Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

tiểu luận xây dựng đảng tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đấu TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA cá NHÂN TRONG cán bộ ĐẢNG VIÊN và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.85 KB, 27 trang )

TRƯỜNG
KHOA

TIỂU LUẬN
MÔN: CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG
ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẤU TRANH CHỐNG
CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN TRONG CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN VÀ SỰ
VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY

Họ và tên:
Chức vụ, đơn vị công tác:
Lớp:


2
2
Hà Nội, tháng năm 2022
MỤC LỤC

Trang

A- MỞ ĐẦU
B- NỘI DUNG

1
2

Chương 1.


2

1.1.
1.2.

Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân và đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên

2
3

1.3

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân.

8

Chương 2.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân

11

2.1


Thực trạng cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng cơ hội, thực dụng hiện nay

11

Những nhân tố tạo điều kiện cho sự ảnh hưởng của chủ
nghĩa cá nhân trong xã hội hiện nay
Một số nội dung, biện pháp chống chủ nghĩa cá nhân, tư
2.3.
tưởng cơ hội, thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức
lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay
PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2.2.

14
16
23
24

MỞ ĐẦU
Khi thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
bên cạnh mặt tích cực là kích thích tính năng động sáng tạo của con người,
tạo động lực thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển, sản xuất ra nhiều của cải vật
chất cho xã hội..., kinh tế thị trường cũng làm cho chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng
cơ hội, thực dụng nảy nở, phát triển mạnh làm suy thoái đạo đức lối sống của
một bộ phận cán bộ đảng viên. Chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng
xét về bản chất, hoàn toàn trái với đạo đức cách mạng. Vì vậy, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta ln quan tâm giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng



3
3
cho cán bộ, đảng viên, đấu tranh khắc phục chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ
hội thực dụng. Trong điều kiện hiện nay, sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước địi hỏi Đảng ta phải thực sự trong sạch
vững mạnh, đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng khơng những phải có trình độ
trí tuệ cao mà còn phải thực sự mẫu mực về phẩm chất đạo đức lối sống.
Trong khi đó, trong Đảng vẫn còn một bộ phận cán bộ đảng viên mang
nặng chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng. Đáng chú ý là mặc dù
Đảng, Nhà nước đã tìm mọi biện pháp ngăn chặn, nhưng những biểu hiện trên
không những khơng giảm mà ngày càng có xu hướng gia tăng. Đây là mảnh
đất màu mỡ cho kẻ địch lợi dụng tấn cơng vào nội bộ Đảng, làm phân hố
Đảng, gây chia rẽ mất đoàn kết trong Đảng, giảm sút lòng tin của nhân dân
đối với Đảng, tiến tới làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng
Việt Nam. Tình hình đó địi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, sự suy thoái về đạo đức lối
sống đang tồn tại trong một bộ phận cán bộ đảng viên.
Để cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân hiện nay mang lại hiệu quả
cao phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới,
phải nghiên cứu những quan điểm, tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa cá nhân, đi từ thực trạng đội ngũ cán bộ, đảng viên và phải coi
đó là nhiệm vụ của tồn Đảng, tồn dân và của cả hệ thống chính trị.
NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng cơ hội, thực dụng
Mác, Ănghen và Lênin khi đề cập đến vấn đề này đều cho rằng: bản
chất của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng hoàn toàn trái ngược
với bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, với mục đích, lý tưởng của

Đảng Cộng sản; nó là bạn đồng hành của chủ nghĩa tư bản, kẻ thù của chủ
nghĩa xã hội, của những người cộng sản. Thái độ của những người cộng sản là


4
4
kiên quyết đấu tranh loại bỏ chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng ra
khỏi đội ngũ những người cách mạng. Các ông yêu cầu đảng cộng sản phải
nêu cao cảnh giác, thường xuyên đấu tranh khắc phục chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng cơ hội, thực dụng, làm trong sạch đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của đảng để đảng đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sau khi Ph.Ănghen mất, bọn cơ hội, xét lại trong Quốc tế II lũng đoạn
phong trào công nhân, ra sức chống phá chủ nghĩa Mác, chống phá phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế. Lênin đã đấu tranh, bóc trần nguồn gốc, bản
chất của chủ nghĩa cơ hội, vạch mặt chỉ tên những kẻ cơ hội bằng một loạt tác
phẩm. Lênin cho rằng: thực chất của chủ nghĩa cơ hội là phản bội chủ nghĩa
Mác, đội lốt những người cộng sản để chống lại chủ nghĩa Mác. Nguồn gốc
của chủ nghĩa cơ hội là do giai cấp tư sản mua chuộc tầng lớp trên của giai
cấp công nhân (công nhân quý tộc) và một số phần tử tiểu tư sản, trí thức
trong hàng ngũ những người dân chủ xã hội. Những người này do mang nặng
chủ nghĩa cá nhân, xuất phát từ lợi ích cá nhân đã đã khơng cịn giữ được bản
chất cách mạng lúc đầu, bán mình cho giai cấp tư sản, trở thành tay sai của
giai cấp tư sản. Trong tác phẩm “Làm gì”(1901) Lênin chỉ rõ: Bọn cơ hội đội
lốt chủ nghĩa Mác, bằng khẩu hiệu “tự do phê bình” đã phủ nhận những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, phủ nhận vai trò của lý luận cách mạng;
sùng bái “tính tự phát” trong phong trào công nhân; đề cao đấu tranh kinh tế,
hạ thấp đấu tranh chính trị; phủ nhận học thuyết đấu tranh giai cấp, chủ
trương giành chính quyền bằng phương pháp hồ bình, bằng đấu tranh nghị
viện, bằng phổ thơng đầu phiếu; chủ trương duy trì tình trạng tiểu, phân tán,
địa phương chủ nghĩa; phản đối thành lập một đảng tập trung thống nhất tồn

Nga lúc đó.
Điều hết sức nguy hiểm là bọn cơ hội luôn núp dưới danh nghĩa chủ
nghĩa Mác để chống lại chủ nghĩa Mác; nó dấu mặt, trá hình, lúc ẩn, lúc hiện
rất khó thấy. Lênin ví chủ nghĩa cơ hội như con rắn nước, luôn luồn lách, len
nỏi trong hàng ngũ những người cộng sản để chống những người cộng sản,


