động cách mạng của người học, là
cơ sở phát triển năng lực nhận thức khoa học của người học viên.
Do tính chất đặc thù của hoạt động quân sự diễn ra trong mọi điều kiện
khơng gian, thời gian, địa hình, thời tiết… nhất là hoạt động chiến đấu diễn ra
gay go, quyết liệt, phức tạp, tình huống diễn biến khó lường liên quan trực

tiếp đến sự sống và cái chết (sinh mệnh của từng con người). Vì vậy, phát
triển nhận thức khoa học trong lĩnh vực quân sự, đòi hỏi người học viên phải


25
có khả năng về trình độ khoa học qn sự sâu sắc. Khoa học nghệ thuật quân
sự, một hệ thống tri thức được rút ra từ hoạt động thực tiễn quân sự sử dụng
vào huấn luyện bộ đội, chuẩn bị mọi mặt cho quân đội sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu thằng lợi trong mọi tình huống. Hệ thống tri thức khoa học quân sự
của người học viên được thể hiện ở tất cả các môn học quân sự được trang bị
tại trường như: các môn kỹ thuật bộ binh (Bắn súng, công binh, ném lựu đạn);
các môn quân sự chung (Cơng tác tham mưu, địa hình qn sự, đường lối quân
sự, điều lệnh đội ngũ, điều lệnh quản lý bộ đội); các môn về binh chủng bảo
đảm và chiến đấu (Pháo binh, xe tăng - thiết giáp, thông tin, hóa học); nghệ
thuật quân sự (chiến thuật cấp phân đội) và một số môn quân sự khác. Đây là
hệ thống các tri thức quyết định đến trình độ năng lực chỉ huy, quản lý, huấn
luyện của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2.
Phương pháp tư duy, là hệ thống cách thức nhận thức, được tổ chức,
sắp xếp theo một quy trình tư duy chặt chẽ, dựa trên các quy luật của quá
trình nhận thức. Khả năng này được thể hiện khi người học xây dựng được hệ
thống các thao tác tư duy chặt chẽ, nắm vững và sử dụng nhuần nhuyễn trong
hoạt động nhận thức khoa học, tiến hành phản ánh, thu nhận ngày càng đầy
đủ, sâu sắc hơn bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng trong quá trình học
tập, nghiên cứu. Vì vậy, quá trình đào tạo cùng với việc phát triển cả về trình
độ tri thức khoa học, phải chú trọng phát triển khả năng phương pháp tư duy
cho người học, chỉ rõ cho người học các thủ thuật, thao tác, cách thức nắm nội
dung, bồi dưỡng các kỹ năng nghe ghi, phân tích, tổng hợp các sự kiện và các
thao tác chính trong hoạt động tự học nhằm chiếm lĩnh các tri thức khoa học,
cách trình bày, diễn đạt các vấn đề học tập, nghiên cứu. Các phương pháp tư
duy mà học viên vận dụng trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường để phát

triển năng lực nhận thức khoa học của mình là phân tích và tổng hợp, quy nạp và
diễn dịch, cụ thể và trừu tượng, lịch sử và lôgic…


26
Khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn thực chất là khả năng phát hiện
giải quyết mâu thuẫn, việc sử dụng các số liệu khoa học vào xử lý các vấn đề
trong quá trình học tập, nghiên cứu nhất là khả năng sử dụng các thao tác tư
duy như: phân tích, tổng hợp, khái qt hóa, trừu tượng hóa…; khả năng trình
bày, diễn đạt các ý tưởng trước tập thể, tính hệ thống, lơgic của kiến thức; khả
năng vận dụng tri thức đã học vào hoạt động quân sự, cũng như thực tiễn cuộc
sống. Đây là cơ sở quan trọng để phát triển trí tuệ của người học viên trong quá
trình đào tạo ở nhà trường. Khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn, nhất là
thực tiễn hoạt động quân sự giúp học viên bổ sung và nâng cao tri thức, hiện
thực hóa những khả năng tiềm tàng để giải quyết những vấn đề mới trong học
tập và cuộc sống hàng ngày; đồng thời, là cơ sở để người học rèn luyện hình
thành phẩm chất, năng lực cần thiết của người cán bộ sĩ quan trong tương lai.
1.1.2. Phát triển năng lực nhận thức khoa học của học viên đào tạo
sĩ quan cấp phân đội ở Trường sĩ quan Lục quân 2
Phát triển, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là quá trình
vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến
ngày càng hoàn thiện hơn. Như vậy, phát triển là trường hợp đặc biệt của vận
động, quá trình phát triển làm tăng thêm tính phong phú phức tạp và hoàn thiện
các tổ chức, kết cấu cũng như mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, hình thành
những tính quy định cao hơn về chất của cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại
cũng như chức năng của chúng. Tùy theo kết cấu của sự vật, hiện tượng, sự
phát triển trong các lĩnh vực khác nhau được thể hiện không giống nhau.
Trên cơ sở quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, có thể quan
niệm phát triển năng lực nhận thức khoa học là một quá trình biến đổi, hồn
thiện về trình độ tri thức, phương pháp tư duy và khả năng vận dụng những

tri thức vào hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn phục vụ cho mục đích
hoạt động của con người theo từng lĩnh vực hoạt động của mỗi người.


×