Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Quản trị và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.9 KB, 96 trang )

Mở đầu
1. Sự cần thiết của khoá luận
Việt Nam chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN từ
năm 1986. Cơ chế mới đã mở ra nhiều cơ hội và những thách
thức mới đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và với từng
doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường
này, để tiến hành bất kỳ hoạt động SXKD, chủ thể kinh tế nào
cũng cần phải chủ động về vốn, vốn là yếu tốt cực kỳ quan
trọng trong mọi hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế của bất kỳ
một quốc gia nào.
Trước kia trong cơ chế bao cấp, các doanh nghiệp được
Nhà nước cấp phát vốn, lãi Nhà nước thu, lỗ Nhà nước bù. Do
đó các doanh nghiệp không quan tâm đến hiệu quả SXKD
cũng như hiệu quả sử dụng vốn. Ngày nay khi tham gia vào
nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự đối mặt với
sự biến động của thị trường, với sự cạnh tranh khốc liệt của
các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Muốn có được hiệu
quả cao trong SXKD, tăng sức cạnh tranh của mình các doanh
nghiệp phải tìm mọi biện pháp để huy động và sử dụng vốn
sao cho hợp lý. Đây là việc làm cần thiết, cấp bách và có ý
nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp cũng như nền kinh tế
quốc gia.
Xuất phát từ những vấn đề bức xúc nêu trên và qua thời
gian thực tập tại Công ty In - Thương mại - Dịch vụ Ngân
hàng NN
0
& PTNT Việt Nam. Tôi quyết định lựa chọn đề tài:
"Quản trị và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại
Công ty In - Thương mại - Dịch vụ Ngân hàng " làm khoá
luận tốt nghiệp của mình.


2. Kết cấu của khoá luận
Kết cấu của khoá luận ngoài phần mở đầu và kết luận,
khoá luận gồm 3 chương.
Chương 1: Vốn lưu động và sự cần thiết phải nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp.
Chương 2: Tình hình sử dụng VLĐ và hiệu quả sử dụng
VLĐ tại Công ty In - Thương mại - Dịch vụ Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý và
nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ tại Công ty In - Thương mại -
Dịch vụ Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt Nam.
CHƯƠNG 1
VỐN LƯU ĐỘNG VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng tới kết cấu vốn lưu động
trong doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại vốn lưu động.
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm.
Trong nền kinh tế quốc dân, mỗi doanh nghiệp được coi
như một tế bào của nền kinh tế với nhiệm vụ chủ yếu là thực
hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra các sản
phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ cung cấp cho xã hội. Doanh
nghiệp có thể thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm lao vụ, dịch
vụ trên thị trường nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh doanh
nghiệp cần phải có tư liệu sản xuất, đối tượng lao động, tư liệu

lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là
quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động khi
tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh luôn thay đổi hình
thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ
một lần vào giá trị sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản
phẩm được thực hiện. Biểu hiện dưới hình thái vật chất của
đối tượng lao động gọi là tài sản lưu động, TSLĐ của doanh
nghiệp gồm TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông.
TSLĐ sản xuất gồm những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho
quá trình sản xuất được liên tục, vật tư đang nằm trong quá
trình sản xuất chế biến và những tư liệu lao động không đủ
tiêu chuẩn là tài sản cố định. Thuộc về TSLĐ sản xuất gồm:
Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay
thế, sản phẩm dở dang, công cụ lao động nhỏ.
TSLĐ lưu thông gồm: sản phẩm hàng hoá chưa tiêu thụ,
vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán.
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với
quá trình lưu thông. Trong quá trình tham gia vào các hoạt
động sản xuất kinh doanh tài sản lưu động sản xuất và tài sản
lưu động lưu thông luôn chuyển hoá lẫn nhau, vận động không
ngừng làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục
trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Để hình thành
nên tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông,
doanh nghiệp cần phải có một số vốn thích ứng để đầu tư vào
các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản ấy được gọi
là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Như vậy, vốn lưu động của các doanh nghiệp sản xuất là
số tiền ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu
động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp diễn ra liên tục nên vốn lưu động cũng vận động
liên tục, chuyển hoá từ hình thái này qua hình thái khác. Sự
vận động của vốn lưu động qua các giai đoạn có thể mô tả
bằng sơ đồ sau:
T
T-H-SX-H’- T’
Ä T
Đối với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực lưu thông, quá trình
vận động của vốn lưu động theo trình tự sau:
T
T – H – T’
Ä T
Sự vận động của vốn lưu động trải qua các giai đoạn và
chuyển hoá từ hình thái ban đầu là tiền tệ sang các hình thái
vật tư hàng hoá và cuối cùng quay trở lại hình thái tiền tệ ban
đầu gọi là sự tuần hoàn của vốn lưu động. Cụ thể là sự tuần
hoàn của vốn lưu động được chia thành các giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1(T-H): khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lưu
động dưới hình thái tiền tệ được dùng để mua sắm các đối
tượng lao động để dự trữ cho sản xuất. Như vậy ở giai đoạn
này vốn lưu động đã từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái
vốn vật tư hàng hoá.
- Giai đoạn 2(H-SX-H’): ở giai đoạn nay doanh nghiệp
tiến hành sản xuất ra sản phẩm, các vật tư dự trữ được đưa dần
vào sản xuất. Trải qua quá trình sản xuất các sản phẩm hàng
hoá được chế tạo ra. Như vậy ở giai đoạn này vốn lưu động đã
từ hình thái vốn vật tư hàng hoá chuyển sang hình thái vốn sản
phẩm dở dang và sau đó chuyển sang hình thái vốn thành
phẩm.