5
5
nếu khơng tỉnh táo thì rất khó nhận diện. Lênin cho rằng nhiệm vụ cần kíp,
trước mắt lúc này là phải đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác. Nếu không đánh bại chủ nghĩa cơ hội thì khơng thể
xây dựng Đảng Cơng nhân xã hội dân chủ Nga vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức. Người luôn nhắc nhở những người cộng sản phải hết sức tỉnh
táo, cảnh giác với chủ nghĩa cơ hội. Lênin đã nêu một tấm gương mẫu mực về
tinh thần và phương pháp đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân và đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên
Trong quá trình tổ chức, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải ra sức đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”,
Người đã phân tích sâu sắc tác hại của chủ nghĩa cá nhân và coi đó như một
thứ vi trùng độc hại, là nguyên nhân sinh ra đủ thứ bệnh: tham lam, lười
biếng, kiêu ngạo cộng sản, óc hẹp hịi, hiếu danh vơ thực, óc lãnh đạo, địa
phương, cục bộ, kéo bè, kéo cánh... Những căn bệnh đó đang hàng ngày, hàng
giờ hoành hành làm suy yếu sức mạnh của Đảng, của Chính phủ, làm giảm
lịng tin của quần chúng đối với Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan niệm hết sức sáng tạo, độc đáo; có
phương pháp hết sức khoa học trên cả bình diện lý luận và thực tiễn; giúp cho
mọi người nhận biết sâu sắc cả về nguồn gốc, bản chất, tác hại, ảnh hưởng của

chủ nghĩa cá nhân và cách phòng chống, biện pháp đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Chủ nghĩa cá nhân nó nằm ngay trong
lịng mỗi con người “ai cũng có một ít”, là kẻ thù bên trong, là giặc “nội
xâm”; là kẻ thù “vơ hình” nhưng lại biểu hiện trong tư tưởng, hành động của
mỗi người. Có lúc Người cho đó là “địch nhân” ở trong lịng mà mỗi người
phải chiến thắng “nếu nó cịn lại trong mình, dù là ít thơi, thì nó sẽ chờ dịp để


6
6
phát triển”(1). Cho nên, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là cuộc đấu
tranh nội tại giữa cái “thiện” và cái “ác”; giữa cái “đúng” và cái “sai”; giữa
cái “tiến bộ” và cái “thoái bộ”. Người viết: “Mỗi con người đều có thiện và ác
ở trong lịng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi người nảy nở như hoa
mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng” (2),
“làm cho phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác”(3).
Theo Hồ Chí Minh “chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa tập
thể”(4), “chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng” (5). Nếu chủ
nghĩa tập thể là biểu hiện ở phương châm sống mỗi người vì mọi người và
mọi người vì mỗi người. Mọi lợi ích ln được kết hợp một cách hài hồ,
ln biết đặt lợi ích của Đảng, cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước
hết… thì trái lại chủ nghĩa cá nhân là “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của
mình trước hết. Họ khơng lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì
mình”(6). Cho nên, muốn có chủ nghĩa xã hội phải có chủ nghĩa tập thể, muốn
có chủ nghĩa tập thể phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Người viết:
“thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu
tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”(7).
Đồng thời với việc đối lập chủ nghĩa cá nhân với chủ nghĩa tập thể,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân là trái với đạo đức cách

mạng. Theo Người: “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng,
với nhân dân”, là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, là
“đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng
của cá nhân mình…”(8). Cịn chủ nghĩa cá nhân trái ngược hồn tồn với đạo
1 Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 282
2 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 12, trang 558
3 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 12, trang 558
4 Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 282
5 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 283
6 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 12, trang 438
7 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 291
8 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 285


7
7
đức cách mạng, “họ yêu cầu hưởng thụ, yêu cầu nghỉ ngơi, họ muốn lựa chọn
cơng tác theo ý thích cá nhân mình, khơng muốn làm cơng tác mà đồn thể
giao phó cho họ. Họ muốn địa vị cao nhưng lại sợ trách nhiệm nặng” (1). Cho
nên, đồng thời với xây dựng đạo đức cách mạng phải kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân. Bởi vì, đạo đức là cái “gốc”, cái “nền tảng” của
người cách mạng. Muốn làm cách mạng, người cách mạng phải có cái tâm,
cái đức trong sáng, nếu khơng có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi đến mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân, khơng làm nổi việc gì. Muốn có đạo đức
cách mạng phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đạo đức cách mạng và chủ nghĩa
cá nhân như hai mặt đối lập trong nhân cách của người cách mạng luôn đấu
tranh loại trừ, phủ định nhau và chủ nghĩa cá nhân nhất định phải tiêu diệt”(2).
Trong khi khẳng định phải kiên quyết tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở những người cách mạng phải biết phân biệt
chủ nghĩa cá nhân với lợi ích chính đáng của cá nhân. Người viết: “Đấu tranh

chống chủ nghĩa cá nhân khơng phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”… Nếu
những lợi ích cá nhân đó khơng trái với lợi ích của tập thể thì khơng phải là
xấu”(3). Bởi vì, mỗi người đều có tính cách, sở trường, đời sống riêng của bản
thân và gia đình mình, lợi ích của cá nhân ln gắn liền với lợi ích tập thể, là
một bộ phận của lợi ích tập thể; chỉ có dưới chủ nghĩa xã hội thì mỗi người
mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy sở trường,
năng lực của mình, chăm lo lợi ích chính đáng của cá nhân góp phần xây
dựng cho lợi ích tập thể. Chỉ có điều khi lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích
tập thể thì địi hỏi người cách mạng phải biết đặt lợi ích của tập thể lên trên,
lợi ích cá nhân phải phục tùng lợi ích tập thể. Thật có lý khi Đảng ta khẳng
định phải giải quyết hài hồ quan hệ lợi ích: cá nhân - tập thể - xã hội; phải
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong
1 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 287
2 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 282
3 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 291


