Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

SKKN Một số kinh nghiệm hữu ích giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 66 trang )

SKKN Một số kinh nghiệm hữu ích giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học là nhu cầu thiết
yếu đặt ra đối với những người đang làm nhiệm vụ giảng dạy. Ngồi việc cung cấp
kiến thức như các mơn học khác, mơn Ngữ Văn cịn góp phần to lớn trong việc bồi
dưỡng tư tưởng tình cảm cho các em học sinh: biết u thương, q trọng gia đình,
thầy cơ, bạn bè, có lịng u nước, biết hướng tới những tư tưởng cao đẹp như lịng
nhân ái, tinh thần tơn trọng lẽ phải, sự cơng bằng, lịng căm ghét cái ác, cái xấu, bước
đầu các em có năng lực cảm thụ các tác phẩm có giá trị nhân văn cao cả.
Vậy, làm thế nào để học sinh ngày nay có tình u bộ mơn xã hội và đặc biệt có thể
học tốt Ngữ Văn? Đó là vấn đề khiến nhiều giáo viên dạy Ngữ Văn trăn trở.
Dạy văn trong nhà trường phổ thông đang là một thử thách lớn với GV hiện
nay. Dạy như thế nào cho hay, hiệu quả cao, tạo sự hứng thú, say mê cho HS quả
thực là cả một vấn đề lớn. Việc HS khơng thích thú với mơn văn cũng có nhiều lí do,
tuy nhiên có một ngun nhân khá quan trọng đó là: Thầy cơ giáo chưa thực sự tạo ra
sự cuốn hút HS bằng bài giảng của mình. Thầy cơ chưa thực sự có nhưng bước ngoặt
đột phá trong việc đổi mới phương pháp, vẫn nặng về phương pháp truyền thống thế
nên việc dạy và học chưa thực sự hiệu quả.
Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở THCS nhiều năm, tôi nhận thấy muốn
giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tơi nghĩ rằng mình cần phải
biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học

1


sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực
sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.
Với vai trị tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của HS, hơn ai
hết việc phải tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của
người học, tạo niềm hứng thú say mê học tập ở các em chính là nhiệm vụ quan trọng


đối với mỗi người GV đứng lớp. Xuất phát từ những vấn đề trên, với mong
muốn góp một phần vào việc tạo thêm hứng thú cho người học, giúp học sinh tích
cực, chủ động tiếp nhận tri thức và hình thành kĩ năng, phát triển nhân cách, đồng
thời nhằm góp phần đổi mới những phương pháp dạy học Ngữ văn truyền thống tôi
mạnh dạn xin được trao đổi một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng
dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THCS với đề tài: “Một số kinh nghiệm hữu ích giúp
học sinh học tốt mơn Ngữ văn 8”
II. Mục đích (mục tiêu) nghiên cứu:
- Góp phần nâng cao chất lượng và tạo hứng thú học tập môn học của học sinh.
- Giúp học sinh nắm chắc được những kiến thức chuẩn môn học một cách nhẹ
nhàng thông qua những giờ học trải nghiệm, thảo luận và những trị chơi phù hợp.
- Góp phần giải quyết tình trạng lười học, chán học và khơng biết cách học
môn học Ngữ văn của học sinh trong nhà trường hiện nay. Từ đó tạo điều kiện cho
giáo viên hứng khởi hơn trong những giờ dạy Văn.

PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2


I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Chúng ta biết rằng, môn Ngữ văn là môn học kết tinh nhiều giá trị văn hóa
truyền thống và nhân loại,, là mơn học cơ bản có ý nghĩa góp phần trong việc hình
thành, phát triển, định hướng nhân cách và rèn luyện những kĩ năng cơ bản cho học
sinh. Đối tượng môn Ngữ văn là những tác phẩm văn thơ mà những tác phẩm văn
thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Môn học kích thích trí tưởng tượng bay bổng, sáng tạo
của các em. Qua thực tế giảng dạy, nhiều năm trở lại đây, tơi thấy rằng ngày càng có
ít học sinh giỏi môn Ngữ văn hơn. Các em không mấy hứng thú, khơng u thích khi
chọn lựa so với các mơn Tốn, Lý, Hóa. Với lối học hình thức, qua loa, coi môn Văn
là môn học bắt buộc để lấy danh hiệu HSG, HSTT và thi hết cấp.
Trước thực trạng đó giáo viên không nên chán nản, bỏ cuộc và đổ tất cả lỗi cho

