Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Bài soạn SKKN- Một số kinh nghiệm tạo hứng thú học tập môn sinh học 6,7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.91 KB, 21 trang )

“MỘT SỐ KINH NGHIỆM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP
MÔN SINH HỌC LỚP 6, 7 Ở TRƯỜNG PT DTNT”
PHẦN II : PHẦN NỘI DUNG
A. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH – NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH
Do nhu cầu phát triển xã hội ngày càng cao, đặc biệt là khi nước ta đang
chuyển mình bước vào thời kì Công nghiệp hóa – Hiện đại hoá, thì vò trí của
ngành giáo dục càng được nâng lên và chú trọng hơn nhằm mục đích đào tạo ra
những con người mới XHCN có đức, có tài, có năng lực để đáp ứng được nhu
cầu phát triển của toàn xã hội.
Trước thực tiễn đó, từ năm học 2002 – 2003 Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã
tiến hành đổi mới chương trình sách giáo khoa ở tất cả các môn học, nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục để đáp ứng nhu cầu của thực tế. Riêng
môn Sinh học là một môn khoa học tự nhiên luôn luôn gắn liền với thực tế.
Muốn các em học sinh học tốt môn học này đòi hỏi người giáo viên phải cố
gắng tìm tòi, học hỏi để làm thế nào cho các em học sinh nắm được kiến thức
một cách vững chắc và ngày càng say mê yêu thích môn học hơn và tạo sự
hứng thú học tập cho các em học sinh để các em lónh hội được kiến thức của
môn học một cách chủ động sáng tạo phù hợp với chương trình đổi mới sách
giáo khoa.
Song để tạo hứng thú học tập môn sinh học ở trường Phổ Thông Dân Tộc
Nội Trú là việc làm khó khăn vì đối tượng học sinh là người dân tộc Khmer còn
hạn chế về ngôn ngữ Tiếng Việt. Chính vì lẽ đó trong thời gian qua, với trách
nhiệm của người giáo viên tôi đã nghiên cứu, tìm tòi ra những cách thức Dạy –
Học để tạo ra hứng thú học tập môn Sinh học cho học sinh trong Trường Phổ
Thông Dân Tộc Nội Trú.
B. THUẬN LI VÀ KHÓ KHĂN.
I. Thuận lợi
-Nhà trường đã được trang bò một số thiết bò dạy học hiện đại như : Kính hiển
vi, máy chiếu, đầu VCD, Tivi … và những đồ dùng dạy học, dụng cụ thí
nghiệm đặc trưng của bộ môn.
-Môn sinh học là môn học gần gũi với thiên nhiên chứa đựng kiến thức sinh


động, phong phú, hấp dẫn kích thích tính tò mò ham hiểu biết của học sinh. Đó
cũng chính là thuận lợi rất lớn cho việc hình thành động cơ học tập, nhu cầu
nhận thức, hứng thú học tập cho học sinh.
Trang 1
-Học sinh trong trường có đầy đủ sách giáo khoa của các môn học đảm bảo
cho học sinh có thể nghiên cứu bài trước ở nhà.
- Thư viện nhà trường có rất nhiều loại sách tham khảo, các em có thể mượn
đọc để mở mang thêm kiến thức về môn học.
-Trường Phổ Thông Dân Tộc Nội Trú là trường chuyên biệt các em được học
ngày hai buổi có nhiều thời gian dành cho việc học tập.
-Giáo viên nhiệt tình có tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi nghiên cứu về
phương pháp dạy, về đồ dùng dạy học để giờ học thêm sinh động và học sinh
nắm chắc kiến thức bài học.