8
8
đó coi trọng lợi ích chính đáng của người lao động, “khuyến khích nhân dân
làm giàu hợp pháp”(1). Thực chất đây là quan điểm của Đảng để giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa chống chủ nghĩa cá nhân và khuyến khích, quan
tâm, chăm lo đến lợi ích chính đáng của cá nhân.
Từ những quan niệm vừa khoa học vừa mang tính độc đáo, sáng tạo
trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh luận giải rõ nguồn gốc, tác hại, ảnh hưởng của nó
đối với xã hội nói chung và đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng. Theo Người,
chủ nghĩa cá nhân sinh ra từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nó
cũng phát triển, nảy nở cùng với sự phát triển của các hình thức tư hữu, chủ
nghĩa cá nhân phát triển đến đỉnh cao thành một “lý thuyết” hồn chỉnh khi nó
gắn chặt với chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa; nó bảo vệ cho sự thống trị của

giai cấp tư sản. Người chỉ rõ: “cách sản xuất và sức sản xuất phát triển và biến
đổi mãi, do đó mà tư tưởng của người, chế độ xã hội, v.v… cũng phát triển và
biến đổi theo”(2). Nghĩa là, tư tưởng cá nhân, chủ nghĩa cá nhân xuất phát từ
khi có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và phân chia giai cấp trong xã hội.
Chủ nghĩa cá nhân trong xã hội ngày nay, cả trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại là do những tàn dư, tư tưởng, thói quen lạc hậu
của xã hội cũ để lại mà trong mỗi con người còn tồn tại: “Sinh trưởng trong
xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu
xa của xã hội đó về thói quen… Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã
hội cũ là chủ nghĩa cá nhân” (3). Bản chất của chủ nghĩa cá nhân là “bất kỳ việc
gì cũng xuất phát từ lịng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình chứ
khơng nghĩ gì đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”(4).
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân có nguồn gốc
cả kinh tế - xã hội, tư tưởng, tâm lý, thói quen, tập quán của xã hội cũ, tất yếu
còn tồn tại những biểu hiện tư tưởng của chủ nghĩa cá nhân (hoặc ít hoặc
1 Đảng CSVN, VK ĐH IX, NXB CTQG, H, 2001, trang 33
2 Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 282
3 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 283
4 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 292


9
9
nhiều). Cho nên, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân hiện nay là tất yếu nhằm
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên đáp ứng với yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng những luận giải rõ nguồn gốc, bản chất
của chủ nghĩa cá nhân mà cịn chỉ rõ tính chất mức độ nguy hại, ảnh hưởng
của nó đối với xã hội, con người nói chung. Theo Người, đối với sự nghiệp
cách mạng thì “chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ

nghĩa xã hội”(1). Nhưng nếu tồn xã hội một lịng, một dạ kiên quyết chống thì
sẽ vượt qua được trở ngại đó. Người khẳng định: “Chủ nghĩa tập thể, chủ
nghĩa xã hội nhất định thắng, chủ nghĩa cá nhân nhất định phải tiêu diệt” (2).
Cũng có lúc, Người chỉ rõ: Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch “hung ác”, là “kẻ
địch đồng minh” với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản (kẻ địch nguy hiểm)
và kẻ địch to là những “thói quen và truyền thống lạc hậu”, “nó ngấm ngầm
ngăn trở cách mạng tiến bộ”(3). Cho nên, muốn cách mạng thành công, muốn
chủ nghĩa xã hội thắng lợi phải chiến thắng chủ nghĩa cá nhân: “thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân”(4).
Đối với mỗi con người, mỗi cán bộ, đảng viên thì “Chủ nghĩa cá nhân
là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc” (5);
“Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè
phái, chủ quan, tham ơ, lãng phí…” (6). “Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian
khổ, khó khăn, sa vào tham ơ, hủ hố, lãng phí, xa hoa… mà mất đồn kết,
thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, khơng chấp hành
đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích
1 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 291
2 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 282
3 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 287
4 Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 291
5 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 284
6 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 9, trang 292


10
10
của cách mạng, của nhân dân” (7). Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng
nếu mỗi người, mỗi cán bộ, đảng viên mà sa vào chủ nghĩa cá nhân sẽ phạm
nhiều sai lầm, mất tư cách đạo đức cách mạng; làm thoái hoá, biến chất, làm

hỏng sự nghiệp cách mạng. Do vậy, người cách mạng phải kiên quyết tiêu diệt
chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng mới hồn thành nhiệm vụ vẻ
vang của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ căn dặn người cách mạng phải kiên
quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân mà Người còn yêu cầu phải chống một
cách triệt để dù cho nó tồn tại ở bất kỳ hình thức nào, dù nó đã bộc lộ hay còn
đang tiềm ẩn trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên, ở tất cả các cấp từ Trung
ương đến địa phương; ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;. Trên thực tế,
Người không chỉ bàn về chủ nghĩa cá nhân mà Người còn là thành viên số
một, đi đầu trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Nhiều lần Người nhắc
nhở, yêu cầu các cán bộ đang nắm quyền phải từ bỏ tư tưởng “cố tranh cho
được Uỷ viên này, Chủ tịch kia... lo ăn ngon, mặc đẹp, lo chiếm của công làm
của tư, lợi dụng địa vị và cơng tác của mình mà buôn bán phát tài, lo việc
riêng hơn việc công”… Đây là những biểu hiện rất rõ của chủ nghĩa cá nhân
cần phải chống và Người cũng chống rất quyết liệt. Trước khi bước vào Chiến
dịch Điện Biên Phủ (1954) trên cương vị Chủ tịch nước, Người đã phải ký
quyết định xử án tử hình đối với Đại tá Trần Dụ Châu (Cục trưởng Cục Quân
nhu) vì đã sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham ơ, lãng phí tiền của của nhân dân
trong khi cả nước tập trung sức người, sức của cho chiến dịch, cho chiến
thắng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân biểu hiện trong xã hội,
trong mỗi con người, mỗi cán bộ, đảng viên rất đa dạng, phong phú, nó “khơn
ngoan” len lỏi cả trong tư tưởng, ý chí, hành động, trong đạo đức, lối sống,
việc làm, lời nói… Do đó, muốn đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân phải xem

7 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB CTQG, H, 2000, tập 12, trang 438 - 439