học sinh. Người xưa có câu: “Tiên trách kỷ-hậu trách nhân”, muốn trách người thì
phải trách mình trước! Tôi nghĩ rằng mỗi giáo viên cần xem lại phương pháp dạy của
mình, cách thức truyền đạt kiến thức của mình đến học sinh. Quan trọng là thái độ
của người dạy đối với người học như thế nào trong những tình huống người học có
lỗi như: khơng thuộc bài, không làm bài, làm chuyện riêng, phát biểu linh tinh… Nói
chung là phải có lịng bao dung, vị tha, phải đứng trên quan điểm khách quan, có sự
nghiên cứu tìm ra giải pháp để lôi cuốn học sinh đến gần hơn và u thích mơn Văn
hơn.
Thực tế cũng đã chứng minh rằng, khi giáo viên khơi gợi được hứng thú học
tập thì hiệu quả được nâng cao, học sinh tích cực chủ động trong học tập. Trong
phạm vi của Sáng Kiến Kinh Nghiệm, tôi xin đề cập đến phương pháp: “Một số kinh
nghiệm hữu ích giúp học sinh học tốt mơn Ngữ văn 8” với mục đích thực hiện
mục tiêu đổi mới phương pháp dạy và học. Đồng thời phát huy được tính tích cực, tự
3


giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học.
Bồi dưỡng cho các em phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh khi học bộ môn Ngữ Văn.
II. Thực trạng vấn đề:
1. Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Sở, Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nên hàng năm
các giáo viên đều được bồi dưỡng thường xuyên về vấn đề thay sách và đổi mới
phương pháp dạy học.
- Các thầy cô giáo giảng dạy bộ môn đều đạt chuẩn về chun mơn nghiệp vụ,
có lịng u nghề, nhiệt tình trong giảng dạy. Xác định tầm quan trọng của mơn Ngữ
Văn nên đa số học sinh có ý thức học tập bộ môn. Học sinh đại đa số là con em nông
dân nên tâm tư rất thuần chất, chăm chỉ, biết lắng nghe, có ý thức cố gắng trong học

tập.
- Bên cạnh đó tơi cịn được sự giúp đỡ nhiệt tình và trao đổi những kinh nghiệm
quý báu từ các đồng nghiệp trong tổ. Bản thân tôi cũng có nhiều cố gắng học hỏi, tìm
tịi những phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm nâng cao chất lượng bộ mơn và đặc
biệt là giúp các em ham thích mơn học này.
* Khó khăn:
Tuy nhiên theo đặc thù bộ môn, theo xu thế của xã hội, môn Ngữ văn đang bị
mất dần vị thế của nó. học sinh ít mặn mà với bộ môn Văn và chỉ coi môn Văn là
môn học bắt buộc để thi hết cấp, thi vào lớp 10.
4


Nhiều học sinh chưa hiểu rõ tầm quan trọng của tiếng Việt nên đa số các em
đọc và nói chưa tốt, chưa hiểu đúng văn bản được học, diễn đạt cịn lủng củng, câu
văn khó hiểu.
Vốn hiểu biết của các em chưa phong phú vì thế các em chưa học tốt được
môn ngữ Văn.
Một số em chưa thật sự yêu thích mơn học Ngữ văn.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
1. Mục tiêu của giải pháp
Chương trình Ngữ Văn lớp 8 nặng và độ phức tạp cao đòi hỏi sự tư duy, sự
chăm chỉ soạn văn lớp 8 và làm bài tập về nhà của học sinh. Tuy nhiên điều đó là
khơng đủ để học sinh học tốt môn Ngữ văn, vậy kinh nghiệm học tốt mơn Ngữ văn
lớp 8 là gì? Hãy cùng tham khảo những kinh nghiệm dưới đây để bạn có thể cải thiện
trình độ học văn và được điểm số mơn Văn.
Từ thực tiễn giảng dạy của giáo viên và kết quả học tập của học sinh chúng tôi
xin đưa ra một số kinh nghiệm, giải pháp hữu ích giúp HS học tốt môn Ngữ văn 8
nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ Văn.
2. Nội dung và cách thức thực hiện
2.1. Nội dung:

Trước hết giáo viên phải là tấm gương sáng về đạo đức, lòng yêu nghề, ham
học hỏi và luôn luôn phấn đấu để trau dồi chuyên môn cho học sinh noi theo. Bản
thân tôi vừa là giáo viên dạy Ngữ văn vừa là giáo viên chủ nhiệm nên khi đến trường
tơi đều có những tác phong làm gương cho học sinh.