- Giai đoạn 3:(H’-T’): doanh nghiệp tiến hành tiêu thụ
sản phẩm và thu được tiền về và vốn lưu động đã từ hình thái
vốn thành phẩm chuyển sang hình thái vốn tiền tệ trở về điểm
xuất phát của vòng tuần hoàn vốn. Vòng tuần hoàn kết thúc.
So sánh giưa T và T’, nếu T’ >T có nghĩa doanh nghiệp kinh
doanh thành công vì đồng vốn lưu động đưa vào sản xuất đã
sinh sôi nảy nở, doanh nghiệp bảo toàn và phát triển được
VLĐ và ngựơc lại. Đây là một nhân tố quan trọng đánh giá
hiệu quả sử dụng đồng VLĐ của doanh nghiệp.
Do quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được
tiến hành thường xuyên liên tục nên vốn lưu động của doanh
nghiệp cũng tuần hoàn không ngừng, lặp đi lặp lại có tính chất
chu kỳ gọi là sự chu chuyển của vốn lưu động. Do sự chu
chuyển của vốn lưu động diễn ra không ngừng nên trong cùng
một lúc thường xuyên tồn tại các bộ phận khác nhau trên các
giai đoạn vận động khác nhau của vốn lưu động. Khác với vốn
cố định, khi tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh,
vốn lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện, chu chuyển giá
trị toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và hoàn thành một
vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
1.1.1.2. Phân loại vốn lưu động.
Để quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả cần phải
tiến hành phân loại vốn lưu động của doanh nghiệp theo các
tiêu thức khác nhau. Thông thường có những cách phân loại
sau đây:
* Phân loại theo vai trò từng loại vốn lưu động trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
Theo cách phân loại này vốn lưu động của doanh nghiệp
có thể chia thành 3 loại:
- Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: bao gồm giá

trị các khoản nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu,
động lực, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ.
- Vốn lưu động trong khâu sản xuất: bao gồm các khoản
giá trị sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí
chờ kết chuyển.
- Vốn lưu động trong khâu lưu thông: bao gồm các khoản
giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền (kể cả vàng bạc, đá quý...);
các khoản vốn đầu tư ngắn hạn(đầu tư chứng khoán ngắn hạn,
cho vay ngắn hạn...) các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn
hạn; các khoản vốn trong thanh toán(các khoản phải thu, các
khoản tạm ứng...).
Cách phân loại này cho thấy vai trò và sự phân bố của
vốn lưu động trong từng khâu của quá trình sản xuất kinh
doanh. Từ đó có biện pháp điều chỉnh cơ cấu vốn lưu động
hợp lý sao cho có hiệu quả sử dụng cao nhất.
* Phân loại theo hình thái biểu hiện.
Theo cách này vốn lưu động có thể chia thành hai loại:
- Vốn vật tư, hàng hoá: là các khoản vốn lưu động có
hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như nguyên, nhiên,
vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm....
- Vốn bằng tiền: bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền
mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh
toán, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn....
Cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp xem xét,
đánh giá mức tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của
doanh nghiệp.
* Phân loại theo quan hệ sở hữu.
Theo cách này người ta chia vốn lưu động thành 2 loại:
- Vốn chủ sở hữu: là số vốn lưu động thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm

hữu, sử dụng, chi phối và định đoạt. Tuỳ theo loại hình doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở
hữu có nội dung cụ thể riêng như: vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước; vốn do chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ ra; vốn góp cổ
phần trong công ty cổ phần; vốn góp từ các thành viên trong
doanh nghiệp liên doanh; vốn tự bổ sung từ lợi nhuận doanh
nghiệp.....
- Các khoản nợ: là các khoản vốn lưu động được hình
thành từ vốn vay các nhân hàng thương mại hoặc các tổ chức
tài chính khác; vốn vay thông qua phát hành trái phiếu; các
khoản nợ khách hàng chưa thanh toán. Doanh nghiệp chỉ có
quyền sử dụng trong một thời hạn nhất định.
Cách phân loại này cho thấy kết cấu vốn lưu động của
doanh nghiệp được hình thành bằng vốn của bản thân doanh
nghiệp hay các khoản nợ. Từ đó có các quyết định trong huy
động và quản lý, sử dụng vốn lưu động hợp lý hơn, đảm bảo
an ninh tài chính trong sử dụng vốn của doanh nghiệp.
* Phân loại theo nguồn hình thành.
Nếu xét theo nguồn hình thành vốn lưu động có thể chia
thành các nguồn như sau:
- Nguồn vốn điều lệ: là số vốn lưu động được hình thành
từ nguồn vốn điều lệ ban đầu khi thành lập hoặc nguồn vốn
điêù lệ bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nguồn vốn này cũng có sự khác biệt giữa các loại
hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
- Nguồn vốn tự bổ sung: là nguồn vốn do doanh nghiệp
tự bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh như từ lợi
nhuận của doanh nghiệp được tái đầu tư.
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết; là số vốn lưu động được
hình thành từ vốn góp liên doanh của các bên tham gia doanh

nghiệp liên doanh. Vốn góp liên doanh có thể bằng tiền mặt
hoặc bằng hiện vật là vật tư, hàng hoá....theo thoả thuận của
các bên liên doanh.
- Nguồn vốn đi vay: vốn vay của các ngân hàng thương
mại hoặc tổ chức tín dụng, vốn vay của người lao động trong
doanh nghiệp, vay các doanh nghiệp khác.
- Nguồn vốn huy động từ thị trường vốn bằng việc phát
hành cổ phiếu, trái phiếu.
Việc phân chia vốn lưu động theo nguồn hình thành giúp
cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho nhu
cầu vốn lưu động trong kinh doanh của mình. Từ góc độ quản
lý tài chính mọi nguồn tài trợ đều có chi phí sử dụng của nó.
Do đó doanh nghiệp cần xem xét cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu
để giảm thấp chi phí sử dụng vốn của mình.
* Phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn.
Theo cách này nguồn vốn lưu động được chia thành
nguồn vốn lưu động tạm thời và nguồn vốn lưu động thường
xuyên.
- Nguồn vốn lưu động tạm thời là nguồn vốn có tính chất
ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời
về vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay
ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các khoản nợ
ngắn hạn khác.
- Nguồn vốn lưu động thường xuyên là nguồn vốn có tính
chất ổn định nhằm hình thành nên TSLĐ thường xuyên cần
thiết.
Chúng ta có thể khái quát như sau:
TSLĐ tạm thời Nguồn tạm thời
-TSLĐ thường xuyên