11
11

xét một cách toàn diện con người, trong mọi hoàn cảnh và phải đấu tranh
thường xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi và là trách nhiệm của mọi người.
1.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân.
Hơn 92 năm qua, Đảng ta đã nhiều lần tiến hành công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam và
những biểu hiện sai lầm, sự nguy hại dẫn đến nguy cơ đe dọa đến sự lãnh đạo
của Đảng, mà Đảng ta đã tiến hành nhiều đợt chỉnh đốn và chỉnh huấn Đảng
với những mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp thực hiện khác nhau.
Năm 1939, Đảng tiến hành sinh hoạt “tự phê bình” sâu rộng, khắc phục
hạn chế, giải quyết vấn đề về tư tưởng và tổ chức của Đảng trong phong trào
Mặt trận dân chủ. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm Tự chỉ
trích, xác định mục tiêu, phương châm: “Công khai, mạnh dạn, thành thực
vạch ra lỗi lầm của mình và tìm phương pháp sửa chữa, chống những xu
hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không làm yếu Đảng và làm cho Đảng
được thống nhất mạnh mẽ. Làm như thế không sợ địch nhân lợi dụng chửi
rủa, vu cáo cho Đảng, không sợ “nối giáo cho giặc”. Trái lại nếu “đóng cửa
bảo nhau”, giữ cái vỏ thống nhất mà bên trong là hổ lốn một cục, đầy rẫy bọn
hoạt đầu, đấy mới chính là để kẻ thù chửi rủa, hơn nữa đó tỏ ra không phải là
một Đảng tiên phong cách mạng mà là một Đảng hoạt đầu cải lương”
Những năm cuối kháng chiến chống Pháp, Đảng ta lại mở cuộc chỉnh
Đảng. Tháng 5/1952, tại Lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, Chủ tịch
Hồ Chí Minh xác định: “Mục đích chỉnh Đảng là nâng cao tư tưởng và trình
độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng
quan điểm và lập trường vô sản”. Năm 1961, khi nhân dân miền Nam đẩy
mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc phải phát huy và thể hiện rõ vai
trò là hậu phương lớn của cả nước, Đảng ta lại mở đợt chỉnh huấn trong toàn
Đảng.
Những năm cuối kháng chiến chống Pháp, Đảng ta lại mở cuộc chỉnh
Đảng. Tháng 5/1952, tại Lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, Chủ tịch



12
12
Hồ Chí Minh xác định: “Mục đích chỉnh Đảng là nâng cao tư tưởng và trình
độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng
quan điểm và lập trường vô sản”. Năm 1961, khi nhân dân miền Nam đẩy
mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc phải phát huy và thể hiện rõ vai
trò là hậu phương lớn của cả nước, Đảng ta lại mở đợt chỉnh huấn trong toàn
Đảng
Để thiết thực nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
cần thực hiện một số giải pháp vừa cấp bách vừa mang tính lâu dài. Tiếp tục
đổi mới công tác cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3
BCHTW khóa VIII (về chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước) và nghị quyết Đại hội IX của Đảng, kiên quyết xử
lý nghiêm những cán bộ, đảng viên tham nhũng, thối hóa biến chất, phát
động phong trào tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng; thường xuyên tổ
chức những đợt sinh hoạt nghiêm túc trong đội ngũ cán bộ, đảng viên về phê
bình và tự phê bình theo tinh thần xây dựng, đẩy mạnh đấu tranh chống tham
nhũng, đẩy mạnh cải cách hành chính, chống quan liêu cửa quyền, nhũng
nhiễu nhân dân; tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật; kiên quyết phê phán
lối sống thực dụng, lai căng, ngăn chặn sự xâm nhập của văn hóa độc hại;
kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng phản động, ly khai, chống âm mưu
“Diễn biến hòa bình” xây dựng con người mới phù hợp với điều kiện hiện
nay, đề cao gương “người tốt việc tốt” có chính sách, cơ chế phù hợp để giải
quyết hài hịa mối quan hệ, thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở,
đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư.
Tình hình thế giới và trong nước đã và đang có nhiều thay đổi, nhiệm
kỳ Đại hội XII Đảng vừa qua đã tạo ra bước đột phá, đạt được những kết quả

đáng khích lệ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Với phương
châm nhìn thẳng vào sự thật, Đảng ta đã “chỉ mặt đặt tên” những biểu hiện


13
13
của “căn bệnh” này. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ “Ngay từ đầu
nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4
khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đã nhận diện 27 biểu hiện suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “”tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong
nội bộ”. Đồng thời, từng bước đấu tranh, đẩy lùi một bước chủ nghĩa cá nhân
với những căn bệnh của nó, như: cơ hội, thực dụng, quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, sự suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tham vọng
quyền lực, chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm, cục bộ, địa phương, vơ cảm;
những tiêu cực trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, giáo dục, y tế, đất đai,
quy hoạch, xây dựng… ở một số cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên
có chức, có quyền.
Trong đấu tranh đã khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ; việc xây
dựng Đảng về đạo đức được coi trọng, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và
“chống”. “Công tác xây dựng Đảng về đạo đức được đề cao, góp phần rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực
dụng, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân và cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng vẫn giữ nguyên giá trị, cần tiếp tục
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.Để thực
hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, phải không ngừng
kiên quyết, kiên trì, giữ vững ưu thế, đẩy lùi, giành thắng lợi trong cuộc đất
tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Nhất là tình trạng suy thối về tư tưởng, chính
trị; quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, đảng

viên vẫn diễn biến phức tạp, đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong
của chế độ, “chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vơ cảm, bệnh
thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”1.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.
95


14
14
Chương 2: Một số vấn đề về nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng trong cán bộ, đảng viên
hiện nay hiện nay
2.1. Thực trạng cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ
hội, thực dụng hiện nay
Những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, sự
suy thoái về đạo dức lối sống trong cán bộ, đảng viên không phải bây giờ
mới xuất hiện mà nó là căn bệnh của đảng cầm quyền, được Lênin chỉ ra
từ đấu thế kỷ XX. Đối với đảng ta, nó xuất hiện ngay từ khi Đảng nắm
chính quyền trong toàn quốc. Với tư cách là Chủ tịch Đảng, chủ tịch Nước
trong nhiều năm, Hồ Chí Minh đã đề cập rất nhiều đến vấn đề này, đồng
thời là lãnh tụ tiên phong, đấu tranh kiên quyết không khoan nhượng với
những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội, thực dụng dưới
mọi màu sắc. Người luôn nhắc nhở các tổ chức đảng phải hết sức quan
tâm giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, không
để cho chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng tồn tại trong hàng
ngũ những người cộng sản. Trong công tác xây dựng Đảng, cùng với việc
giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, Đảng ta rất coi trọng
đấu tranh chống những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực
dụng. Chính vì vậy, Đảng ln vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức,

