Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

đánh giá tính hiệu quả của các lớp huấn luyện nông dân qua thực nghiệm (ffs) trong việc thực hiện quản lý dịch hại tổng hợp trên cây có múi tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (969.13 KB, 27 trang )


1

Bộ Nông Nghiệp và PTNT


Đánh giá tính hiệu quả của các lớp huấn luyện nông
dân qua thực nghiệm (FFS) trong việc thực hiện
quản lý dịch hại tổng hợp trên cây có múi
tại Việt Nam

CARD 036/04VIE

Báo cáo hoàn tất dự án
2008




1
1. Thông tin về cơ quan nghiên cứu
Tên dự án
Đánh giá tính hiệu quả của các lớp
huấn luyện nông dân qua thực nghiệm
(FFS) trong việc thực hiện quản lý dịch
hại tổng hợp trên cây có múi tại Việt
Nam
Cơ quan thực hiện phía Việt Nam
Cục Bảo vệ thực vật
Người điều phối tại Việt Nam
Ông Hồ Văn Chiến


Tổ chức thực hiện phía Úc
Trường Đại học Tây Sydney
Nhân sự phía Úc
Debbie Rae, Oleg Nicetic, Robert
Spooner-Hart
Ngày bắt đầu
Tháng 2 năm 2005
Ngày kết thúc (gốc)
Tháng 2 năm 2007
Ngày kết thúc (duyệt xét)
Tháng 9 năm 2007
Giai đoạn báo cáo
2005-2006
Các văn phòng liên lạc
In Australia: Team Leader
Tên: Oleg Nicetic Telephone: +61245701329
Chức vụ:
Nghiên cứu viên
Fax:
+61245701103
Tổ chức:
Trường Đại Học Tây Sydney
Email:


Ở Úc : Liên hệ về hành chánh
Tên
Gar Jones
Telephone:
+6124736 0631

Chức vụ:
Giám đốc, Khoa nghiên cứu
Fax:
+6124736 0905
Tổ chức
Trường Đại học tây Sydney
Email:


Ở Việt Nam
Tên:
Ông Hồ Văn Chiến
Telephone:
+8473834476
Chức vụ:
Giám Đốc
Fax:
+8473834477
Tổ chức
Trung tâm BVTV phía Nam
Email:



2
2. Tóm tắt dự án





















3. Tóm lược
Cây có múi là một loại cây ăn quả quan trọng ở Việt Nam nhưng sản lượng quả trên một ha
còn thấp hơn nhiều so với Úc cũng như một số nước sản xuất quả cây có múi chủ lực khác.
Mục tiêu của dự án này là để cải thiện ngành trồng cây có múi tại Việt Nam một cách tốt hơn
thông qua việc kiểm soát các đối tượng dịch hại và việc quản lý vườn cây có múi. Một cuộ
c
điều tra cơ bản đã cho thấy rằng lợi nhuận thực được ước tính cho mỗi ha cây có múi thì biến
động giữa 30.000.000 và 130.000.000 đồng Việt Nam. Diện tích vườn cây có múi và giống
cây có múi cũng biến động đáng kể giữa các tỉnh, trong đó nhóm quýt là cho lợi nhuận cao
nhất. Mục tiêu của dự án này đã đạt được một cách tốt đẹp là nhờ vào việc gia tăng năng lực
giảng dạy các phươ
ng pháp trồng cây có múi một cách hiệu quả của các cơ quan nghiên cứu
và khuyến nông của Việt Nam cho nông dân và cũng nhờ vào việc gia tăng kiến thức cho các
nông dân tham gia dự án. Kiểu học chủ yếu được sử dụng trong dự án này là các lớp học trên