-Được sự quan tâm giúp đỡ của Phòng Giáo Dục và Ban giám hiệu nhà
trường trong việc nâng cao tay nghề cho giáo viên bằng các hình thức : học tập
nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, mở chuyên đề tập huấn, tổ chức xem băng,
tổ chức cho giáo viên dạy giỏi dạy mẫu để đồng nghiệp rút kinh nghiệm, học
hỏi…
II. Khó khăn
-Đại đa số các em đều sinh sống ở vùng sâu vùng xa, vốn Tiếng Việt còn hạn
chế nên việc nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu còn hạn chế dẫn đến việc
chuẩn bò bài ở nhà của các em chưa đạt yêu cầu. Ảnh hưởng lớn đến tiết dạy
bài mới.
-Học sinh trong trường được tuyển từ nhiều nơi, vùng sâu, vùng xa khác nhau
với nhiều hình thức đào tạo đặc biệt là các lớp Phổ cập tiểu học dẫn đến trình
độ kiến thức không đồng đều, nhiều em lười nghiên cứu, ngại tư duy dẫn đến
thiếu tính sáng tạo trong học tập.
-Đồ dùng dạy học được cung cấp nhưng nhìn chung vẫn chưa đồng bộ để đáp
ứng được nhu cầu của tiết dạy.
-Những học sinh ở ngoại trú ngoài giờ học về nhà phụ giúp gia đình nên thời

gian tự học còn lại rất ít. Hơn nữa, phần lớn phụ huynh học sinh của các em
không quan tâm đến vấn đề học tập, mọi hoạt động và học tập của các em phụ
huynh thường khoán trắng toàn bộ cho nhà trường.
-Đại đa số các em rất nhút nhát trong việc bày tỏ ý kiến của mình trước đám
đông, trước các bạn đồng trang lứa. Chính điều đó là cho các em ngại bày tỏ ý
kiến của mình trước lớp và thế là khả năng chủ động sáng tạo chiếm lónh kiến
thức của các em trở nên hạn chế.
-Hệ thực vật và động vật ở xung quanh nhà trường nghèo nàn cũng ảnh
hưởng đến việc sưu tầm, nghiên cứu, làm thí nghiệm …
-Do sự hiểu biết về ngôn ngữ Khmer của giáo viên còn hạn hẹp nên giải
thích vấn đề cho học sinh hiểu là việc hết sức khó khăn.
C. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Trang 2
Để tạo hứng thú cho học sinh học môn sinh học, đặc biệt là học sinh ở lớp 6,7
của Trường Phổ Thông Dân Tộc Nội Trú, người giáo viên phải có cái nhìn tổng
quát toàn bộ chương trình cấp học từ đó rút ra những kiến thức cơ bản để học
sinh thấy được các mạch kiến thức liên quan với nhau như thế nào? Vai trò và ý
nghóa của chúng ra sao? Sau đó giáo viên vận dụng các biện pháp để giúp học
sinh hệ thống được kiến thức, khi đó, hứng thú khi học tập của các em sẽ được
nâng lên.
Sau khi tìm hiểu thực trạng học sinh lớp 6, 7 của trường, tôi tiến hành thực
hiện các biện pháp nhằm giúp học sinh hứng thú học tập môn Sinh trong suốt
quá trình giảng dạy của mình, để từng bước nâng cao chất lượng Dạy – Học,
nhất là môn sinh học 6, 7. Cụ thể nội dung được trình bày như sau:
I. Tìm hiểu và học ngôn ngữ dân tộc.
Học sinh ở Trường Phổ Thông Dân Tộc Nội Trú thường được tuyển từ vùng
biên giới, nông thôn ... khi giao tiếp các em chủ yếu sử dụng ngôn ngữ Khmer
giao tiếp là chủ yếu và ít có sự giao tiếp giữa người Khmer với người kinh nên
phần lớn các em ít hiểu biết ngôn ngữ tiếng Việt. Do vậy, việc người giáo viên
cần phải làm điều đầu tiên là tự học tiếng dân tộc. Điều đó giúp ích rất nhiều

trong việc giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.
Ví dụ: Khi nói “Cây sao” học sinh sẽ không biết là cây gì, nhưng khi bạn giải
thích tiếng Khmer gọi là “Côô ki” thì học sinh hiểu ngay.