đủ sức lãnh dạo cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cần
khẳng định rằng, Trong điều kiện hiện nay, đa số cán bộ, đảng viên của
Đảng vẫn giữ vững tư cách đảng viên, có phẩm chất đạo đức trong sáng,
lối sống lành mạnh, được quần chúng tín nhiệm. Song, bên cạnh đó vẫn
cịn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống. Trước thực trạng đó, Nghị quyết Trung ương 6 (lần
2) Khố VIII đã quyết định mở cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng,
tự phê bình và phê bình trong tồn Đảng. Qua sinh hoạt tự phê bình và
phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) nhữngg biểu hiện


15
15
nói trên tuy có giảm bớt, nhưng vẫn chưa tạo được những chuyển biến căn
bản. Nghị quyết Trung ương 5 Khoá IX chỉ rõ: “Hiện tượng phai nhạt lý
tưởng cách mạng, sa sút phẩm chất đạo đức; tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng phát triển” 1
Chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng có nguồn gốc từ tư
tưởng tư hữu. Khi bước và kinh tế thị trường, bên cạnh mặt tích cực cũng xuất
hiện mặt trái kích thích chủ nghĩa cá nhân phát triển, đi cùng với nó là tư
tưởng cơ hội, thực dụng cũng phát triển theo. Mặt khác, trong điều kiện hiện
nay, nhiệm vụ, quy mô, tính chất, đối tượng... lãnh đạo của Đảng có sự phát
triển, mở rộng; một số cán bộ, đảng viên ít được rèn luyện thử thách trong đấu
tranh cách mạng, vì vậy sự xuất hiện chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực
dụng, sự suy thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên là
vấn đề khách quan. Nhưng điều đáng lo ngại là mặc dù Đảng, Nhà nước đã có
nhiều biện pháp ngăn chặn, nhưng những biểu hiện đó vẫn có xu hướng gia
tăng.
Trong thực tiễn cuộc sống, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực
dụng biểu hiện đa dạng, phong phú, dưới mọi hình thức. Những người mang

nặng chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng ln có động cơ vụ lợi, có
tham vọng lớn, cả trong ý nghĩ và trong hành động. Đơi khi để đạt được mục
đích cá nhân họ sẵn sàng tìm mọi cách luồn lách, len lỏi, chạy chọt; triệt để
lợi dụng sự sơ hở của cơ chế, chính sách, sự yếu kém của cơng tác quản lý để
đục khoét của công, biến của công thành của riêng. Những lúc cách mạng gặp
khó khăn, hoặc chuyển giai đoạn là lúc những người mang nặng chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng lộ rõ nguyên hình. Chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng cơ hội, thực dụng tồn tại dưới nhiều cấp độ, ở cấp độ thấp nó có mặt
mọi lúc, mọi nơi, trong mọi lĩnh vực. Ở cấp độ cao nó có sức mạnh ghê gớm,
có thể làm lũng đoạn tổ chức, xố nhồ danh giới cái tốt, cái xấu. Nó là thứ
giặc nội xâm, một loại vi khuẩn độc hại, một thứ ung nhọt ẩn náu trong cơ thể
11 Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng khoá IX, Nxb CTQG,
H, 2002, tr.117.


16
16
Đảng. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng là một
cuộc đấu tranh đầy khó khăn, phức tạp vì nó khơng phân gianh giới, chiến
tuyến rõ ràng, nó như con lươn đổi màu ln luồn lách, len lỏi vào các ngõ
ngách của cuộc sống, chi phối các mối quan hệ, ln thay hình đổi dạng, việc
nhận biết khơng đơn giản, đấu tranh với nó càng khó khăn. Những hành vi
của nó đơi khi chưa cấu thành tội phạm để có thể tố cáo, xét xử theo pháp
luật, việc tìm kiếm bằng chứng, số liệu để chứng minh kẻ cơ hội gặp rất nhiều
khó khăn. Điều hết sức nguy hiểm là nếu chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội,
thực dụng tồn tại trong cán bộ, đảng viên sẽ làm tha hoá biến chất về đạo đức
lối sống, làm suy yếu Đảng, giảm sút lòng tin của quần chúng đối với Đảng,
tổn thương mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Cán bộ, đảng viên giữ
cương vị càng cao, quyền lực càng lớn mà mang nặng chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng cơ hội, thực dụng thì càng nguy hiểm.

Những năm qua chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội, thực dụng phát
triển do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khách quan. Song, chủ
yếu là do cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, kém
ý thức tổ chức kỷ luật, sống bng thả, sa hoa, lãng phí, khơng nghiêm túc
kiểm điểm, tự phê bình. Đảng ta nhận định: “Cho đến nay, hầu như chưa có
đảng viên nào tự kiểm điểm nhận có tiêu cực, tham nhũng”. Cơ chế, chính
sách, pháp luật chưa thạt đồng bộ, chặt chẽ, còn nhiều kẽ hở; một số tổ chức
đảng chưa coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng
viên, quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ, không thường xuyên tự phê
bình và phê bình, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá
nhân phụ trách, buông lỏng công tác kiểm tra Đảng, không kiên quyết xử lý
những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, xử lý
thiếu công bằng, hữu khuynh. “Một số vụ việc tiêu cực đã rõ nhưng xử lý kỷ
luật không nghiêm, không kịp thời, thiếu cơng bằng đã gây bất bình trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân, nhiều đảng viên có tư tưởng trung bình chủ nghĩa,


17
17
thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, ngại va chạm, nể nang, né
tránh, thiếu chính kiến trong việc xử lý các công việc và quan hệ nội bộ.
Đặc biệt, hiện nay Theo báo cáo tại Hội nghị tồn quốc tổng kết cơng
tác phịng, chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020, đã xử lý kỷ luật 131.000
đảng viên, trong đó có nhiều trường hợp liên quan đến tham nhũng. Khởi tố,
điều tra truy tố xem xét hơn 1.900 vụ án tham nhũng với 4.400 bị cáo trong
đó có 18 cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý hình sự, trong đó có: 1 Ủy
viên Bộ Chính trị, 7 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 4 Bộ trưởng
và nguyên Bộ trưởng, 7 sĩ quan cấp tướng thuộc lực lượng vũ trang. Các cơ
quan có thẩm quyền đã kiến nghị thu hồi 700.000 tỉ đồng, 20.000 ha đất, kiến
nghị xử lý trách nhiệm 14.000 tập thể và cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử

lý 700 vụ việc có dấu hiệu tội phạm; tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng đạt
32,04%. Từ năm 2016 đến năm 2020, đã kỷ luật 87.000 đảng viên trong đó có
hơn 3.200 trường hợp liên quan tới tham nhũng. Đây cũng là vấn đề nan giải
mà Đảng ta đang kiên quyết thực hiện.
2.2. Những nhân tố tạo điều kiện cho sự ảnh hưởng của chủ nghĩa
cá nhân trong xã hội hiện nay
Thứ nhất, Đảng ta nhất quán thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
bên cạnh mặt tích cực là thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, phát huy mọi
nguồn lực phát triển đất nước, chính sách này cũng có mặt trái, mặt tiêu cực là
điều kiện cho chủ nghĩa cá nhân nảy sinh. Bởi vì bản thân nền kinh tế nhiều
thành phần cịn tồn tại các thành phần kinh tế tư nhân, là cơ sở cội nguồn về
kinh tế cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở, nó từng ngày, từng giờ tác động đến lợi
ích của các tầng lớp xã hội, tạo ra sự bất bình đẳng về lợi ích của các giai tầng
trong xã hội. Đây cũng là mảnh đất “màu mỡ” cho chủ nghĩa cá nhân ẩn náu
và chờ thời cơ trỗi dậy. Chính cơ sở kinh tế - xã hội này làm cho sự phân tầng
xã hội, phân hoá giàu nghèo quá xa, chênh lệch về lợi ích thậm chí ở ngay
trong từng giai tầng cũng làm nảy sinh chủ nghĩa cá nhân trong xã hội.


18
18
Thứ hai, các nhân tố thời đại như toàn cầu hố kinh tế - thực chất là
tồn cầu hố kinh tế tư bản chủ nghĩa, cơ sở kinh tế của nó, chế độ tư hữu, tư
nhân tư bản chủ nghĩa cũng là điều kiện nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, trong khi
chúng ta tất yếu phải hội nhập, tham gia khu vực hố, tồn cầu hố. Các vấn
đề tồn cầu đặt ra cũng nảy sinh tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, sống chỉ vì tiền,
vị kỷ, hẹp hịi. Kẻ thù đang tập trung chống phá cách mạng nước ta bằng
chiến lược “Diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ. Thơng qua sự xâm nhập về
kinh tế, văn hoá kết hợp với các thế lực nội sinh tạo ra những con người Việt

Nam chỉ biết có mỗi lợi ích vật chất, những con người cá nhân chủ nghĩa.
Chúng đánh vào đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, quần chúng, chiến
sĩ; chúng tuyên truyền, kích động lối sống tư sản, thực dụng, chạy theo đồng
tiền; tạo tâm lý kiếm tiền bằng mọi giá cho thanh niên, , làm cho chủ nghĩa cá
nhân ngày nay (so với những thập kỷ trước đây), “có bộ mặt gớm ghiếc hơn,
cực đoan hơn, có sức phá hoại nền tảng tinh thần đạo đức của xã hội hơn”.
Nếu trước đây biểu hiện của nó chỉ ở tư tưởng, cách sống “đèn nhà ai nhà nấy
rạng”; “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”, thì ngày nay xuất hiện cách đối
xử với nhau tàn nhẫn như chó sói, theo “luật rừng”, chà đạp nhân phẩm, chà
đạp lên lợi ích tập thể…những biểu hiện đó một phần do kẻ thù chống phá,
reo rắc vào nước ta.
Thứ ba, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, quần chúng, chiến
sĩ còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng, tâm lý của xã hội cũ (do cơ bản xuất thân
từ nơng dân), đó là tư tưởng tiểu nơng, manh mún, trong khi đó lại khơng thật
sự trau dồi đạo đức cách mạng, học tập nghiên cứu nâng cao trình độ, cịn thái
độ bng thả… Đây là cội nguồn sâu xa và nguyên nhân chủ quan làm xuất
hiện chủ nghĩa cá nhân trong xã hội hiện nay.
2.3. Một số nội dung, biện pháp chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng
cơ hội, thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên hiện nay


19
19
Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, chặn
đà suy thoái về đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên là một
cuộc đấu tranh lâu dài, bằng nhiều biện pháp đồng bộ, cả ở tầm vĩ mô và vi
mô, với sự phối hợp của nhiều tổ chức, nhiều lực lượng. Hiện nay, cần tập
trung vào một số nội dung biện pháp chủ yếu, đó là:
Một là, tăng cường giáo dục nâng cao giác ngộ chính trị, phẩm chất

đạo đức lối sống cho cán bộ đảng viên, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn
luyện với các biện pháp hành chính, cơ chế, chính sách
Đây là biện pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội, thực dụng. Chỉ có trên cơ sở nhận
thức đúng thì hành động mới đúng. Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
tư tưởng cơ hội, thực dụng chỉ thực sự có hiệu quả khi mỗi cán bộ, đảng viên
hiểu rõ mục tiêu lý tưởng, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, nhiệm
vụ cách mạng, nhiệm vụ, tiêu chuẩn đảng viên, tư cách đảng viên, đạo đức
cách mạng của người cộng sản. Hiểu rõ nguồn gốc, bản chất, đặc điểm, tác
hại của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng. Bồi dưỡng nâng cao
tinh thần tự giác, ý thức tổ chức kỷ luật, quyết tâm tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng quyét sạch chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng.
Tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, giáo dục tình thương u con người, giáo dục truyền thống văn hoá dân
tộc, tạo bầu khơng khí tâm lý lành mạnh, đồn kết thân ái tong mỗi địa
phương, đơn vị. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, trước hết là chi bộ cần coi trọng
quản lý giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, xây dựng động cơ phấn đấu
đúng đắn. Vào đảng không phải là để thăng quan tiến chức mà là để phụng sự
tổ quốc, phụng sự nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên dù ở bất cứ cương vị nào
cũng phải hiểu đúng, làm đúng lời di huấn của Chủ tịch Hồ chí Minh: “Ngồi
lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác... vơ luận