đồng ruộng cho các nông dân (FFS) trong đó các lớp học là nơi hội tập những người tham gia
đến để cùng nhau học tập và nghiên cứu. Đầu tiên các đối tác chủ chốt đã xây dựng một
chương trình huấn luyện cho các cán bộ khuyến nông, những người đã huấn luyện về IPM
trên cây có múi và đã phát triển một chương trình hoạt động cho FFS. Sau đó các huấn luyện
viên đã tổ chức thực hiện một khoá FFS phù hợp với mùa vụ của từng vùng. Vào cuối vụ các
cuộc hội thảo xét duyệt đã được tổ chức ở trung tâm một số điểm để đánh giá FFS đồ
ng thời
chỉnh sửa lại chương trình huấn luyện cũng như giáo trình cho FFS. Những chỉnh sửa ở năm
thứ hai bao gồm việc kéo dài khoảng thời gian hoạt động của FFS để để nó đủ bao gồm toàn
bộ những giai đoạn sinh trưởng và phát triển chủ yếu của cây có múi trong chương trình huấn
luyệN FFS nhưng các cuộc họp mặt thì ít thường xuyên hơn và trọng tâm của việc huấn
luyện đã được mở rộng từ quản lý dịch hại tổng hợp đến những mặt khác của kỹ thuật canh
tác cây có múi như việc cắt tỉa cành, dinh dưỡng cho cây đặc biệt là việc sản xuất phân ủ,
Cây có múi là một chủng loại cây ăn quả quan trọng ở Việt Nam nhưng hiện trạng sản xuấ
và sản lượng cây có múi đã bị trở ngại bởi nhiều vấn đề về dịch hại. Việc quản lý dịch hại
tổng hợp (IPM) hiện đang được thừa nhận như là một biện pháp kiểm soát dịch hại có
hiệu quả và chấp nhận được. Việ
t Nam đã phát triển mạnh được một chương trình IPM
Quốc Gia bằng việc tham gia tập huấn và nghiên cứu của các nông dân thông qua các lớp
huấn luyện thực nghiệm cho nông dân (FFS), mà qua đó đã có hơn 500.000 nông dân đã
được huấn luyện về các kỹ thuật IPM trên cây lúa, rau màu, vải, trà, đậu nành, đậu phộng
và khoai lang. Tuy nhiên trước khi có dự án này kỹ năng chuyên môn về IPM trên cây có
múi của các huấn luyện viên còn rất hạn chế. Dự án này đã làm gia tăng đáng kể n
ăng lực
huấn luyện về IPM trên cây có múi cho các huấn luyện viên Việt Nam nhờ vào việc tập
huấn cho 209 cán bộ khuyến nông ở cả hai vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh
ven biển miền Trung. Sau đó những huấn luyện viên này đã tổ chức được 72 FFS trong
suốt hai năm 2005 và 2006, kết quả là đã có 2.245 nông dân của 12 tỉnh đã hoàn tất
chương trình huấn luyện về IPM trên cây có múi. Việc đánh giá hiệu quả của FFS
đã được

minh chứng bằng việc các nông dân đã xác nhận có nhiều sinh vật có ích hơn trong khu
vườn của họ, họ chấp nhận những loại thuốc thích hợp hơn trong việc quản lý dịch hại
tổng hợp (IPM), giảm chi phí đầu tư và gia tăng việc chia sẽ kiến thức và kinh nghiệm dẫn
đến việc thành lập những hợp tác xã. Chi phi của FFS cho mỗi tham dự viên qua khảo sát
cho thấy nó chiếm khoả
ng 1,6% của bình quân lợi nhuận thực của các nông dân.

3
việc trẻ hoá vườn cây, dự thảo chi phí và kế hoach cho một chu kỳ sản xuất. Trong năm đầu
tiên của dự án 98 cán bộ khuyến nông từ 12 tỉnh đã được huấn luyện và đã tổ chức thực hiện
được 24 FFS với 728 nông dân đã được cấp chứng chỉ. Trong năm thứ hai của dự án thêm
111 cán bộ khuyến nông được huấn luyện và họ đã tổ chức thực hi
ện được 48 FFS với 1520
nông dân được cấp chứng chỉ. Trong năm thứ nhất của dự án các huấn luyện viên từ tỉnh Cần
Thơ đã in ấn 12 áp phích để giảng dạy về các loại dịch hại chính trên cây có múi. Vào lúc bắt
đầu cho năm thứ hai của dự án bộ áp phích này đã được in ấn trên vật liệu không thấm nước
và phân phối cho toàn bộ FFS với nguồn kinh phí tài trợ thêm của ACIAR. Một quyển sách
với tựa đề “IPM trên cây có múi- Hướng dẫn sinh thái” cũng đã được xuất bản vào cuối năm
thứ nhất của dự án và 1030 bản đã được phân phát cho các huấn luyện viên và nông dân tham
gia. Quyển sách đã được nhiều người chấp nhận vì thế đã được tiếp tục in ấn để phân phát
cho toàn bộ các nông dân tham gia FFS. Vào lúc kết thúc dự án một quyển sách thứ hai với
tựa đề “Hướng dẫn đồng ruộng v
ề dịch hại trên cây có múi” đã được xuất bản với số lượng là
5030 quyển đang được phân phát cho các huấn luyện viên và tham dự viên FFS. Một cuộc
khảo sát kiến thức, thái độ, và thực tiễn (KAP) của các nông dân tham gia đã được thực hiện
vào lúc bắt đầu và kết thúc mỗi FFS cho thấy rằng thái độ của nông dân đã được ảnh hưởng
nhờ vào việc tham gia FFS. Kiến thức của họ về các loạ
i sâu bệnh hại đã được cải thiện một
cách có ý nghĩa và số lần phun thuốc đã giảm. Vào lúc kết thúc dự án một cuộc đánh giá
những tác động về kinh tế, xã hội và môi trường đã được thực hiện bằng các cuộc phỏng vấn