5


Tôi luôn chuẩn bị bài rất kĩ trước khi đến lớp. Bởi nếu giáo viên có đầu tư về
phương tiện dạy học và nắm chắc được kiến thức, hứng thú khi giảng dạy thì mới
truyền cảm hứng cho học sinh được. Hơn nữa, do đặc thù môn Văn không được yêu
thích, ngại học và khả năng cảm thụ văn chương của học sinh kém nên nếu giáo viên
không chuẩn bị bài trước sẽ khiến giờ học rất nhàm chán, buồn ngủ với học sinh. Để
các em yêu thích học bộ mơn, tơi thay đổi khơng khí học, hứng thú hơn vào tiết học,
tôi thường lồng ghép vào bài giảng những mẫu chuyện nhỏ, những câu đố hay, giúp
các em có thêm năng lực tư duy, phán đoán và kĩ năng sống.
Bên cạnh đó, cần phải hướng cho học sinh ngay từ đầu năm về quy cách học,
yêu cầu của giáo viên cần với bộ môn. Sát sao, nghiêm khắc ngay từ những tiết học
đầu để học sinh làm theo như: cách thức chuẩn bị bài, soạn bài, kiểm tra bài cũ, thu
vở chấm định kì, lấy vào điểm kiểm tra thường xuyên. Khuyến khích các em qua
việc chấm điểm khi các em sôi nổi xây dựng bài, cộng điểm khi có những phát hiện
hay trên tiết học,... Ngồi ra, giáo viên cần phải lồng ghép nhiều cách thức khác tôi
sẽ trình bày cụ thể dưới đây.
2.2. Cách thức thực hiện:
a. Hướng dẫn học sinh cách học (trên lớp và ở nhà)
Tạo niềm yêu thích và sự hứng thú khi học Ngữ văn
Qua thực tế giảng dạy, dù là môn học nào, khi khơng có sự hứng thú thì học
sinh sẽ trở nên lười suy nghĩ, làm bài một cách máy móc, chống đối và mơn Ngữ văn
cũng thế. Tơi nhận thấy muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, giáo viên phải khơi dậy được
hứng thú học tập của học sinh. Từ đó mới phát huy được tính chủ động, tích cực,

sáng tạo của học sinh. Thực tế cũng đã chứng minh rằng, khi giáo viên khơi gợi được
6


hứng thú học tập thì hiệu quả được nâng cao, học sinh tích cực chủ động trong học
tập. Học mơn Ngữ văn cũng tùy thuộc vào tâm trạng, cảm xúc của người học. Nếu
bạn muốn học tốt môn Ngữ Văn thì bạn cần tìm động lực, niềm vui để có thể bắt đầu
học mơn này.
Đồng chí Lê Duẩn từng nói: “Thầy giáo khơng chỉ dạy cho học trị bằng
những cơng thức, bằng những câu, những từ có sẵn mà phải dạy bằng tất cả tâm hồn
mình”. Để học sinh ln chủ động, tích cực, tự giác đặc biệt có hứng thú với môn
học, trước hết, giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất cả trái tim và lòng tâm
huyết của mình, phải để người học cảm nhận được tâm hồn mình trong mỗi bài
giảng.
Thực sự quan tâm đến học trò, biết lắng nghe, chia sẻ với những suy nghĩ, tâm tư của
học trò. Sẵn sàng là người bạn chia sẻ. Từ đó tạo được niềm tin, xóa bớt được khoảng
cách giữa giáo viên với học sinh (tâm lí, tuổi tác…), tạo ra khơng khí học tập thân
thiết, gần gũi… Theo quy luật lây lan tình cảm, từ chỗ yêu q, trân trọng thầy cơ đến
thích học mơn học đó là một khoảng cách rất ngắn.
Khi giảng dạy cần chú ý đến từng loại đối tượng học sinh trong lớp học để có
phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Giáo viên cũng cần phân loại được học sinh
trong lớp. Dù là lớp chọn, lớp đại trà hay lớp yếu kém thì mức độ tiếp thụ, học tập
của học sinh có sự khác nhau. Từ đó xác định học sinh yếu kiến thức, kĩ năng nào để
tìm nguyên nhân, biện pháp khắc phục còn đối với học sinh giỏi bồi dưỡng nâng cao
kiến thức kĩ năng đã học để tạo hứng thú trong việc học tập bộ mơn.
Có nhà giáo dục đã từng nói “Một ơng thầy mà khơng dạy được cho học trị
ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi.” Cho nên, giáo viên phải
biết cách tạo khơng khí thoải mái khi vào lớp học. Giáo viên có thể tạo khơng khí lớp
7