cần thiết
-TSCĐ
Nguồn thường xuyên
Việc phân loại nguồn vốn lưu động như trên giúp cho
người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn lưu động một
cách phù hợp với thời gian sử dụng để nâng cao hiệu quả tổ
chức và sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp mình. Ngoài ra nó
còn giúp cho nhà quản lý lập các kế hoạch tài chính hình thành
nên những dự định về tổ chức nguồn vốn lưu động trong
tương lai, trên cơ sở xác định quy mô, số lượng VLĐ cần thiết
để lựa chọn nguồn vốn lưu động này mang lại hiệu quả cao
nhất cho doanh nghiệp.
1.1.2. Kết cấu vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng tới kết cấu vốn lưu
động.
* Kết cấu vốn lưu động.
Kết cấu VLĐ phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần
vốn lưu động trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp.
VLĐ là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, vấn đề
tổ chức quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả sẽ quyết
định đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp, nhất
là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Doanh
nghiệp sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, điều này đồng
nghĩa với việc doanh nghiệp tổ chức được tốt quá trình mua
sắm dự trữ vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, phân bổ hợp
lý vốn trên các giai đoạn luân chuyển để vốn luân chuyển từ
loại này thành loại khác, từ hình thái này sang hình thái khác,
rút ngắn vòng quay của vốn.
Để quản lý vốn lưu động được tốt cần phải phân loại vốn
lưu động. Có nhiều cách phân loại vốn, mỗi cách phân loại có
tác dụng riêng phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý.

Thông qua các phương pháp phân loại giúp cho nhà quản trị
tài chính doanh nghiệp đánh giá tình hình quản lý và sử dụng
vốn của những kỳ trước, rút ra những bài học kinh nghiệm
trong công tác quản lý kỳ này để ngày càng sử dụng hiệu quả
hơn vốn lưu động. Cũng như từ các cách phân loại trên doanh
nghiệp có thể xác định được kết cấu vốn lưu động của mình
theo những tiêu thức khác nhau.
Trong các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu
động cũng không giống nhau. Việc phân tích kết cấu vốn lưu
động của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau
sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số
vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác
định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý vốn lưu động
có hiệu quả hơn phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh
nghiệp.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn lưu động.
Có ba nhóm nhân tố chính ảnh hưởng tới kết cấu VLĐ
của doanh nghiệp.
- Các nhân tố về mặt cung ứng vật tư như: khoảng cách
giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp; khả năng cung cấp của
thị trường; kỳ hạn giao hàng và khối lượng vật tư được cung
cấp mỗi lần giao hàng; đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư
cung cấp.
- Các nhân tố về mặt sản xuất như: đặc điểm, kỹ thuật,
công nghệ sản xuất của doanh nghiệp; mức độ phức tạp của
sản phẩm chế tạo; độ dài của chu kỳ sản xuất; trình độ tổ chức
quá trình sản xuất.
_ Các nhân tố về mặt thanh toán như: phương thức thanh
toán được lựa chọn theo các hợp đồng bán hàng; thủ tục thanh
toán; việc chấp hành kỷ luật thanh toán giữa các doanh

nghiệp.
1.2. Sự cần thiết phải tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn lưu động ở các doanh nghiệp.
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng VLĐ.
Trong điều kiện hiện nay, để tồn tại và phát triển hoạt động SXKD của
mình, các doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả, điều này phụ thuộc rất lớn
vào việc tổ chức quản lý và sử dụng nguồn vốn nói chung và VLĐ nói riêng.
Hiệu quả sử dụng VLĐ là một phạm trù kinh tế phản ánh quá trình sử dụng
các tài sản lưu động, nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp sao cho đảm bảo
mang lại kết quả XSKD là cao nhất với chi phí sử dụng vốn là thấp nhất.
Để đem lại hiệu quả cao trong SXKD đồi hỏi các doanh nghiệp phải sử
dụng có hiệu quả các yếu tố của quá trình SXKD trong đó có VLĐ. Hiệu quả
sử dụng VLĐ là những đại lượng phản ánh mối quan hệ so sánh giữa cấc chỉ
tiêu kết quả kinh doanh với chỉ tiêu VLĐ của doanh nghiệp.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là điều kiện cơ bản để có được một
nguồn VLĐ mạnh, có thể đảm bảo cho quá trình SXKD được tiến hành bình
thường, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư cải tiến công nghệ, kỹ thuật trong
kinh doanh và quản lý kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên
thị trường.
Phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ nhằm mục đích nhận thức và đánh giá
tình hình biến động tăng giảm của các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ, qua đó
tìm hiểu, phân tích những nguyên nhân làm tang, giảm. Từ đó đưa ra các biện
pháp quản lý, sử dụng VLĐ thích hợp cho doanh nghiệp, đem lại hiệu quả cao
trong SXKD.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình các doanh
nghiệp đã sử dụng VLĐ để đảm bảo cho quá trình sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm được bình thường và liên tục. Lợi ích kinh

doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả từng
đồng vốn lưu động. Việc sử dụng hợp lý, có hiệu quả VLĐ
được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau:
* Tốc độ luân chuyển VLĐ.
Việc sử dụng hợp lý tiết kiệm vốn lưu động được biểu
hiện trước hết ở tốc độ luân chuyển vốn lưu động của doanh
nghiệp nhanh hay chậm. Vốn lưu động luân chuyển càng
nhanh thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược
lại.
Tốc độ luân chuyển VLĐ có thể đo bằng hai chỉ tiêu là số
lần luân chuyển(số vòng quay vốn) và kỳ luân chuyển vốn(số
ngày của một vòng quay vốn). Số lần luân chuyển VLĐ phản
ánh số vòng quay vốn được thực hiện trong thời kỳ nhất định,
thường tính trong 1 năm. Công thức tính như sau:
M
VLĐ
Trong đó:
L: số lần luân chuyển(số vòng quay) của VLĐ trong kỳ.
M: tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ.
VLĐ; vốn lưu động bình quân trong kỳ.
Kỳ luân chuyển VLĐ phản ánh số ngày để thực hiện một
vòng quay VLĐ.
Công thức được xác định như sau:
360 (VLĐ x 360)
L M
Trong đó:
K: Kỳ luân chuyển VLĐ.
M,VLĐ: Như công thức trên.
Vòng quay VLĐ càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng
được rút ngắn và chứng tỏ VLĐ càng được sử dụng có hiệu

quả.
L =
K = Hay K =
* Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân
chuyển.
Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển
vốn được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu là mức tiết kiệm tuyệt đối
và mức tiết kiệm tương đối.
- Mức tiết kiệm tuyệt đối là do tăng tốc độ luân chuyển
vốn nên doanh nghiệp có thể tiết kiệm được một số vốn lưu
động để sử dụng vào công việc khác. Nói một cách khác với
mức luân chuyển vốn không thay đổi(hoặc lớn hơn báo cáo)
song do tăng tốc độ luân chuyển nên doanh nghiệp cần số vốn
ít hơn. Công thức tính như sau:
M
1

V
tktđ
= ( x K
1
) - V
LĐ0
= V
LĐ1
– V
LĐ0
360
Trong đó: V
tktđ

: Vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối.
V
LĐ0
, V
LĐ1
: Vốn lưu động bình quân năm báo cáo và
năm kế hoạch.
M1 : Tổng mức luân chuyển năm kế hoạch
K
1
: Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch
Điều kiện để có VLĐ tiết kiệm tuyệt đối là tổng mức luân
chuyển vốn kỳ kế hoạch phải không nhỏ hơn tổng mức luân
chuyển vốn kỳ báo cáo và vốn lưu động kỳ kế hoạch phải nhỏ
hơn vốn lưu động kỳ báo cáo.
- Mức tiết kiệm tương đối là do tăng tốc độ luân chuyển
vốn nên doanh nghiệp có thể tăng thêm tổng mức luân chuyển
vốn song không cần tăng thêm hoặc tăng không đáng kể quy
mô VLĐ. Công thức xác định số VLĐ tiết kiệm tương đối như
sau:
M
1
V
tktgđ
= x (K
1
– K
0
)
360

Trong đó:
V
tktgđ
: Vốn lưu động tiết kiệm tương đối.
M
1
: Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch.
K
0
, K
1
: Kỳ luân chuyển vốn năm báo cáo và năm kế
hoạch.
Điều kiện để có vốn lưu động tiết kiệm tương đối là tổng
mức luân chuyển vốn kỳ kế hoạch phải lớn hơn kỳ báo cáo và
VLĐ kỳ kế hoạch phải lớn hơn VLĐ kỳ báo cáo.
* Hiệu suất của VLĐ: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng
VLĐ có thể làm ra bao nhiêu đồng doanh thu
DT
Hiệu suất của VLĐ =
(H) VLĐ
Số DT tạo ra trên 1 đồng VLĐ càng lớn thì hiệu suất
của VLĐ càng cao.
* Hàm lượng VLĐ(hay còn gọi là mức đảm nhận VLĐ).
Hàm lượng VLĐ là số vốn lưu động cần có để đạt được
một đồng doanh thu. Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu
hiệu quả sử dụng VLĐ, chỉ tiêu này được tính như sau:
Hàm lượng : 1
H
Trong đó:

H:hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp.
* Mức doanh lợi VLĐ(tỷ suất lợi nhuận VLĐ)
Phản ánh một đồng VLĐ có thể tạo ra bao nhiêu đồng
LNTT hoặc sau thuế TN, TSLĐ vốn lưu động càng cao thì
chứng tỏ hiệu quả của VLĐ càng cao.
- Tỷ suất lợi nhuận VLĐ trước thuế và lãi vay: chỉ tiêu
này phản ánh mức sinh lời của VLĐ chưa có sự tác động của
thuế TNDN và chưa tính đến VLĐ được hình thành từ nguồn
nào.
Công thức tính như sau:
LN trước thuế và lãi
vay
Tỷ suất VLĐ trước thuế và lãi vay =
x 100%
VLĐ =
VLĐ
Trong đó:
VLĐ: vốn lưu động bình quân trong kỳ.
- Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động tính với lợi nhuận trước
thuế.
Chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ chưa có sự
tác động của thuế TNDN.
Công thức tính như sau:
LN trước thuế
Tỷ suất VLĐ trước thuế = x 100%
VLĐ
- Tỷ suất lợi nhuận thuần: chỉ tiêu này phản ánh mức sinh
lời của VLĐ, một đồng vốn lưu động có thể đạt được bao
nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Chỉ tiêu này phản ánh mức sinh
lời của VLĐ đã chịu sự tác động của cả thuế TNDN và lãi