cá nhân của 53 nông dân từ 13 địa điểm. Cuộc khảo sát này đã cho thấy rằng trong năm sau
khi tham gia FFS, thực hành canh tác của nông dân đã thay đổi gồm vi
ệc giảm sử dụng thuốc
trừ dịch hại, thay đổi loại thuốc được sử dụng từ loại thuốc có phổ tác động rộng với mức tác
động rất mạnh đến môi trường sang loại thuốc mềm hơn, việc quản lý đất tốt hơn nhờ vào
việc gia tăng sử dụng phân hữu cơ và quản lý tán cây được tốt hơn. Các nông dân cũng gia
tăng vi
ệc nhận thức của họ về việc áp dụng thuốc trừ dịch hại, giữ sổ ghi chép, sau thu hoạch
và thị trường. Đa số nông dân đều khai rằng lợi nhuận thực của họ đã gia tăng chính là kết
quả của việc giảm chi phí đầu vào và tăng được năng suất và chất lượng quả. Việc tham gia
FFS đã làm gia tăng tình cảm giữa các tham dự viên FFS và sự chuyển vi
ệc quản lý vườn từ
những người đàn ông sang vợ của họ để họ có thể đi làm những công việc khác. Sự thành lập
các hợp tác xã sau khi các FFS đã kết thúc là một bước rất quan trọng trong việc duy trì năng
lực đã được gia tăng của cộng đồng nông trại để cải thiện ngành sản xuất cây có múi. Tuy
nhiên để duy trì những điều này, các nhóm trang trại cần sự tài trợ
về tài chính với các điều
kiện tín dụng dễ dàng hơn để họ phát triển các công nghệ sau thu họach và có điều kiện tiếp
cận thị trường. Sự duy trì mạng lưới huấn luyện viên đã được bồi dưỡng từ dự án này đòi hỏi
phải tiếp tục cấp thêm kinh phí. Mặc dù điều này ban đầu đã được sự tài trợ của chính quyền
các t
ỉnh, nhưng khả năng các nông dân đóng góp phần nào chi phí cho các FFS cần được
xem xét trong tương lai, đặc biệt nếu các nông dân là thành viên của các câu lạc bộ cây có
múi hay là các hợp tác xã. Chi phí cho mỗi thành viên tham gia FFS được ước tính khoảng
70,62 đô la Úc, chỉ bằng 1,60% lợi nhuận trung bình cho mỗi ha. Dựa vào những ước tính
này chi phí của FFS sẽ được bù lại chỉ trong một mùa nhờ vào việc giảm chi phí đầu vào và
gia tăng năng suất.
4. Giới thiệu và bối cảnh
Cây có múi là một trong những loại cây ăn quả chủ lực của Vịêt Nam (Bộ NN&PTNT 2004)
và sản xuất quả cây có múi là một nguồn thu nhập quan trọng của nhiều nông dân Việt Nam.

Tuy nhiên, sản lượng và ngành sản xuất quả cây có múi ở Việt Nam thì thấp hơn đáng kể so
với ở Úc và nhiều nước trồng cây có múi chủ yếu trên thế giới Brazil và Mỹ. Bộ Nông
nghiệp và PTNT Việt Nam đã cho rằng “ nhìn chung, việc canh tác cây có múi trong vài năm
qua đã đã không được phát triển mạnh, phần lớn là do tác hại nghiêm trọng của dịch hại mà