học bằng dẫn các chuyện vui, các câu thơ, câu văn hay, bằng cách đặt vấn đề bất ngờ,
gợi được sự chú ý, bằng các tranh ảnh, sơ đồ… để gợi hứng thú, kích thích trí tị mị
muốn khám phá bài học cho học sinh. Trong tiết dạy, chỉ cần một ví dụ thực tế gắn
với bài giảng, một mẩu truyện về nhà văn… sẽ làm cho bầu khơng khí học tập thay
đổi tích cực; học sinh sẽ bị cuốn hút vào những giai thoại, hay những liên hệ mà giáo
viên kể. Từ đó học sinh sẽ hứng thú và tiếp thu bài tốt hơn.
Chính sự chú ý, hứng thú do khơng khí lớp mang lại sẽ kích thích các học sinh
tích cực làm việc hơn, tư duy sẽ được thúc đẩy. Học sinh sẽ chủ động đi sâu tìm hiểu
bản chất, ý nghĩa của vự việc, hiện tượng; kết quả là học sinh nhanh hiểu bài và nhớ
bài lâu hơn.
Bên cạnh đó, giáo viên nên có sự chuẩn bị chu đáo, kĩ lưỡng và đầu tư vào
những tiết dạy hơn. Vận dụng linh hoạt, hiệu quả các phương pháp và kĩ thuật dạy
học tích cực. Nên ứng dụng cơng nghệ thông tin vào bài giảng văn, với sự hỗ trợ
của các phần mềm như Powrpoint kết hợp với các phương tiện hiện đại như máy vi
tính, máy chiếu ...làm cho giờ học được hấp dẫn, mới mẻ hơn.
Từ thực tế hiệu quả của bài dạy có ứng dụng cơng nghệ thông tin, tôi
cảm thấy sử dụng bài giảng điện tử, có ứng dụng cơng nghệ thơng tin với chức năng
ưu việt của nó làm cho giờ học sinh động, hấp dẫn hơn do có nhiều nguồn cung
cấp thơng tin và kiến thức, học sinh hứng thú và say mê với mơn học hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài văn bản nhật dụng “Ôn dịch thuốc lá” giáo viên cho học
sinh tham khảo, xem nhữn hình ảnh, tư liệu về tác giả, tác phẩm có liên quan để tạo
sự thu hút, tăng tính hấp dẫn và sinh động cho tiết dạy.

8


Học sinh quan sát tư liệu, hình ảnh về: tác giả Nguyễn Khắc Viện và văn bản: “Ôn
dịch, thuốc lá”


Học sinh quan sát tư liệu về các chất độc hại có trong điếu thuốc lá

9


Học sinh quan sát về hình ảnh: Hút thuốc lá gây ung thư phổi và các bệnh
nguy hiểm khác
10


Hay trình chiếu những tư liệu, hình ảnh khi dạy bài thơ “Quê hương” của Tế
Hanh

11


Học sinh quan sát về hình ảnh “Quê hương” qua thơ Tế Hanh
Học bài cũ, soạn đủ bài mới trước khi đến lớp
Học bài cũ là nội dung trọng tâm trong việc tự học. Người học cần tạo
thành nếp biết tực học bài cũ trên cơ sở tri thức đã thu nhận được. Bài cũ là cơ sở là
nền tảng khoa học để tiếp cận tri thức mới. Để có thể tự học tốt người học phải biết
tự học, người dạy cần hướng dẫn cách thức tự học bài cũ. Học bài cũ khơng có nghĩa
là học thuộc lịng, học bài cũ với nhiều hình thức phong phú, sinh động.
Mỗi khi bắt đầu tiết học mới, giáo viên cần có hoạt động kiểm tra bài cũ của
học sinh. Bởi đây là khâu rất cần thiết:
+ Tạo thói quen ơn bài, học bài cũ để chống bệnh “lười” của học sinh với bộ
môn.
+ Kiểm tra bài cũ sẽ giúp các em nhắc lại kiến thức đã học tiết trước không chỉ
cho bản thân mình nhớ lâu mà giúp các bạn trong lớp cùng nhớ.
+ Phân mơn Ngữ văn có nhiều cột điểm kiểm tra thường xuyên nên đảm bảo

tiến độ cho điểm và là cơ sở để đánh giá sự chăm chỉ của học sinh.

12


Chuẩn bị bài là khâu quan trọng để học sinh có thể tự tin tiếp thu tri thức mới.
Điều này ai cũng hiểu, nhưng xem ra tổ chức hướng dẫn cho học sinh thực hiện còn
quá khiêm tốn. Việc tự học ảnh hưởng lớn vào công việc chuẩn bị bài. Nếu người học
chuẩn bị bài tốt-đồng nghĩa với việc đã nắm được gần 30% kiến thức bài học, vào
lớp cùng thầy bạn khai thác tiếp để khắc ghi tri thức mới. Điều này làm tiền đề cho
việc học bài chu kỳ sau dễ dàng nhanh chóng hơn. Vì vậy, người dạy cần quan tâm
đúng mức đến công việc chuẩn bị bài cho người học.
Một tiết học Văn ở trên lớp chỉ kéo dài có 45 phút nên lượng nội dung mà giáo
viên truyền đạt cho học sinh là rất ít, cô đọng làm cho nhiều học sinh không hiểu bài.
Do đó, bạn nên đọc trước bài học, soạn văn lớp 8 trước khi học bài để khi học, bạn sẽ
tiếp thu bài giảng một cách tốt nhất, những thắc mắc trong lúc soạn bài thì bạn có thể
hỏi giáo viên để được giáo viên giải đáp. Điều này sẽ giúp bạn nắm chắc kiến thức,
nội dung bài học hơn và làm bạn có nhiều tư duy khi học văn hơn. Khi đã hiểu
chương trình, bạn sẽ cảm thấy hứng thú hơn khi mỗi tiết học Văn đến.
Tuy nhiên, qua việc báo cáo kiểm tra vở soạn của các tổ trưởng, giáo viên cần
có kế hoạch kiểm tra thường kì là thu vở soạn để chấm. Giám sát việc chuẩn bị bài
của học sinh có cẩn thận, có đầu tư hay không. Tránh việc các em chỉ soạn chống đối,
soạn vắn tắt, soạn cho có lệ.
Giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh xác định nội dung học tập:
- Với phân mơn Văn (Phần văn bản)
+ Đọc lại tồn bộ văn bản trước khi học (Mặc dù ở phần học chính khoá đã
đọc). Đối với văn bản là tác phẩm thơ phải học thuộc, là văn xi phải tóm tắt dược
nội dung của văn bản, học thuộc dẫn chứng.
13