Hay bạn muốn nói đến một sinh vật nào đó thì bạn nên kèm theo việc giải
thích bằng song ngữ như : Đơm nhôô – cây nhào; Cưk cay cô – ve bò; Ngheo –
Con sò; Giải phẫu – Vé cắt ...Điều ấy sẽ gần gũi hơn giữa thầy và trò cũng như
học sinh sẽ dễ dàng đi vào bài học hơn.
II. Làm giàu thêm ngôn ngữ tiếng việt cho học sinh
Đại đa số các em học sinh dân tộc khi ở chung với gia đình thường giao
tiếp bằng tiếng Khmer do đó vốn hiểu ngôn ngữ Tiếng Việt còn ít ỏi. Đây cũng
là khó khăn cho các em trong việc tiếp thu kiến thức môn sinh học. Vì vậy khi
giảng dạy tôi thường lồng ghép ngôn ngữ Tiếng Việt trong từng tiết dạy, trong
lời giảng và sửa chữa những từ ngữ nhận thức sai của học sinh khi các em giao
tiếp với nhau và phát biểu ý kiến xây dựng bài. Khi đã hiểu được ngôn ngữ
Tiếng Việt thì các em nhận thức vấn đề sâu sắc hơn nắm nội dung bài học cặn
kẽ hơn.
Ví dụ : Khi dạy Sinh học lớp 6 bài “Các loại hoa” về phần Phân chia các
nhóm hoa căn cứ vào bộ phận sinh sản chủ yếu của hoa. Có một số thuật ngữ
như : Hoa lưỡng tính, hoa đơn tính. Giáo viên cần phải giải thích rõ cho các em
biết lưỡng có nghóa là hai, đơn có nghóa là một. Cho các em hiểu từ đó giáo
viên mới có thể hướng dẫn cho các em hiểu được thế nào là hoa lưỡng tính thế
nào là hoa đơn tính.
Trang 3
Chẳng hạn như dạy phần đời sống của cá chép trong chương trình Sinh học
lớp 7 giáo viên cần giải thích rõ từ “biến nhiệt” khi dạy phần đời sống của chim
bồ câu thì có từ “hằng nhiệt”.
Do vậy trong mỗi tiết dạy giáo viên cần dùng một ít thời gian để hướng
dẫn các em tìm hiểu nghóa của từ trong bài học là rất cần thiết.
III. Chuẩn bò của giáo viên và học sinh trước giờ lên lớp
1. Chuẩn bò của giáo viên:

a. Giáo án :
Muốn tiết dạy đạt hiệu quả cao thì sự chuẩn bò của giáo viên là rất quan
trọng. Đặc biệt là giáo án khi lên lớp, để có một giáo án tốt đòi hỏi người giáo
viên phải :
- Soạn giáo án một cách khoa học, sâu sắc tạo tiết dạy hấp dẫn không bò khô
khan như đặc trưng của những môn học tự nhiên khác. Phải hình dung được
diễn biến của tiết dạy trong trí tưởng tượng của mình để chuẩn bò giáo án có
tính logic khoa học.
- Xác đònh kiến thức cơ bản của mỗi bài học, lựa chọn những kiến thức cơ
bản nhất để có thể vận dụng những phương pháp nhằm tích cực hoá hoạt động
của học sinh. Để làm được điều đó giáo viên phải nghiên cứu thật kó bài học
trong sách giáo khoa, sách tham khỏ… nhằm nắm được nội dung kiến thức cơ
bản mình cần truyền đạt và khối lượng kiến thức học sinh có thể chiếm lónh. Từ
đó đưa ra những phương pháp cụ thể để học sinh tiếp cận.