vay.
Công thức tính như sau:
LN sau thuế
Tỷ suất VLĐ sau thuế = x 100%
VLĐ
Trên đây là một số chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá hiệu
quả tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp giúp cho nhà
quản lý tài chính đánh giá đúng đắn tình hình của kỳ trước, từ
đó có nhận xét và nêu ra những biện pháp nâng cao hiệu quả
tổ chức quản lý vốn cho kỳ tiếp theo.
1.2.3. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn
lưu động trong doanh nghiệp.
VLĐ đóng một vai trò rất quan trọng trong hợp đồng sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cùng một lúc, VLĐ
được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và biểu
hiện dưới nhiều hình thái khác nhau. Để đảm bảo cho quá
trình sản xuất được tiến hành thường xuyên liên tục, đòi hỏi
doanh nghiệp phải có đủ VLĐ vào các hình thái đó, để cho
hình thái đó có được mức tồn tại tối ưu và đồng bộ với nhau
nhằm tạo điều kiện cho việc chuyển hoá hình thái của vốn
trong quá trình luân chuyển được thuận lợi. Do sự chu chuyển
của VLĐ diễn ra không ngừng nên thiếu vốn thì việc chuyển
hoá hình thái sẽ gặp khó khăn, VLĐ không luân chuyển được
và quá trình sản xuất do đó bị gián đoạn.
Quản lý VLĐ là một bộ phận trọng yếu của công ty quản
lý tài chính doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ
cũng chính là nâng cao hiệu quả của hoạt đông sản xuất kinh
doanh. Quản lý VLĐ không những đảm bảo sử dụng VLĐ hợp
lý, tiết kiệm mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tiết kiệm
chi phí, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và thanh toán công nợ một

cách kịp thời. Do đặc điểm của VLĐ là luân chuyển nhanh, sử
dụng linh hoạt nên nó góp phần quan trọng đẩm bảo sản xuất
và luân chuyển một khối lượng lớn sản phẩm. Vì vậy kết quả
hoạt động của doanh nghiệp là tốt hay xấu phần lớn là do chất
lượng của công tác quản lý VLĐ quyết định.
Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng VLĐ phải
được hiểu trên hai khía cạnh:
+ Một là, với số vốn hiện có có thể cung cấp thêm một số
lượng sản phẩm với chất lượng tốt, chi phí hạ nhằm tăng thêm
lợi nhuận doanh ntghiệp.
+ Hai là, đầu tư thêm vốn một cách hợp lý nhằm mở rộng
quy mô sản xuất kinh doanh nhằm tăng doanh số tiêu thụ với
yêu cầu bảo đảm tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ
tăng vốn.
Hai khía cạnh đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới trong
công tác quản lý và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói
chung và VLĐ nói riêng.
Mỗi doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế, vì vậy
nền kinh tế muốn phát triển thì doanh nghiệp hoạt động phải
có hiệu quả. Như đã phân tích ở trên, sử dụng hiệu quả VLĐ
là một nhân tố tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, không thể phủ nhận vai
trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ đối với sự phát
triển của nền kinh tế.
Trên thực tế những năm vừa qua, hiệu qủa sử dụng vốn
nói chung và VLĐ nói riêng của các doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp Nhà nước đạt thấp. Nguyên nhân chính là
các doanh nghiệp chưa bắt kịp với cơ chế thị trường nên còn
nhiều bất cập trong công tác quản lý và sử dụng vốn.
Mặt khác, hiệu quả sử dụng VLĐ là chỉ tiêu chất lượng

phản ánh tổng hợp những cố gắng, những biện pháp hữu hiệu
về kĩ thuật, về tổ chức sản xuất, tổ chức thúc đẩy sản xuất phát
triển. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là đảm bảo với số vốn
hiện có, bằng các biện pháp quản lý và tổng hợp nhằm khai
thác để khả năng vốn có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho
doanh nghiệp.
Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử
dụng một cách hợp lý, hỉệu quả từng đồng VLĐ nhằm làm cho
VLĐ được thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất. Việc tăng tốc độ
luân chuyển vốn cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của
vốn, qua đó, vốn được thu hồi nhanh hơn, có thể giảm bớt
được số VLĐ cần thiết mà vẫn hoàn thành được khối lượng
sản phẩm hàng hoá bằng hoặc lớn hơn trước. Nâng cao hiệu
quả sử dụng VLĐ còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm
chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và hạ giá thành sản phẩm.
Hơn nữa, mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp là thu được lợi nhuận và lợi ích xã hội chung
nhưng bên cạnh đó một vấn đề quan trọng đặt ra tối thiểu cho
các doanh nghiệp là cần phải bảo toàn VLĐ. Do đặc điểm
VLĐ lưu chuyển toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm và
hình thái VLĐ thường xuyên biến đổi vì vậy vấn đề bảo toàn
VLĐ chỉ xét trên mặt giá trị . Bảo toàn VLĐ thực chất là đảm
bảo cho số vốn cuối kỳ được đủ mua một lượng vật tư, hàng
hoá tương đương với đầu kỳ khi giá cả hàng hoá tăng lên, thể
hiện ở khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu
động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán của
doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cường quản lý và nâng cao
hiệu quả sử dụng VLĐ còn giúp cho doanh nghiệp luôn có
được trình độ sản xuất kinh doanh phát triển, trang thiết bị, kỹ
thuật được cải tiến. Việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến công nghệ

hiện đại sẽ tạo ra khả năng rộng lớn để nâng cao năng suất lao
động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh cho
sản phẩm trên thị trường. Đặc biệt khi khai thác được các
nguồn vốn, sử dụng tốt nguồn vốn lưu động, nhất là việc sử
dụng tiết kiệm hiệu quả VLĐ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh để giảm bớt nhu cầu vay vốn cũng như việc giảm chi
phí về lãi vay.
Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao
hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động trong các
doanh nghiệp. Đó là một trong những nhân tố quyết định cho
sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn nữa là sự tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế.
1.3. Một số biện pháp tăng cường quản lý và nâng cao
hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động.
Việc tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động chịu ảnh
hưởng bởi rất nhiều nhân tố khác nhau. Để phát huy những
nhân tố tích cực đòi hỏi nhà quản trị phải nắm bắt được những
nhân tố chủ yếu tác động đến công tác tổ chức quản lý và sử
dụng vốn lưu động.
1.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức quản lý và hiệu quả sử
dụng vốn lưu động.
* Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác tổ chức quản lý
vốn lưu động.
Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp bao gồm nguồn
vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Do đó việc tổ chức quản lý vốn
lưu động cũng chịu ảnh hưởng của hai nguồn này.
- Nguồn vốn chủ sở hữu: là số VLĐ thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ quyền chiếm hữu,
chi phối và định đoạt. Nguồn vốn này có lợi thế rất lớn vì
doanh nghiệp được quyền chủ động sử dụng một cách linh