+ Với những tác phẩm có tác giả cần nắm chắc được về tiểu sử tác giả (Năm
sinh năm mất- nếu có- tên khai sinh, bút danh, quê quán), sự nghiệp văn chương của
tác giả đó, hiểu được hồn cảnh sáng tác tác phẩm
+ Nắm chắc được giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm (tìm hiểu
phần nội dung cần đạt, phần ghi nhớ).
+ Biết phân tích, cảm thụ một số chi tiết (câu, đoạn) được cho là đặc sắc (Đối
với học sinh khá giỏi)
- Đối với phân môn Tiếng Việt
+ Học thuộc các khái niệm, vận dụng làm tốt các bài tập từ dễ đến khó(Từ
nhận biết đến thơng hiểu, vận dụng ở mức độ thấp, vận dụng ở mức độ cao)
+ Với các biện pháp tu từ biết phát hiện đúng, nêu được tác dụng của phép tu
từ đó trong hồn cảnh sử dụng.
+ Biết viết câu, viết đoạn (mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn) với nhiều chủ đề và
yêu cầu khác nhau (Diễn dịch, quy nạp…)
- Đối với phân môn Tập làm văn
+ Nắm được dặc trưng các thể loại: Miêu tả, Tự sự, Biểu cảm, Nghị luận,
thuyết minh, hành chính cơng vụ.
+ Sau khi đọc đề bài, phải biết tìm hiểu đề, tìm ý; biết cách lập dàn ý; biết viết
các đoạn để hoàn chỉnh bài viết.
Chú ý lắng nghe giáo viên giảng bài
Ngồi đọc trước thì nghe giáo viên giảng bài sẽ giúp bạn hiểu hơn về ý nghĩa
văn bản, cách làm văn. Như thế, bạn mới biết cách làm bài văn, nắm được nội dung
chính để khi làm văn có thể triển khai ý một cách dễ dàng.
14


Trong quá trình giảng bài, giáo viên cần bao quát các đối tượng học sinh về ghi
chép bài, tâm thế lắng nghe, hoạt động nhóm, trao đổi bài,... Ln đơn đốc, gọi tên,
đừng để các em ngồi bất động, sẽ dẫn đến sự uể oải, buồn ngủ, nhàm chán,...

Ghi nhớ phân tích của bài học
Khi nghe giáo viên giảng bài, bạn cần nhớ những gì giáo viên phân tích về bài
học để bạn làm bài văn một cách tốt hơn. Tốt nhất là trên lớp ghi lại những điều mà
giáo viên truyền đạt, về nhà đọc lại và tóm tắt ý chính. Để có thể nhớ lâu và hiểu hơn
thì bạn cần ôn lại bài cũ một cách thường xuyên. Nhất là cách học bằng sơ đồ tư duy,
đây là cách hệ thống bài học khá hay, rất dễ nhớ. Bởi vì lối học thuộc khơng cịn phù
hợp với phương pháp học hiện nay nữa.
Ví dụ: Củng cố văn bản: “Một ngày khơng sử dụng bao bì ni lơng”

15


16


Ví dụ: Củng cố bài học phân mơn tiếng Việt: “ Nói giảm, nói tránh”

Ví dụ: Củng cố bài học phân môn Tập làm văn: “ Miêu tả và biểu cảm trong
văn tự sự”

17


Làm bài tập về nhà
Làm bài tập về nhà sau mỗi bài học là nội dung công việc tự học, sẽ giúp bạn
củng cố hơn về kiến thức, làm bài văn tốt hơn vừa là tiền đề giải quyết mâu thuẩn
nhận thức giữa cái đã biết và cái chưa biết, hình thành quá trình dạy-học tiếp theo.
Quá trình giải bài tập người dạy cần có hướng dẫn cụ thể, khơng phải bài tập nào học
sinh cũng giải được hết (loại trừ bài tập nâng cao). Người dạy yêu cầu người học
thực hiện cơng việc giải bài tập trong q trình tự học để tạo thành nếp học tập tốt.