Ví dụ : Soạn bài đa dạng và đặc điểm chung của lớp chim, phần I : “Các
nhóm chim” ta cần xác đònh kiến thức cơ bản của phần này là đặc điểm điểm
của các nhóm chim thích nghi với đời sống khác nhau của chúng, sau khi cho
các nhóm học sinh thảo luận tìm ra đặc điểm cấu tạo, đời sống của các nhóm
chim chạy, nhóm chim bơi và nhóm chim bay. Tôi cho các nhóm học sinh tiếp
tục thảo luận so sánh giữa các nhóm chim. Khi so sánh học sinh tìm ra được
điểm khác nhau giữa các nhóm chim càng làm cho học sinh khắc sâu kiến thức
hơn về đặc điểm của các nhóm chim. Còn học sinh tìm ra được những chỗ giống
nhau thì đó là đặc điểm chung của lớp chim. Vậy thì vào hoạt động sau tìm đặc
điểm chung của lớp chim giáo viên không phải mất nhiều thời gian để trình bày
hoạt động này. Mặt khác trong quá trình học sinh thực hiện so sánh tôi tiến
hành treo tranh vẽ về ba nhóm chim để học sinh quan sát tự tìm ra kiến thức.
Như vậy ta đạt được cả hai mặt vừa làm cho học sinh tích cực vừa làm cho học
sinh dễ dàng hiểu bài hơn.
- Với những kiến thức đã từng học, kiến thức mang tính chất giới thiệu hoặc
dễ hiểu hơn có thể hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu trong sách giáo khoa, kết

hợp với những hiểu biết của các em, hỏi bạn bè … và vào tiết sau có thể cho các
tự đứng trước lớp thuyết trình nhằm kích thích tính độc lập sáng tạo trong mỗi
học sinh và còn rèn cho mỗi học sinh khả năng tự tin khi trình bày một vấn đề
trước đám đông. Đó là tạo cho tạo cho học sinh một tâm lý tự tin trước đám đơng.
Trang 4
Ví dụ : Khi soạn bài: Đa dạng và đặc điểm chung của lớp bò sát, trong
chương trình sinh học lớp 7. phần các loài khủng long. Tôi giao cho bốn nhóm
học sinh về nhà viết một bài thuyết trình trình bày sự ra đời phồn thònh và diệt
vong của khủng long. Các nhóm sẽ tiến hành viết bài thuyết trình tiết sau chọn
một trong các nhóm trình bày trước lớp. Các nhóm khác theo dõi đặt câu hỏi
yêu cầu nhóm thuyết trình trả lời. Cuối cùng từ những câu trả lời yêu cầu học
sinh rút ra kết luận. Giáo viên chỉ việc chỉnh sửa hoàn chỉnh kiến thức cho học
sinh. Làm như vậy giúp các em có thể tự lónh hội được kiến thức một cách chủ
động hơn. Nếu như giáo viên thực hiện bằng cách đặt câu hỏi cho học sinh trả
lời và rút ra kết luận cho các em thì các em chỉ tiếp thu một các thụ động và rất
nhanh quên.
-Xác đònh con đường thích hợp giúp học sinh tự tìm tòi phát hiện kiến thức
theo logíc của quá trình hình thành các kiến thức đó. Mỗi loại kiến thức cần
phải có quá trình tiếp cận phù hợp.
Những kiến thức về hình thái của thực vật, về cấu tạo ngoài của động vật
cần cho học sinh quan sát trên nhiều phương tiện dạy học như : mẫu vật thật,
tranh vẽ, mô hình, tiêu bản quan sát trên kính hiển vi … để tự phát hiện ra kiến
thức. Đối với những kiến thức về giải phẫu cần cho học sinh tự tay giải phẫu
trên mẫu động vật, nếu không có điều kiện học sinh tự tay mổ thì cũng phải
quan sát trên mẫu mổ và chú thích những bộ phận quan sát được.
Ví dụ: Khi soạn bài quan sát cấu tạo trong của ếch đồng, của chim bồ câu
hay của thỏ, muốn gây sự chú ý cao độ cho học sinh và khơi dậy tính tìm tòi của
học sinh, giáo viên nên cho học sinh quan sát và chú thích trên mẫu mổ dựa vào
hình vẽ trong sách giáo khoa.