20
20
lúc nào, việc gì, đảng viên cán bộ cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết,
trước hết”1.
Mỗi cán bộ đảng viên phải tích cực học tập, rèn luyện, thấm nhuần đạo
đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư” Phải cả quyết sửa lỗi
mình, khơng hiếu danh, khơng kiêu ngạo, ít lịng ham muốn vật chất; phải vừa là

người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Biết hy sinh lợi
ích cá nhân, phục tùng lợi ích tập thể, đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên
lợi ích cá nhân. Để có đạo đức cách mạng, cán bộ đảng viên phải ra sức tu
dưỡng rèn luyện thường xuyên. Hồ Chí Minh nói: “Đạo đức cách mạng khơng
phải từ trên trờ sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà củng
cố và phát triển. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”2. Các cấp uỷ, tổ chức đảng tăng cường kiểm tra, giúp đỡ đảng viên tu
dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội,
thực dụng, mỗi cán bộ, đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết xử lý những cán bộ đảng viên nói và
làm trái với nguyên tắc, Điều lệ Đảng, vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà
nước, qui định những điều đảng viên không được làm.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí quan liêu, chặn
đà suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Kết hợp chặt chẽ các biện pháp tư tưởng, tổ chức, cơ chế, chính sách và phát
huy vai trò của quần chúng trong giám sát hoạt động của cán bộ đảng viên.
Tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế, chính sách, nhất là trong các lĩnh vực quản lý
kinh tế, quản lý tài sản cơng, có cơ chế quản lý ở cấp vĩ mô và cơ chế quản lý
ở cấp vi mô, không để sơ hở cho kẻ cơ hội lợi dụng. Cơng khai hố các khoản
kinh tế, tài chính, ngân sách, có biện pháp hạn chế quyền lực của kẻ ban phát
cơ hội. Rà soát xây dựng các quy chế trong tuyển chọn cán bộ, nhân viên cơ
quan nhà nước, không để tạo kẻ hở. Trong bố trí, sử dụng cán bộ, cất nhắc, đề
11 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, tập 5, tr. 250-251.
22 Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H, 2002, tập 9, tr. 293.


21
21
bạt, bổ nhiệm phải thăm dò dư luận, khi cần có thẻ trưng cầu ý kiến quần
chúng bằng việc bỏ phiếu kín. Thực hiện nghiêm 19 điều cấm đối với đảng

viên và những điều cấm đối với cán bộ công chức nhà nước, trước hết là đối
với cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý kinh tế, tài chính.
Hai là, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình trong các
tổ chức đảng,mở rộng dân chủ, tổ chức cho quần chúng tham gia đóng góp ý
kiến phê bình cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là biện pháp
tốt nhất để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, củng cố đoàn kết thống
nhất trong Đảng, là phương thuốc hữu hiệu nhất để chữa trị các căn bệnh do
chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội, thực dụng sinh ra. Một trong những điều
tâm huyết nhất Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta trong di chúc thiêng liêng của
mình là: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự
đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Theo Hồ Chí Minh, mục đích của tự phê
bình và phê bình là giúp cho mọi người học tập ưu điểm của nhau, giúp nhau
sửa chữa khuyết điểm. Nhận rõ vai trị của tự phê bình và phê bình, Đảng ta
đã nhiều lần mở cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng, tự phê bình và phê
bình trong tồn Đảng. Tuy nhiên hiện nay chất lượng tự phê bình và phê bình
ở một số tổ chức đảng vẫn chưa được nâng cao, những biểu hiện e dè, nể
nang, ngại phê bình cấp trên, che dấu khuyết điểm hoặc trù dập người phê
bình vẫn cịn.
Đảng ta u cầu mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải đề cao
trách nhiệm, đấu tranh loại trừ tham nhũng, lãng phí, quan liêu ở cơ quan, đơn
vị, cơ sở mình, nêu cao vai trị tiên phong gương mẫu, nói đi đơi với làm, nói
và làm đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thực sự
là tấm gương về mọi mặt cho quần chúng noi theo. Đẩy mạnh tự phê bình và
phê bình, tự học tập, tự rèn luyện, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng cơ hội, thực dụng và tình trạng thối hố biến chất trong Đảng. Kiên
quyết xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà



22
22
nước”. Cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ chủ chốt trong các cơ quan lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước, các tổ chức quần chúng phải tự phê bình và phê
bình với tinh thần đồng chí trong sáng, tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau, nghiêm
túc và khoan dung, thấu tình đạt lý, tự giác, tự nguyện, trung thực và kiên
quyết, khách quan, dũng cảm, xuất phát từ cái tâm tong sáng. Tất cả vì mục
tiêu lý tưởng, lợi ích chung của Đảng vì sự đồn kết thống nhất trong Đảng sự
đồng thuận trong nhân dân. Kiên quyết chống tư tưởng cục bộ kèn cựa, bản vị
hẹp hòi địa phương chủ nghĩa làm tổn hại đến tình cảm đồng chí, làm suy yếu
sức mạnh đồn kết thống nhất trong Đảng.
Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, đưa sinh hoạt tự phê bình và phê
bình trở thành nề nếp thường xuyên; tiến hành tự phê bình và phê bình thiết
thực dân chủ từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Có kế hoạch, và biện pháp
kiên quyết khắc phục chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng và mọi
biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống. Động viên, khuyến khích và tổ chức
cho quần chúng tham gia đóng góp ý kiến phê bình cán bộ đảng viên; có quy
chế hợp lý để quần chúng (bao gồm cả quần chúng ở nơi công tác và cư trú của
cán bộ, đảng viên). Kết hợp chặt chẽ ý kiến phát hiện của quần chúng với công
tác kiểm tra Đảng, thanh tra nhà nước để xem xét, kết luận làm rõ mức độ sai
phạm của cán bộ đảng viên được nêu trong các đơn thư tố cáo, khiếu nại của
quần chúng. Có cơ chế bảo vệ những người dũng cảm dám phê bình, đồng thời
xử lý nghiêm những biểu hiện trù dập người phê bình hoặc lợi dụng phê bình
để vu cáo, đả kích gây mất đồn kết nội bộ; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ
sở. Đẩy mạnh tuyên truyền, nêu gương người tốt, việc tốt đồng thời lên án
những thói hư tật xấu, những biểu hiện tiêu cực, tham ô, tham nhũng, cơ hội,
thực dụng.
Ba là, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá
nhân phụ trách
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt

động của Đảng ta. Từ Đại hội VII của Đảng khẳng định, phủ nhận nguyên tắc
tập trung dân chủ là phủ nhận Đảng từ bản chất. Thực tiễn chỉ rõ, ở đâu thực