Nếu bạn không làm bài về nhà, bạn sẽ dần quên kiến thức ở trên lớp, dẫn tới kiến
thức bị hổng. Do đó, nếu muốn học tốt mơn ngữ Văn lớp 8 thì bên cạnh lắng nghe
giáo viên giảng bài thì bạn cần làm bài tập, luyện viết văn. Cần hết sức tránh yêu cầu
giải hết bài tập “phải giải hết, đúng sai tính sau” một khuynh hướng cực đoan trong
dạy học chỉ gây ra tâm lý ức chế chán học cho học sinh mà chưa nhìn nhận được nhu
cầu, tâm, lý hứng thú học tập của từng cá thể.
Tham khảo văn mẫu
Sử dụng văn mẫu để tham khảo sẽ giúp bạn biết được cách diễn đạt, cách trình
bày một bài văn và sử dụng từ ngữ đúng hơn, có tính chọn lọc hơn. Tham khảo ở đây
18


là chỉ đọc qua và tóm tắt các ý chính trong bài viết rồi bạn viết bài theo ý hiểu của
mình. Muốn học tốt mơn Ngữ văn lớp 8 thì bạn phải chăm chỉ và có niềm u thích
mơn văn. Khi đã yêu thích và chăm chỉ đọc trước, làm soạn văn lớp 8, làm bài tập về
nhà thì dù chương trình khó tới mấy thì bạn vẫn có thể học được, học tốt môn Văn.
b. Vận dụng linh hoạt, hiệu quả các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn Ngữ văn,
việc phát huy các phương pháp dạy học tích cực cũng góp phần vào việc đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn hiệu quả, đồng thời khơi dậy niềm hứng thú, u
thích mơn học...
Có nhiều phương pháp dạy học tích cực mà GV có thể sử dụng như:
+ Sân khấu hóa tác phẩm văn học: Để tăng cảm hứng học tập môn ngữ văn cho
các em học sinh và khuyến khích tinh thần đọc sách, cũng như sự cảm thụ tác phẩm
văn học và đồng sáng tạo cùng nhà văn giáo viên có thể cho các em học sinh học
theo cách sân khấu hóa tác phẩm văn học. Nghĩa là học Văn bằng diễn kịch. Nghĩa là
học sinh sẽ chuyển thể tác phẩm văn học thành vở diễn, sau đó thảo luận những vấn
đề trọng tâm. Từ đó rút ra những bài học cần thiết của tác phẩm.
+ Vận dụng linh hoạt, hiệu quả phương pháp: Thảo luận nhóm, phương pháp
hương pháp Đóng vai,...

+ Vận dụng linh hoạt, hiệu quả các kĩ thuật dạy học tích cực: Kĩ thuật khăn trải
bàn, Kĩ thuật “Hỏi và trả lời”, Kĩ thuật “Trình bày một phút”,...
+ Lồng ghép trị chơi trong dạy - học mơn Ngữ văn: Trị chơi Nhanh tay nhanh trí, Trị chơi Tiếp sức,...

19


Trị chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục: giáo
dục bằng trò chơi – một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế
giới vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp với
phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay.
Giải pháp này sẽ thay đổi khơng khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng
thú cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn
hơn trong đề xuất của mình, phát huy tư duy sáng tạo. Hứng thú và chủ động trong
học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình thành kĩ năng và phát
triển nhân cách ở học sinh qua bộ môn Ngữ văn
+ Ứng dụng công nghệ thơng tin trong giảng dạy mơn Ngữ văn. Tích cực ứng
dụng công nghệ thông tin, phát huy khả năng hỗ trợ của phương tiện, công nghệ vào
các bài giảng: lồng ghép những đoạn phim, những tranh ảnh, những khúc ngâm, bài
thơ được phổ nhạc… vào quá trình giảng dạy. Vì riêng đối với bộ môn Ngữ văn các
đồ dùng trực quan hầu như khơng có, tranh minh hoạ trong sách giáo khoa lại tối
màu, khó quan sát và cảm nhận được vì vậy để khắc phục được những tồn tại trên
giáo viên phải chuẩn bị, sưu tập tranh ảnh, tài liệu liên quan đến bài dạy, đồ dùng dạy
học rất vất vả, cồng kềnh mà đôi khi không hiệu quả. Nhưng với bài giảng điện tử có
thể thay coi là những cơng cụ dạy học đa năng nó có thể thay thế cho hầu hết các
công cụ dạy học khác vì khơng những tạo khơng khí hứng thú học tập, mà đó là một
kênh thơng tin hữu hình, trực quan để học sinh nhận biết, hiểu bài sâu sắc, đem lại
hiệu quả cao trong dạy và học.
c. Đa dạng hoá các hình thức kiểm tra, đánh giá
Với việc kiểm tra thường xuyên, giáo viên cần đa dạng hoá để học sinh phải tự