Nếu có điều kiện tốt hơn trong giờ sinh học ngoại khóa, tôi thường hướng

dẫn cho học sinh tự tay mổ mẫu vật thật và quan sát. Sau đó tự học sinh vận
dụng những kiến thức đã học chú thích trực tiếp trên mẫu mổ. Khi đó giáo viên
đã trực tiếp rèn cho học sinh đồng thời một lúc rất nhiều kó năng như : Kỹ năng
mổ mẫu thật, kỹ năng quan sát, kỹ năng phân tích, kỹ năng hợp tác giữa các
bạn trong cùng một nhóm. Được như thế càng làm cho học sinh yêu thích môn
học hơn.
- Còn khi xác đònh về vai trò của động thực vật, tôi tự cho học sinh vận dụng
những hiểu biết sẵn có của mình trong cuộc sống để tìm ra vai trò của chúng.
Ví dụ: Khi nói về vai trò những loài sinh vật cho học sinh thảo luận nhóm
với những câu hỏi sau :
+ Hãy trình bày những lợi ích mà ngành thân mềm đã đem lại cho đời
sống của con người và trong tự nhiên?
+ Hãy kể ra những tác hại của thân mềm đối với đời sống của con người
và trong tự nhiên?
Học sinh tiến hành thảo luận nhóm nêu được mặt lợi, mặt hại của thân
mềm đối với đời sống con người và trong tự nhiên từ những hiểu biết trong cuộc
sống của học sinh.
Trang 5
-Xác đònh mục tiêu của từng hoạt động học tập và hình thức tổ chức học tập
trong mỗi bài soạn từ đó giúp học sinh lónh hội kiến thức của kiến thức mới của
bài học. Đây là việc làm quan trọng nhất trong quá trình soạn một giáo án, do
đó đòi hỏi người giáo viên cần phải lựa chọn những phương pháp phù hợp với
mỗi loại hoạt động và từng loại đối tượng học sinh.
Ví dụ: Bài đặc điểm cấu tạo ngoài của lá
Hoạt động 1 :Tìm hiểu đặc điểm bên ngoài của lá
Tôi cho học sinh làm việc nhóm để có điều kiện tập trung tất cả các loại lá của
các nhóm đã sưu tầm, học sinh có điều kiện quan sát nhiều loại lá hơn. Từ đó
các em thảo luận và dễ dàng hình thành nên những khái niệm về phiến lá, gân
lá, lá đơn, lá kép.
Hoạt động 2 : Phân biệt các kiểu xếp lá trên cây

Tôi giao nhiệm vụ cho học sinh độc lập tự quan sát hình vẽ và trên mẫu vật thật
về kiểu xếp lá trên cây hoàn thành bảng
STT Tên cây
Kiểu xếp lá trên cây
Có mấy lá mọc từ một mấu thân Kiểu xếp lá
1
2
3
4
Sau khi học sinh hoàn thành bảng, tôi yêu cầu học sinh tự rút ra kết luận
về cách xếp lá trên cây. Học sinh dựa vào bảng mới hoàn thành dễ dàng rút ra
cách xếp lá trên cây.
Có như vậy mới kích thích sự tìm tòi, say mê nghiên cứu của học sinh, từ
đó gây cho học sinh sự hứng thú trong học tập.
-Nghiên cứu những tài liệu tham khảo, nắm những nội dung có liên quan đến
bài học.
Ví dụ : Bài “rêu, cây rêu”
Giáo viên cần phải nắm vững những bài có liên quan như : bài thụ tinh, kết quả
và tạo hạt, bài vận chuyển các chất trong thân… các khái niệm về mạch rây,
mạch gỗ….