4
chủ yếu là bệnh vàng lá greening (bệnh huanglongbing) và vì thế những nghiên cứu về các
biện pháp kiểm soát các đối tượng dịch hại này, trong đó sự kết hợp giữa việc quản lý vật
liệu trồng và sử dụng kỹ thuật thâm canh, tiên tiến, là hết sức cần thiết” (Bộ NN&PTNT
2004).
Thông tin bối cảnh về sản xuất cây có múi ở những vùng mà dự án này đã thực hiện và thu
thập dữ
liệu bao gồm việc điều tra cơ bản và đánh giá tác động của dự án thông qua việc điều
tra và phỏng vấn nông dân. Từ thông tin đã được thu thập bình quân diện tích vườn cây ăn
quả và thu nhập thực của nông dân đã được ước lượng cho mỗi tỉnh. Thật là khó để thẩm tra
những gì mà nông dân đã nêu ra qua cuộc phỏng vấn bởi vì họ đã không giữ lại những sổ
sách ghi chép vi
ệc thu và chi của họ một cách chính xác. Tuy nhiên, người phỏng vấn đã
kiểm tra lại với từng nông dân bằng cách tính toán lại với họ về thu nhập thực tế chứ không
phải là tổng số tiền họ thu được do bán quả. Họ cũng thẩm định lại với từng nhóm nông dân
và đã tính toán cho nông dân thấy sự khác nhau giữa thu nhập thực tế và tổng số tiền mà họ
thu được do bán quả và nhữ
ng chi phí trực tiếp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí
tưới tiêu, xăng dầu, tiền thuê mướn công lao động, đóng gói, vận chuyển đi bán. Trong việc
tính toán lợi nhuận thực, các nông dân đã không tính đến chi phí công lao động của chính họ
cũng như những thành viên trong gia đình của họ, sự khấu hao trang thiết bị cũng như vườn
quả của họ hoặc quan tâm đến tiền vay vốn để
đầu tư sản xuất. Diện tích trung bình của vườn
cây có múi biến động một cách có ý nghĩa giữa các tỉnh và rộng nhất là ở Khánh Hoà (Hình
1). Gía trị lợi nhuận thực tế đã được ước tính không có liên quan đến kích cở vườn (Hình 2)

và lợi nhuận biến động giữa các chủng loại cây có múi khi được tính trung bình ở các tỉnh
(Hình 3).
Có một mức độ chuyên canh rất cao về giống cây có múi theo các tỉnh ở Việt Nam, với nông
dân ở
Đồng Tháp hầu hết là trồng quýt (Tiều) và các nông dân ở Tỉnh Nghệ An thì chuyên về
trồng cam. Bưởi thì được trồng khá phổ biến ở nhiều tỉnh và diện tích trồng đã gia tăng
nhanh từ 10 năm qua. Những giống cây có múi khác nhau thì cho thu nhập rất khác nhau.
Trong khi lợi nhuận trung bình thực tế được tính bình quân trên các chủng loại cây có múi và
ở tất cả các tỉnh là 78.620.000 đồng Việt Nam, các nông dân trồng quýt có trung bình thu
nhập thực tế cao nhất là 100.000.000 đồng Việt Nam, ti
ếp theo sau là nông dân trồng bưởi
với thu nhập là 93.330.000 đồng Việt Nam trong khi nông dân trồng cam lợi nhuận bình
quân chỉ 37.880.000 đồng Việt Nam (Hình 3). Không có gì đáng ngạc nhiên khi lợi nhuận
bình quân cao nhất trên 100.000.000 đồng Việt Nam được ghi nhận ở hai tỉnh Tiền Giang và
Đồng Tháp bởi vì ở đó chủ yếu là được trồng quýt. So với lợi nhuận thực từ việc trồng trồng
lúa thì trồng cây có múi cao hơn từ 3-6 lần.

5
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
Kanh Hoa Nghe An Ben Tre Tien Giang Dong Thap Tra Vinh Vinh Long Can Tho Soc Trang
Province
Average area of citrus plantation (ha)

Hình 1: Diện tích trung bình của các vườn cây có múi ở các tỉnh đã được khảo sát .


0
20,000,000
40,000,000
60,000,000
80,000,000
100,000,000
120,000,000
140,000,000
160,000,000
180,000,000
Kanh Hoa Nghe An Ben Tre Tien Giang Dong Thap Tra Vinh Vinh Long Can Tho Soc Trang
Province
Net profit (VND/ha/year)

Hình 2: Đánh giá thu nhập thực cho mỗi ha vườn cây có múi ở mỗi tỉnh đã được khảo sát.