giác học tập.
20


- Kiểm tra vở ghi: Kiểm tra chữ viết, kiểm tra nội dung ghi chép có đầy đủ
khơng (nhắc nhở về cách ghi chép)
- Kiểm tra sách, tài liệu - sách tham khảo, vở nháp của học sinh. Học sinh nào
chưa có, chưa đúng yêu cầu nhắc nhở để kiểm tra lại. Nên giới thiệu một số sách
tham khảo cho học sinh sưu tầm để học tập.
- Kiểm tra đầu giờ,
+ Kiểm tra miệng: Nội dung đã nhắc từ tiết trước
+ Vừa kiểm tra miệng, vừa kiểm tra viết: Kiểm tra miệng có thể là tác giả, bài
văn; kiểm tra viết có thể cho học sinh viết nội dung nghệ thuật của tác phẩm truyện,
bài thơ,…
+ Làm bài tập Tiếng Việt: Nếu bài tập trong sách giáo khoa nên kiểm tra sách
của học sinh để tránh việc học sinh ghi lời giải vào bài tập trong sách. Có thể ra bài
tập tương tự SGK, bài tập nâng cao (HS khá, giỏi)
Đối với học sinh chưa thuộc kĩ hoặc không thuộc. Lần đầu cho kiểm tra vào cuối tiết.
lần 2 cho học lại và kiểm tra vào tiết học chuyên đề, lần tiếp theo có thể bố trí riêng
một buổi để kiểm tra nếu khơng sửa chữa sẽ mời gia đình đến để thông báo, nắhc
nhở, trao đổi thêm. Đối với những học sinh cá biệt như lười học, yếu kĩ năng, ... giáo
viên nên lập một danh sách riêng để chú ý kiểm tra nhiều hơn.
Hướng dẫn học sinh cách làm bài:
- Phần trắc nghiệm: Học sinh thường hay nhầm lẫn ở tác giả, phương thức biểu
đạt, … vì thế giáo viên cần nhắc nhở thường xuyên để học sinh tránh các lỗi đó. Cần
cho học sinh nắm rõ các hình thức trắc nghiệm: trắc nghiệm nhiều lựa chon, trắc
nghiệm điền khuyết, trắc nghiệm ghép đôi, ...
21



- Phần tự luận: Khi làm phần tự luận cũng cần chú ý ở từng câu. Học sinh
thường chủ quan khi đọc câu hỏi, thấy câu nào quen thường chú tâm vào làm mà
không để ý đến thang điểm nên những câu ít điểm thì chú ý cịn câu nhiều điểm thì
làm rất sơ sài …. dẫn tới bài làm bị điểm thấp, không đạt yêu cầu.
+ Đối với dạng tự luận ngắn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách trả lời,
cách làm bài. Không nhất thiết viết thành một bài có bố cục ba phần đầy đủ nhưng
trong đoạn văn cũng cần có phần nêu, phần nội dung và kết thúc.
Ở lớp 8 nên rèn cho học sinh cách viết bài cho các kiểu văn bản nhất là văn
bản nghị luận. Trước hết là phần mở bài để ít nhất khi đọc một đề văn học sinh biết
tự làm phần mở bài (dù là học sinh yếu). Muốn thế giáo viên có thể cung cấp cho học
sinh nhiều cách mở bài, hướng dẫn cho học sinh một cách mở bài và viết gợi ý cho
học sinh một cách mở bài. Để lên các lớp trên học sinh biết viết phần thân bài (từ
khâu viết đoạn).
Sau mỗi tiết dạy, ra bài tập và hướng dẫn học sinh cách làm, những nôi dung
cụ thể cần học thuộc, cần ghi nhớ để học sinh chuẩn bị cho tiết sau.
d. Kết hợp giữa học chính khố và học chun đề (Học thêm, phụ đạo)
Bộ GD&ĐT đã cho phép các trường tổ chức học thêm để nâng câo chất lương
dạy học các môn nói chung và mơn Ngữ Văn nói riêng. Vì thế khi tổ chức các lớp
học chuyên đề giáo viên phải biết lựa chon những kiến thức cơ bản nhất để dạy có
hiệu quả và gây sự hứng thú học tập bộ môn.
Khi dạy học cần quan tâm nhiều hơn đến việc kiểm tra, đánh giá vì dạy chun
đề có nhhiều thời gian so với dạy chính khố.

22


Ở khối lớp 8, cần chia theo các nội dung lớp để giảng dạy cho có hệ thống
VD: Có thể chia thành các nội dung như: Truyện Trung đại, Thơ hiện đại, truyện hiện
đại, Văn bản nhật dụng, Văn bản thuyết minh,...
Kết thúc mỗi nội dung nên có các bài kiểm tra để đánh giá việc học tập của