hoạt và không chịu chi phí sử dụng vốn. Vì thế, nếu doanh
nghiệp tổ chức khai thác triệt để nguồn vốn này sẽ vừa tạo ra
được một lượng vốn cung ứng cho nhu cầu sản xuất kinh
doanh, lại vừa giảm được một khoản chi phí sử dụng vốn
không cần thiết do phải đi vay từ bên ngoài, đồng thời nâng
cao được hiệu quả đồng vốn hiện có.
- Nợ phải trả: là các khoản VLĐ được hình thành từ vốn
vay các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác,
vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ khách
hàng chưa thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường, ngoài vốn
chủ sở hữu doanh nghiệp còn huy động các khoản nợ phải trả
để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của mình. Việc huy động
các khoản nợ phải trả không những đáp ứng kịp thời VLĐ cho
sản xuất kinh doanh mà còn tạo cho doanh nghiệp một cơ cấu
vốn linh hoạt. Tuy nhiên, việc cân nhắc lựa chọn hình thức thu
hút VLĐ tích cực lại là nhân tố quyết định trực tiếp đến hiệu
quả của công tác tổ chức VLĐ. Nếu doanh nghiệp xác định
chính xác nhu cầu VLĐ, lựa chọn phương án đầu tư vốn có
hiệu quả, tìm được nguồn tài trợ thích ứng sẽ đem lại thành
công cho doanh nghiệp. Ngược lại nợ vay sẽ trở thành gánh
nặng rủi ro đối với doanh nghiệp.
* Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng
vốn lưu động.
Vốn lưu động được vận động chuyển hoá không ngừng.
Trong quá trình vận động đó, vốn lưu động chịu tác động bởi
nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu
động của doanh nghiệp.
* Các nhân tố khách quan: hiệu quả sử dụng vốn lưu
động của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của một số nhân tố:
+ Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: Do tác động của

nền kinh tế tăng trưởng chậm nên sức mua của thị trường bị
giảm sút. Điều này làm ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ của
doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ khó tiêu thụ hơn,
doanh thu sẽ ít hơn, lợi nhuận giảm sút và như thế sẽ làm giảm
hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng.
+ Rủi ro: do những rủi ro bất thường trong quá trình sản
xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải trong
điều kiện kinh doanh của cơ chế thị trường có nhiều thành
phần kinh tế tham gia cùng cạnh tranh với nhau. Ngoài ra
doanh nghiệp còn gặp phải những rủi ro do thiên tai gây ra
như hoả hoạn, lũ lụt...mà các doanh nghiệp khó có thể lường
trước được.
+ Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
nên sẽ làm giảm giá trị tài sản, vật tư...vì vậy, nếu doanh
nghiệp không bắt kịp điều này để điều chỉnh kịp thời giá trị
của sản phẩm thì hàng hoá bán ra sẽ thiếu tính cạnh tranh làm
giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói
riêng.
+ Ngoài ra, do chính sách vĩ mô của Nhà nước có sự thay
đổi về chính sách chế độ, hệ thống pháp luật, thuế... cũng tác
động đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
* Các nhân tố chủ quan:
Ngoài các nhân tố khách quan nêu trên còn rất nhiều nhân tố chủ quan
của chính bản thân doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VLĐ
cũng như toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp.
+ Xác định nhu cầu vốn lưu động: do xác định nhu cầu
VLĐ thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn
trong sản xuất kinh doanh, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt
đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu

quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Nếu Doanh nghiệp xác định nhu cầu VLĐ quá cao sẽ
không khuyến khích Doanh nghiệp khai thác các khả năng
tiềm tàng tìm mọi biện pháp cải tiến hoạt động sản xuất kinh
doanh để nâng cao hiệu quả của VLĐ; gây nên tình trạng ứ
đọng vật tư hàng hóa; vốn chậm luân chuyển và phát sinh các
chi phí không cần thiết làm tăng giá thành sản phẩm . Ngược
lại, nếu Doanh nghiệp xác định nhu cầu VLĐ quá thấp sẽ gây
nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh
nghiệp, Doanh nghiệp thiếu vốn sẽ không đảm bảo sản xuất
liên tục gây ra những thiệt hại do ngừng sản xuất, không có
khả nang thanh toán và thực hiện các hợp đồng đã ký kết với
khách hàng.
+ Việc lựa chọn phương án đầu tư: là một nhân tố cơ bản
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh
nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra những sản phẩm
lao vụ dịch vụ chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu
người tiêu dùng, đồng thời giá thành hạ thì doanh nghiệp thực
hiện được quá trình tiêu thụ nhanh, tăng vòng quay của vốn
lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ và ngược lại.
+ Do trình độ quản lý: trình độ quản lý của doanh nghiệp
mà yếu kém sẽ dẫn đến thất thoát vật tư hàng hoá trong quá
trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến
sử dụng lãng phí VLĐ, hiệu quả sử dụng vốn thấp.
+ Do kinh doanh thua lỗ kéo dài, do lợi dụng sơ hở của
các chính sách gây thất thoát VLĐ, điều này trực tiếp làm
giảm hiệu quả sử dụng VLĐ.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng tới
công tác tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Để hạn
chế những tiêu cực ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả tổ chức