6
0
20,000,000
40,000,000
60,000,000
80,000,000
100,000,000
120,000,000
140,000,000
Mandarin Pomelo Orange
Citrus species
Net profit (VND/ha/year)


Hình 3: Đánh giá bình quân thu nhập thực tế cho mỗi chủng loại cây có múi ở các tỉnh đã
khảo sát.
Mục tiêu của dự án là tổ chức huấn luyện cho các huấn luyện viên là những cán bộ khuyến
nông (TOT) về quản lý dịch hại tổng hợp IPM trên cây có múi, sau đó các huấn luyện viên
này sẽ tổ chức các FFS ở địa phương của họ và để đánh giá tính hiệu quả của phương pháp
huấn luy
ện bằng hình thức FFS trong việc gia tăng kiến thức cho nông dân. Mục tiêu quan
trọng cần tác động vào kiến thức cho nông dân là tăng cường sự hiểu biết của nông dân về hệ
sinh thái vườn cây ăn quả, ảnh hưởng của mật độ cây trồng và sự thiết kế vườn cây đến sản
lượng quả, sự cân bằng giữa các loại dinh dưỡng hữu cơ và vô cơ để duy trì sức khoẻ c
ủa đất,
sự cân bằng giữa các loại dịch hại và sinh vật có ích, và việc sử dụng thuốc trừ dịch hại một
cách hợp lý trong canh tác cây có múi. Những mục tiêu này góp phần làm cho nông dân
trồng cây có múi nâng cao khả năng của họ và giúp họ tự quyết định giải quyết những vấn đề
về dịch hại theo chiến lược IPM trong sản xuất cây có múi tại Việt Nam. Với sự thành lập
của m
ột mạng lưới cán bộ khuyến nông về IPM trên cây có múi và những huấn luyện viên
này sẽ đạt được kinh nghiệm thực tế cần thiết trong việc huấn luyện IPM trên cây có múi qua
việc tổ chức ít nhất một mùa FFS dài suốt cả vụ cây có múi, năng lực thực hiện chương trình
IPM trên cây có múi của các cán bộ Việt Nam đã tăng lên một cách có ý nghĩa.
Kiểu tổ chức học được sử dụng trong dự án là dạ
ng nông dân học tập qua thực nghiệm trên
đồng (FFS). FFS được xem như là một diễn đàn cho những người tham gia đến để học tập và
nghiên cứu để quyết định hành động theo kết quả mà họ đã học tập và thực nghiệm. Kiểu này
đã thu hút một cách trọn vẹn được tất các những đối tác: các nông dân, khuyến nông viên,
nhà nghiên cứu, chính quyền địa phương, doanh nghiệp tư nhân và cho phép họ tham gia trực
tiếp trong việ
c học tập, nghiên cứu, hội họp theo nhu cầu của họ. Hơn nữa một khía cạnh
quan trọng của dự án là để đánh giá tính hiệu quả của FFS trong việc thay đổi những thực

hành của nông dân và tác động về kinh tế, xã hội và môi trường của những thay đổi này. Mặc
dù những phương pháp luận cho sự tham gia dựa vào học tập và hành động dựa vào kết quả
nghiên cứu được thiết l
ập rất tốt, nhưng sự đánh giá tác động của chúng thì chưa hoàn hảo và
cũng chưa được nhất trí về phương pháp luận. Tuy nhiên, nhìn chung người ta đều thừa nhận
rằng sự đánh giá tác động của FFS là phức tạp bởi vì sự đa dạng của những tham số tác động