học sinh để đề ra cách giảng dạy cho phù hợp. Những học sinh chưa đạt yêu cầu
(bước đầu có thể kiểu tra học sinh từ điểm 4 đến 4.75) cần cho học sinh ơn lại để
kiểm tra theo sự bố trí của giáo viên.
e. Phối hợp chặt chẽ với, nhà trường, với GVCN
Thông báo cho Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm về tình hình học tập chung
của học sinh, nhất là những học sinh chưa chịu khó, chưa tích cực đề xuất các hình
thức khen thưởng, kỉ luật kịp thời.
g. Kết hợp gia đình học sinh
Phối hợp với gia đình để nâng cao chất lượng dạy - học: Giáo viên dạy Văn
thường là các giáo viên chủ nhiệm nên có thể trao đổi với phụ huynh qua buổi họp
phụ huynh, nếu khơng có thể đến gặp gỡ với gia đình, trao đổi qua điện thoại, thư, …
để gia đình đơn đốc nhắc nhở, kiểm tra học sinh giúp học sinh chăm chỉ tích cực hơn
nhằm nâng cao chất lượng học tập bộ mơn.
Có thể đề nghị nhà trường tổ chức họp phụ huynh từng lớp hoặc theo đối
tượng học sinh (Trung bình, Yếu) để thơng báo với gia đình, bàn với gia đình những
biện pháp nâng cao chất lượng học tập.
IV. Tính mới của giải pháp:
Đây là phương pháp mới mang tính giáo dục cao, vì qua ba năm áp dụng liên
tục tơi nhận thấy các học sinh có ý thức học bài cũ, soạn bài mới đầy đủ, có sự đầu tư
23


rõ rệt. Ý thức của học sinh trong việc học tập bộ mơn hiện nay khá nghiêm túc, ý
thức đó thể hiện qua việc tích cực trong xây dựng bài, chú ý nghe giảng và chép bài
đầy đủ. Một số học sinh do nhút nhát nên không xung phong trả lời bài cũ hay tham
gia xây dựng bài mới; nhưng đa số các học sinh đều có khả năng trả lời các câu hỏi ở
những mức độ khác nhau. Một số học sinh cịn có khả năng trả lời những câu hỏi
nâng cao kiến thức để bài học được khắc sâu.
Từ đó giúp học sinh có tinh thần tự giác học tập, nâng cao chất lượng bộ môn.
Điều này thấy rõ nhất qua chất lượng bài kiểm tra định kì, kiểm tra cuối học kì tỉ lệ

bộ mơn tăng lên rõ rệt so với các lớp khác.
V. Hiệu quả SKKN:
Qua thực tiễn giảng dạy áp dụng những giải pháp trên, bản thân tơi nhận thấy:
- Các em đã có khả năng tự lực cao và khơng cịn q phụ thuộc vào giáo viên
nữa.
- Trong giờ học các em đã biết kết hợp bài soạn ở nhà với lời giảng của giáo
viên, biết cách chọn lọc ý để ghi chép, biết cách sử dụng sách có hiệu quả để tiết
kiệm thời gian chép bài và chú ý nghe giảng.
Dựa trên những gì mà giáo viên hướng dẫn, học sinh chỉ cần một chút thời
gian, một chút chuyên tâm và ý thức tự học cao thì các em sẽ khơng cịn cảm thấy
mơn văn q khó nữa. Dĩ nhiên là với những gì mà giáo viên hướng dẫn, khơng phải
tất cả các em đều thực hiện và thực hiện tốt, thế nhưng đa số các em đều phải tự ý
thức được việc chuẩn bị bài ở nhà là cần thiết trong quá trình học.
Sau khi áp dụng những phương pháp trên, đa số giờ học Văn của lớp tôi dạy học
sinh đều hứng thú, hăng hái phát biểu xây dựng bài, làm bài tốt, đầy đủ ý. Từ đó mà
24


kết quả học tập của học sinh lớp 8 qua các năm học 2016- 2017; 2017-2018; 20182019 đã có sự chuyển biến rõ rệt.
Kết quả trung bình mơn cả năm của các lớp tôi đã dạy và áp dụng giải pháp:
Năm học 2016-2017:
Lớp



Điểm

Tỉ lệ

Điểm


Tỉ lệ

số

Giỏi

8A1

36

6

16,6%

18

50%

12

33,3%

0

0

8A2

36


2

5,5%

12

33,3%

12

33,3%

0

0

Điểm

Tỉ lệ

Điểm

Tỉ lệ

Khá

Điểm

Tỉ lệ


TB

Điểm Tỉ lệ
Yếu

Năm học 2017-2018:
Lớp



Điểm

Tỉ lệ

số

Giỏi

8A1

37

6

16,2%

22

59,4%


9

24,3%

0

0

8A3

27

2

7,4%

13

48,1%

12

44,4%

0

0

Điểm


Tỉ lệ

Điểm

Tỉ lệ

Khá

TB

Điểm Tỉ lệ
yếu

Năm học 2018-2019(HKI):
Lớp



Điểm

Tỉ lệ

số

Giỏi

8A2

37


5

13,5%

21

56,8%

11

29,7%

0

0

8A3

36

3

8,3%

22

61,1%

11


30,5%

0

0

Khá

TB

Điểm Tỉ lệ
Yếu

PHẦN THỨ HAI: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Với tất cả những gì tơi đề cập ở trên, bản thân tơi đã thực hiện có kết quả khá
khả quan nhưng không phải tiết học nào tôi cũng thành công bởi không phải học sinh
25


×