-Khi soạn giáo án giáo viên cũng cần phải dự đoán được những tình huống
sai lầm của học sinh có thể xảy ra trong tiết dạy để có thể chỉnh sửa kòp thời.
Ví dụ : Dạy về lớp chim giáo viên mở rộng vấn đề cho học sinh tìm thêm
những ví dụ về các nhóm chim có thể học sinh nhầm tưởng dơi cũng thuộc lớp
chim, khi đó giáo viên cần phải giải thích cho học sinh hiểu dơi cũng biết bay
nhưng không phải thuộc lớp chim.
-Chuẩn bò những đồ dùng dạy học phải phù hợp với nội dung của bài giảng
đó. Giáo viên cần phải làm những thí nghiệm để minh hoạ tiết dạy để tiết dạy
thêm phong phú.
Trang 6

Ví dụ : Khi dạy bài : Vận chuyển các chất trong thân. Giáo viên buộc
phải làm được hai thí nghiệm vận chuyển nước và muối khoáng hoà tan, thí
nghiệm vận chuyển chất hữu cơ phải làm trước một thời gian lâu. Hay thí
nghiệm trong bài quang hợp lá cây chế tạo ra chất hữu cơ khi có ánh sáng mặt
trời giáo viên cũng phải thực hiện khi ở nhà sau đó đem đến lớp giới thiệu cho
học sinh.
b. Sử dụng phương pháp giảng dạy.
Trong dạy học sinh học việc sử dụng phương pháp chính xác khoa học là
điều cực kỳ quan trọng giúp học sinh lónh hội được tri thức. Nhưng việc vận
dụng phương pháp nào vào dạng bài nào để giảng dạy có hiệu quả là một điều
không dễ. Để thực hiện tốt việc vận dụng phương pháp vào từng dạng bài học
đòi hỏi người giáo viên phải hiểu được những ưu nhược điểm của từng phương
pháp để áp dụng có hiệu quả.
Những phương pháp trong những năm qua tôi đã áp dụng giảng dạy và
đem lại hiểu quả đó là: phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp nêu vấn đề,
đàm thoại, thực hành thí nghiệm … Trong những phương pháp đó tôi thấy học
sinh hứng thú học tập nhất là phương pháp dạy học theo nhóm và phương pháp
đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.
*Phương pháp dạy học bằng hoạt động nhóm.
 Tác dụng của phương pháp
Tác dụng của phương pháp này là các em học sinh được hướng dẫn bởi giáo
viên thông qua các hoạt động học tập, được khuyến khích trao đổi các kiến
thức, các kinh nghiệm và được bày tỏ ý kiến của mình trước các bạn thông qua
quá trình học tập. Đây là cách tiếp cận để dạy học tích cực.
Từ việc thảo luận nhóm, các thành viên của nhóm có thể nhận được thêm
thông tin từ bạn bè, được biểu lộ những quan điểm khác nhau và phát triển các
kỹ năng giao tiếp.
Hoạt động nhóm nhỏ được tổ chức tốt sẽ làm tăng hứng thú học tập, gắn
bó. Trong từng nhóm, các ý kiến của mỗi cá nhân được đánh giá chấp nhận, có
sự cảm thông chia sẻ, tin cậy và ủng hộ giữa học sinh với nhau, giúp các em

hình thành và phát triển khả năng làm việc hợp tác.
Dạy học theo nhóm giáo viên sẽ thu nhận được những kinh nghiệm, sự
sáng tạo của học sinh.
Để đạt được hiệu quả trong phương pháp thảo luận nhóm cần thực hiện
những yêu cầu sau:
 Cách thành lập nhóm:
Khi tổ chức hoạt động nhóm giáo viên cần phải quan tâm đến số học sinh
trong nhóm. Số học sinh trong nhóm phải đủ để trao đổi luận nhau, phải giải
quyết được các vấn đề giao viên đưa ra, nếu quá đông sẽ không sử dụng hết
nguồn lực, nếu quá ít sẽ không đủ để giải quyết nhiệm vụ. Theo tôi trung bình
mỗi nhóm khoảng 4 – 6 học sinh. Mỗi nhóm cần phải có một nhóm trưởng, một
thư kí và nhóm trưởng phải điều khiển cuộc thảo luận.