7
và ảnh hưởng của phối cảnh khác nhau của các đối tác đến những gì mà nó tác động đến (van
den Berg and Jiggins 2007). Những đánh giá đã sử dụng trong dự án này bao gồm sự tự đánh
giá của những người nông dân và sự tự đánh giá bởi những đối tác khác nhau của dự án để
đảm bảo rằng những tham số mà đã đưa ra để đánh giá này thì thích đáng nhất cho những đối
tác chính. Độ lớ
n của mẫu khảo sát và phép đạt tam giác (những cuộc khảo sát, những cuộc
phỏng vấn giữa khoá và những quan sát thực tế trên đồng ruộng) đã được sử dụng để hạn chế
tối đa sự thiên lệch. Tác động đã được đánh giá bằng việc sử dụng một sự so sánh dọc (ví dụ
như sự so sánh trước và sau khi được tập huấn). Những tác động đ
ôi khi bị biến động theo
thời gian chẳn hạn như những khác biệt về năng suất và giá cả thị trường từ năm này đến
năm khác. Do đó để giảm ảnh hưởng biến động của thời gian việc nghiên cứu tính tác động
đã được thực hiện ở nhiều vùng khác nhau, ở 9 tỉnh và trên nhiều chủng loại cây có múi khác
nhau (cam, quýt, bưởi).
5. Tiến độ thực hiện
5.1 Những điểm nổi bật đã thực hiện được
Mục tiêu chính của dự án này là để tăng cường năng lực cho người Việt Nam nhằm phát triển
và thực hiện những chiến lược IPM trên cây có múi bằng việc tổ chức huấn luyện cho các
huấn luyện viên là các khuyến nông viên (TOT) về IPM trên cây có múi và những huấn
luyện viên này sẽ tổ chức thực hiện các FFS ở ngay các huyện của họ. M
ục tiêu chính đã đạt
được là thông qua sự thực hiện của tất cả các hoạt động đã được đề ra trong nội dung của dự

án, ngoài ra còn có những hoạt động bổ sung khác mà đã được trình bày rõ ràng qua các báo
cáo định kỳ và cho các đối tác có liên quan phía Việt Nam suốt trong quá trình thực hiện của
dự án. Những hoạt động bổ sung này nằm ngoài nội dung đề ra của dự án nhưng đã đóng góp
một cách có ý nghĩa và có tác động tích cự
c làm cho việc thực hiện những mục tiêu dự án đã
được đặt ra được hoàn thiện và bền vững hơn.
Những chi thiết của sự thực hiện dự án đã được trình trong các báo cáo tiến độ, và những
điểm nổi bật chính được liệt kê dưới đây.

Những nét nổi bật về sự quản lý dự án


1. Cuộc họp dự án được tổ chức vào ngày 25/01/2005 đã thống nhất quy định những điểm
mốc thời gian cần thiết cho hoạt động các nội dung của dự án và sẽ có báo cáo các kết
quả thực hiện nội dung dự án theo các mốc thời gian quy định. Đồng thời thống nhất
phân công các cá nhận đảm nhiệm các nhiệm vụ chuyên môn.
2. Cuộc họp các đối tác chủ chố
t trong dự án đã tổ chức vào ngày 22/03/2005. Cuộc họp
này đã quy định một phạm vi hoạt động chung giữa các đối tác từ nhà nghiên cứu và các
cơ quan khuyến nông, doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức phi chính phủ. Những người
đại diện của các cơ quan và doanh nghiệp không được đề cập từ đầu trong dự án đã tham
gia trong cuộc họp đối tác này và họ đã bày tỏ sự phấn khởi của họ khi đượ
c tham gia và
tài trợ cho dự án. Qua cuộc họp, các vị trí để thực hiện các FFS cũng đã được quyết định
và nội dung chương trình huấn luyện TOT cũng đã được phát thảo.
3. Các hội thảo đánh giá hoạt động dự án đã được tổ chức tại Cần Thơ vào ngày 23/11, Mỹ
Tho vào ngày 25/11 và Vinh vào ngày 29/11/2005. Các cuộc hội thảo này đã không được
lên kế hoạch cũng như kinh phí trong đề cương dự
án nhưng trong suốt khoá học của mùa
FSS đầu tiên nó đã chứng tỏ một cách rõ ràng rằng các hội thảo này đã tạo cơ hội cho các

đối tác (gồm đại diện nông dân từ các FFS) có thể đánh giá qua một mùa FFS đầu tiên và
đề nghị những thay đổi về chương trình giảng dạy cần thiết. Kinh phí cho hoạt động này
đã được tài trợ từ công ty Bayer Việt Nam. Trong các cuộc hội thảo này các kết quả của