và sử dung VLĐ, các doanh nghiệp cần nghiên cứu xem xét
một cách kỹ lưỡng sự ảnh hưởng của từng nhân tố, tìm ra
nguyên nhân của những mặt tồn tại trong việc tổ chức sử dụng
VLĐ, nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhất, để hiệu
quả của đồng vốn lưu động mang lại là cao nhất.
1.3.2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc tổ chức quản lý và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp nhà nước cũng
như mọi doanh nghiệp khác đều bình đẳng trước pháp luật,
phải đối mặt với cạnh tranh, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận,
tự chủ về vốn. Do đó, việc nâng cao sử dụng vốn sản xuất kinh
doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng là vấn đề quan
trọng và cần thiết. Để sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, các
doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt một số biện pháp sau:
-Thứ nhất, phải xác định chính xác số VLĐ cần thiết cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra
kế hoạch tổ chức huy động VLĐ đáp ứng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp cho hoạt động sản
xuất kinh doanh được thuận lợi, đồng thời tránh tình trạng ứ
đọng vốn, thúc đẩy VLĐ luân chuyển nhanh nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn.
Xác định đúng đắn nhu cầu VLĐ thường xuyên, cần thiết
để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh
nghiệp được tiến hành liên tục, tiết kiệm và có hiệu quả kinh
tế cao. Trong điều kiện các Doanh nghiệp chuyển sang thực
hiện hạch toán kinh tế theo cơ chế thị trường, mọi nhu cầu về
VLĐ cho sản xuất kinh doanh các Doanh nghiệp đều phải tự
tài trợ thì việc xác định đúng nhu cầu VLĐ sẽ giúp Doanh
nghiệp:
- Tránh được tình trạng ứ đọng vốn, sử dụng vốn hợp lý

và tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ.
- Đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp
được tiến hành bình thường và liên tục.
- Không gây nên sự căng thẳng giả tạo về nhu cầu VKD
của Doanh nghiệp
- Là căn cứ quan trọng cho việc xác định các nguồn tài
trợ nhu cầu VLĐ của Doanh nghiệp.
Tuy nhiên nhu cầu VLĐ của Doanh nghiệp là một đại
lượng không cố định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
như:
- Quy mô sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ
- Sự phát triển của giá cả các vật tư, hàng hóa mà Doanh
nghiệp sử dụng trong sản xuất.
- Chính sách, chế độ về lao động và tiền lương được
người lao động trong Doanh nghiệp.
- Trình độ tổ chức, quản lý sử dụng VLĐ của Doanh
nghiệp trong quá trình dự trữ sản xuất, sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm.
Vì vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ, giảm thấp
tương đối, nhu cầu VLĐ không cần thiết Doanh nghiệp cần
tìm các biện pháp phù hợp tác đông jđến các nhân tố ảnh
hưởng trên sao cho có hiệu quả nhất.
-Thứ hai, lựa chọn hình thức thu hút VLĐ. Tích cực tổ
chức khai thác triệt để các nguồn VLĐ bên trong doanh
nghiệp, vừa đáp ứng kịp thời vốn cho nhu cầu VLĐ tối thiểu
cần thiết một cách chủ động, vừa giảm được một khoản chi
phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp. Tránh tình trạng vốn tồn
tại dưới hình thái tài sản không cần sử dụng, vật tư hàng hoá
kém phẩm chất... mà doanh nghiệp lại phải đi vay để duy trì
sản xuất với lãi suất cao, chịu sự giám sát của chủ nợ làm

giảm hiệu quả SXKD.
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VLĐ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VLĐ TẠI CÔNG TY
IN - THƯƠNG MẠI - DỊCH VỤ NH NN
0
& PTNT VIỆT NAM
2.1. Vài nét về Công ty In - Thương mại - Dịch vụ Ngân hàng NN
0
& PTNT
Việt Nam .
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty In - Thương mại -
Dịch vụ Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt Nam.
2.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Công ty In - Thương mại - Dịch vụ Ngân hàng NN
0
&
PTNT Việt Nam. Công ty có trụ sở chính tại tầng 5 toà nhà
C3, phường Phương Liệt - Quận Thanh Xuân - Thành phố Hà
Nội. Công ty được hình thành trên cơ sở sự sáp nhập và hợp
nhất ba đơn vị là: Nhà In Ngân hàng I, Nhà In Ngân hàng II và
Công ty Đầu tư Thương mại Dịch vụ Ngân hàng.
- Nhà In Ngân hàng I được thành lập ngày 15/11/1945,
thành lập lại theo quyết định số 08/QĐ-NHNN ngày
20/01/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Có trụ sở
chính tại số 10 Chùa Bộc - Quận Đống Đa - Thành phố Hà
Nội.
- Nhà In Ngân hàng II được thành lập ngày 25/05/1976,
thành lập lại ngày 20/01/1993 theo Quyết định số 07/QĐ-

NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Có trụ
sở chính tại số 422 đường Trần Hưng Đạo - Quận 5 - Thành
phố Hồ Chí Minh.
Nhà In Ngân hàng I và Nhà In Ngân hàng II đã được sáp
nhập vào Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt Nam theo Quyết định
số 1309/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước.
- Công ty Đầu tư - Thương mại - Dịch vụ Ngân hàng
được thành lập ngày 20/06/1994 theo Quyết định số 1206/QĐ-
UB của UBND thành phố Hà Nội. Công ty được chuyển giao
nguyên trạng về Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt Nam theo
Quyết định số 94/2001/QĐ-UB ngày 25/10/2001 của UBND
thành phố Hà Nội.
Đến ngày 16/11/2001 theo Quyết định số 1431/QĐ-
NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ba đơn vị kinh tế
trên đã đều được sáp nhập vào Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt
Nam.
Để có thể đáp ứng tốt và phục vụ nhu cầu cho ngành
Ngân hàng ngày 18/03/2002 theo Quyết định số
53/QĐ/HĐQT-TCCB của Chủ tịch Hội đồng quản trị, Ngân
hàng NN
0
& PTNT Việt Nam đã hợp nhất Nhà In Ngân hàng I
với Công ty Đầu tư - Thương mại - Dịch vụ Ngân hàng; Nhà