Trang 7
Có nhiều cách thảo luận nhóm, nhưng theo tôi xét về đặc trưng môn sinh
học thì chủ yếu tập trung vào các kiểu thành lập nhóm sau đây:
+Thành lập nhóm thường xuyên: để duy trì hoạt động nhóm có thể phân
công nhóm thường xuyên theo từng bản hoạt 2 bàn ghép lại và đặt tên cụ thể
nhóm I, nhóm II, nhóm III … nhóm thường xuyên nào thường để giải quyết
những công việc cụ thể của những tiết học.
VD: Tôi thường sử dụng nhóm thường xuyên như sau: Khi thực hiện song
phần nội dung mỗi tiết dạy tôi cho những bài tập hoặc câu hỏi củng cố để học
sinh khắc sâu kiến thức. Những hoạt động như vậy tôi cho các em học sinh thực
hiện hình thức thảo luận theo nhóm thường xuyên. Ngoài ra nhóm thường
xuyên còn được giao nhiệm vụ thực hiện nội dung các yêu cầu thường xuyên
trong bài học.
+Thành lập nhóm ngẫu nhiên: bằng đến học sinh theo số thứ tự 1, 2, 3, 4…
và lặp lại cho đến hết số học sinh của lớp. Tất cả số học sinh có cùng số thứ tự
vào một nhóm. Cách chia nhóm này thường được tôi sử dụng trong các tiết thực
hành hoặc thực hiện những trò chơi học tập nhằm củng cố kiến thức …
VD: Để củng cố kiến thức chương: Thân

Tôi cho học sinh chơi một trò chơi và thực hiện việc chia nhóm như sau : đếm
số thứ tự học sinh trong lớp 1, 2, 3,4 và lặp lại cho đến hết số học sinh trong lớp.
Khi đó ta được 3 nhóm học sinh là nhóm 1, nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4, sau đó
cho 4 nhóm học sinh tiến hành từng thành viên một lên bảng ghi ra những loại
thân đã học. Nhóm nào ghi đúng và ghi được nhiều loại cây thì nhóm đó thắng.
Trong trò chơi này giúp cho học sinh thư gian trong tiết học và còn làm cho học
sinh nhớ lại các kiến thức trong chương thân như : các loại thân có thân đứng,
thân leo, thân bò.
+Thành lập nhóm chuyên biệt: đối với hình thức này thường ít khi sử
dụng, chỉ khi nào nhóm thường xuyên thảo luận gặp những vấn đề khó thì
nhóm chuyên biệt mới sử dụng. Cách thực hiện như sau: từ những nhóm thường
xuyên tôi chọn 1-2 học sinh khá giỏi trong nhóm để thành lập nhóm chuyên
biệt. Nhóm này sẽ được giáo viên giao cho những câu hỏi khó, những vấn đề
khó, thảo luận trước để linh hội được kiến thức sau đó trở về nhóm thường
xuyên của mình phổ biến lại cho các bạn trong nhóm. Còn các bạn trong nhóm
thường xuyên vẫn duy trì để giải quyết những vấn đề đơn giải song song với
nhóm chuyên biệt.
 Kỹ thuật quản lý nhóm:
 Bước 1: Giao nhiệm vụ:
-Nêu mục tiêu của hoạt động nhóm: giáo viên thông báo rõ ràng mục
tiêu của hoạt động. Sau hoạt động nhóm, học sinh cần thu nhận được
những kiến thức và kỹ năng gì.
-Tóm tắt khái quát toàn bộ hoạt động: Giáo viện mô tả khái quát toàn bộ
hoạt động, có những công việc gì, làm như thế nào.
Trang 8

×