23
23
hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, ở đó tổ chức đảng trong sạch vững
mạnh, có năng lực lãnh dạo, sức chiến đấu cao; ở đâu vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách ở đó xuất hiện hiện tượng
độc đốn chun quyền, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng phát
triển.
Những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng chỉ đạo các tổ chức đảng duy
trì thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên trên thực tế vẫn cịn
một số tổ chức đảng bng lỏng việc thực hiện nguyên tắc này làm cho một
số cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ chủ trì có biểu hiện vi pham, độc
đoán, chuyên quyền, coi thường tập thể; vi phạm nguyên tắc, Điều lệ Đảng,
gây chia rẽ bè phái, cục bộ, mất đồn kết, việc duy trì thực hiện chưa tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân
phụ trách là một trong những nguyên nhân làm cho chủ nghiã cá nhân, tư
tưởng cơ hội, thực dụng, độc đoán chuyên quyền và các biểu hiện thoái hoá
biến chất về đạo đức lối sống nảy nở phát triển.
Để chống chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội, thực dụng các tổ chức đảng
cần giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ đảng viên, tổ chức cho đảng viên
nghiên cứu quán triệt sâu sắc vị trí, vai trị của ngun tắc tập trung dân chủ, bản
chất, mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung, từ đó liên hệ, kiểm điểm việc chấp
hành và thực hiện nguyên tác này của bản thân, của chi bộ đảng bộ nơi mình sinh
hoạt. Duy trì thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tạo sự thống nhất về
chính trị, tư tưởng, tổ chức trong toàn Đảng, làm cho đảng trở thành một khối
thống nhất, có kỷ luật chặt chẽ, sức chiến đấu cao, phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của các tổ chức đảng và của từng đảng viên. Khắc phục tình trạng

độc đoán, chuyên quyền.
Giữ vững và nâng cao chất lượng sinh hoạt của các cấp uỷ, tổ chức
đảng, mở rộng dân chủ, thảo luận thẳng thắn trước khi quyết nghị. Đề cao ý
thức trách nhiệm của đảng viên trong xây dựng và thực hiện nghị quyết. Phát
huy dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Chống dân chủ
hình thức, dân chủ cực đoan, dân chủ vơ chính phủ.


24
24
Xây dựng và thực hiện tốt quy chế lãnh đạo của các cấp uỷ chi bộ, cụ
thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách. Quy
định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu, có quy chế lãnh đạo
cơng tác cán bộ, tài chính, kinh tế. Định kỳ tổ chức rút kinh nghiệm việc thực
hiện các quy chế, quy định, kịp thời bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện các quy
chế, quy định của các cấp uỷ, tổ chức đảng.
Bốn là, làm tốt công tác kiểm tra Đảng, kịp thời phát hiện và xử lý
những cán bộ đảng viên mang nặng chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực
dụng, làm trong sạch các tổ chức đảng và cơ quan Nhà nước, làm lành mạnh
các quan hệ xã hội.
Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo có vị trí cực kỳ quan
trọng trong công tác lãnh đạo và xây dựng Đảng; là một khâu quan trọng của
tổ chức thực hiện, nằm trong chu trình lãnh đạo của Đảng. Sau khi có nghị
quyết phải tiến hành kiểm tra để xem các tổ chức đảng và đảng viên chấp
hành và thực hiện nghị quyết như thế nào, kiểm ta xem nghị quyết có đúng
khơng, có phù hợp với thực tiễn khơng để bổ sung, sửa đổi, hoàn chỉnh nghị
quyết. Kiểm tra để phát hiện những ưu điểm, khuyết điểm, kịp thời biểu
dương khen thưởng những đảng viên, tổ chức đảng có thành tích, phê bình,
uốn nắn những sai lầm, khuyết điểm, ngăn ngừa những biểu hiện chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, loại ra khỏi đảng những phần tử thoái hố

biến chất khơng cịn đủ tư cách đảng viên. Theo Hồ Chí Minh “Muốn chống
bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành
khơng, thi hành có đúng khơng, muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua
chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm sốt, kiểm sốt khéo, bao nhiêu khuyết
điểm lịi ra hết, hơn nữa kiểm soát khéo, về sau khuyết điểm nhất định bớt
đi”1.
Trong điều kiện hiện nay, để dấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư
tưởng cơ hội, thực dụng trong nội bộ Đảng càng đòi hỏi phải làm tốt công
tác kiểm tra. Thực tiễn cho thấy, ở những tổ chức đảng xảy ra vụ việc tiêu
11 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, tập 5, tr. 287.


25
25
cực chủ yếu là do thiếu công tác kiểm tra hoặc kiểm tra không sâu sát, tỷ
mỉ nên không phát hiện được; những cán bộ đảng viên mang nặng chủ
nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội, thực dụng vẫn ngang nhiên thách thức tổ
chức, thách thức dư luận. Vì vậy, các cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra cần hết sức
coi trọng công tác kiểm tra Đảng, kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra Đảng
với thanh tra nhà nước và sự giám sát của quần chúng. Không ngừng nâng
cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm tra. Thường xuyên quán triệt nắm
vững tư tưởng chỉ đạo, phương châm, phương pháp cơ bản của công tác
kiểm tra. Công tác kiểm tra phải bám sát vào nhiệm vụ chính trị của đơn
vị, tình hình thực nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Nội
dung kiểm tra phải toàn diện, song phải có trọng tâm, trọng điểm, kiểm tra
việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, nhất là việc chấp hành Điều lệ Đảng, các nguyên tắc, nề nếp
chế độ sinh hoạt Đảng. Qua kiểm tra mà giáo dục nâng cao nhận thức giác
ngộ của đảng viên, phát hiện và ngăn ngừa, xử lý những đảng viên vi
phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng

những người mang nặng chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng,
thối hố biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sóng, nói và làm trái
với đường lối quan điểm của Đảng; những đảng viên tham ô, tham nhũng,
gây chia rẽ bè phái, mất đồn kết nội bộ, khơng còn đủ tư cách đảng viên,
những cán bộ, đảng viên quan liêu, ức hiếp quần chúng, sống sa hoa truỵ
lạc, gây bất bình trong nhân dân.
Củng cố, kiện tồn, phát huy trách nhiệm của uỷ ban kiểm tra và cán bộ
kiểm tra các cấp; thường xuyên bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiệp vụ, đặc
biệt là nâng cao đạo đức cách mạng, làm cho đội ngũ này thực sự trong sạch,
liêm khiết, thực sự chí cơng vơ tư, khơng bị nhiễm nọc độc của chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, mẫu mực về phẩm chất đạo đức lối sống.
Đây là mũi nhọn chủ yếu tấn công vào những kẻ mang nặng chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, cán bộ kiểm tra là chỗ dựa đắc lực của các


×