In Ngân hàng II cũng được chuyển thành đơn vị trực thuộc
Công ty Đầu tư - Thương mại - Dịch vụ Ngân hàng theo
Quyết định số 115/QĐ-HĐQT ngày 23/05/2002. Như vậy ba
đơn vị kinh tế độc lập đã được hợp nhất trở thành một đơn vị
kinh tế vững mạnh với một cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến
hiện đại, đội ngũ cán bộ công nhân viên tương đối lớn giàu
kinh nghiệm, kinh doanh nhiều ngành nghề như in ấn, khách
sạn, du lịch, xây dựng cơ bản. Vì vậy để có thể khai thác triệt
để có hiệu quả cơ sở vật chất sẵn có, sử dụng hết công suất
của máy móc thiết bị, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho cán
bộ công nhân viên, ngày 29/01/2004 Công ty In - Thương mại
- Dịch vụ Ngân hàng đã được thành lập theo Quyết định số 50/
QĐ/HĐQT-TCCB của Hội đồng quản trị Ngân hàng NN
0

PTNT Việt Nam. Kể từ đó Công ty trở thành một đơn vị kinh
tế với đủ tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập bằng vốn tự có,
được Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt Nam cấp 100% vốn điều
lệ là 80tỷ VND. Hiện nay Công ty đang từng bước khẳng định
vị trí của mình, hoạt động SXKD ngày càng mở rộng đáp ứng
tốt nhu cầu của ngành Ngân hàng ngoài ra còn đáp ứng được
nhu cầu của các đơn vị tổ chức kinh tế khác ngoài ngành.
Hiện nay Công ty đã và đang ngày một trưởng thành, lớn
mạnh gồm 4 đơn vị kinh tế trực thuộc là:
- Nhà In Ngân hàng I; Nhà In Ngân hàng II; Trung tâm
Quảng cáo; Công ty Xây dựng và Dịch vụ Ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh của Công ty không ngừng được
mở rộng trên phạm vi toàn quốc.

2.1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty.
Công ty In - Thương mại - Dịch vụ Ngân hàng là một
doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ và
tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh và tài chính của
mình, chịu sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ đối với
Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt Nam. Phải tự bù đắp chi phí và
đảm bảo kinh doanh có lãi trên cơ sở tuân theo những nguyên
tắc của chế độ hạch toán kinh tế.
* Nhiệm vụ cơ bản của Công ty là: Phục vụ các nhu cầu
về dịch vụ, thương mại cho hoạt động của Ngân hàng NN
0
&
PTNT Việt Nam. Bên cạnh đó tiến hành SXKD, thương mại,
dịch vụ khác nhằm thu nhiều lợi nhuận để duy trì, phát triển,
và mở rộng Công ty. Liên doanh, liên kết với các tổ chức cá
nhân trong ngoài nước để mở rộng phạm vi hoạt động.
* Chức năng của Công ty: Do nhiệm vụ, tính chất và đặc
điểm của Công ty In - Thương mại - Dịch vụ Ngân hàng như
trên làm cho Công ty có nhiều chức năng như là: Chức năng
thương mại, chức năng sản xuất, chức năng dịch vụ. Các chức
năng này được thể hiện rõ qua các ngành nghề kinh doanh của
Công ty.
Các ngành nghề kinh doanh chủ yếu:
- In các ấn phẩm phục vụ cho hoạt động của Ngân hàng
NN
0
& PTNT Việt Nam, của các tổ chức tín dụng khác và
khách hàng của tổ chức tín dụng.

- Thực hiện các loại hình dịch vụ quảng cáo phục vụ cho
hoạt động của Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt Nam, của các tổ
chức tín dụng và khách hàng của tổ chức tín dụng.
- Kinh doanh khách sạn, nhà hàng, du lịch và dịch vụ,
hoạt động du lịch lữ hành hiện có của Ngân hàng NN
0
&
PTNT Việt Nam.
- Nhập khẩu, kinh doanh vật tư, thiết bị, phương tiện vận
tải chuyên dùng, thiết bị in cho ngành Ngân hàng.
- Thiết kế, thi công các công trình xây dựng cơ bản phục
vụ cho hoạt động của Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt Nam.
- Nhận làm dịch vụ uỷ thác về huy động, tiết kiệm, uỷ
thác phát hành trái phiếu cho Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt
Nam và đại lý phát hành các sản phẩm Ngân hàng.
- Thực hiện các nghiệp vụ khác theo uỷ quyền của Ngân
hàng NN
0
& PTNT Việt Nam và theo quy định của pháp luật.
2.1.1.3. Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý của Công ty
Là một đơn vị kinh tế hạch toán độc lập với nhiều chức
năng trên các lĩnh vực thương mại, du lịch, dịch vụ, xây dựng
hơn nữa lại tiến hành SXKD trong nền kinh tế thị trường có sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN, Công ty

In - Thương mại - Dịch vụ Ngân hàng đã và đang có những
bước thay đổi đáng kể trong việc tổ chức cơ cấu bộ máy quản
lý, điều hành, sắp xếp lại lao động. Cơ cấu quản lý của Công
ty được tổ chức theo kiểu một cấp, được chia thành các phòng
ban chức năng gọn nhẹ, phù hợp với yêu cầu quản lý của
Công ty.
Đứng đầu Công ty là Giám đốc Công ty, giúp việc cho
Giám đốc là các Phó Giám đốc, Kế toán trưởng và bộ máy
chuyên môn nghiệp vụ.
- Giám đốc Công ty là người chịu trách nhiệm trước
Ngân hàng NN
0
& PTNT Việt Nam và pháp luật về việc điều
hành hoạt động của Công ty. Giám đốc là người phụ trách
chung và trực tiếp chỉ đạo các phòng ban chức năng.
- Phó Giám đốc: Là người trợ lý, tham mưu, giúp Giám
đốc điều hành một số lĩnh vực hoạt động của Công ty theo sự
phân công của Giám đốc như: Giải quyết vấn đề đầu vào, đầu

×