8
các thí nghiệm thực nghiệm của nông dân cũng đã được các huấn luyện viên báo cáo,các
chương trình huấn luyện TOT và FFS cũng đã được đánh giá, cung cấp thông tin phản
hồi và các duyệt xét cho chương trình TOT và FFS ở năm 2006 cũng đã được nhất trí.
4. Một cuộc họp các đối tác cũng đã được tổ chức tại Trung tâm BVTV phía Nam vào ngày
Thứ hai 09/01. Trong cuộc họp này chương trình huấn luyện TOT đã được đi
ều chỉnh
bao gồm việc tăng cường các hoạt động thực hành hơn, thời gian cho FFS cũng đã được
nhất trí xem xét lại và kinh phí hỗ trợ thêm cho hoạt động này do Công ty Năng lượng
SK từ Korea và Trường Đại học Tây Sydney.
5. Các hội thảo đánh giá cuối cùng do Công ty Năng lượng SK tài trợ được tổ chức vào
ngày 27/11/06 tại Cần Thơ, vào ngày 28/11/06 tại Mỹ Tho và vào ngày 30/11/06 tại
Vinh. Trong các hội thảo này nhằm đánh giá các kế
t quả hoạt động của mùa FFS thứ hai.
Các chiến lược IPM cho các vùng đặc trưng đã được đề xuất. Các đề nghị thực hiện dự án
CARD “mới” 037/06 VIE về GAP trên cây có múi đã được lưu ý đến.

Những nét nổi bật về các hoạt động huấn luyện


1. TOT đầu tiên cho năm 2005 đã được tổ chức từ 18-29 tháng 04 tại Trung Tâm BVTV
phía Nam. Tổng cộng có 47 cán bộ khuyến nông từ 12 tỉnh được tập huấn.
2. TOT thứ 2 cho năm 2005 đã được tổ chức từ 9-20 tháng 05 tại Trung Tâm BVTV phía
Nam. Tổng cộng có 51 cán bộ khuyến nông từ 12 tỉnh được tập huấn.
3. Hai mươi bốn FFS đã được tổ chức ở 12 tỉnh vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6 nă
m 2005.

4. Hoạt động bổ sung là các chuyến tham quan học tập của nông dân đã được tổ chức từ 24-
29 tháng 10 năm 2005 với tổng số có 540 nông dân từ 18 FFS ở 8 tỉnh ĐBSCL tham
quan 1 FFS ở tỉnh khác. Các nông dân từ 7 tỉnh đã đến tham quan huyện Lai Vung ở tỉnh
Đồng Tháp và các Nông dân ở huyện Lai Vung đã tham quan huyện Cái Bè Tiền Giang
(xem bảng 1).
5. Các FFS đã hoàn tất vào cuối tháng 10 đến đầu tháng 11 năm 2005. Tổng cộng có 728
nông dân được hu
ấn luyện.
6. Các thay đổi một cách có ý nghĩa trong chương trình huấn luyện TOT và FFS đã được
đưa ra sau khi kết thúc mùa FFS thứ nhất. Nội dung trọng tâm đã được nới rộng ra từ
quản lý dịch hại trổng hợp cho đến khía cạnh khác của canh tác cây có múi gồm xén tỉa
cành, dinh dưỡng cho cây đặc biệt là sự sản xuất phân ủ, trồng mới hay làm trẻ hoá vườn
cây, làm dự toán đầu tư và kế hoạch cho chu kỳ
sản xuất. Đối tượng tập trung trong chiến
lược quản lý dịch hại tổng hợp trước tiên là rầy chổng cánh truyền bệnh greening và các
loài nhện hại và sau đó là bệnh Phytophthora. Các thành viên mà đã được tập huấn cho
dự án CARD 052/04 VIE “Quản lý bệnh Phytophthora ở Việt Nam” cũng có tham gia
trong dự án của chúng ta.
7. Khoá học TOT đầu tiên cho năm 2006 đã được tổ chức từ 13-26 tháng 2 tại Trung tâm
BVTV phía Nam. Tổng cộng có 45 cán bộ khuyến nông t
ừ 9 tỉnh đã được tập huấn.
8. Khoá học TOT thứ hai cho năm 2006 đã được tổ chức từ 27 tháng 2 đến 11 tháng 3 tại
Trung tâm BVTV phía Nam. Tổng cộng có 45 cán bộ khuyến nông từ 8 tỉnh đã được tập
huấn.
9. Khoá học TOT thứ ba cho năm 2006 đã được tổ chức từ 13-26 tháng 3 tại Trung tâm
BVTV phía Nam. Tổng cộng có 21 cán bộ khuyến nông từ 4 tỉnh đã được tập huấn.
10.
Bốn mươi tám FFS đã tổ chức từ giữa tháng 3 và tháng 5/2006 ở 11 tỉnh. Các FFS đã
thực hiện trong một khoảng thời gian dài suốt một mùa phát triển của cây có múi từ khi
cây ra hoa đến khi cây thu hoạch. Các FFS đã hoàn tất vào cuối tháng 12 năm 2006. Tổng

cộng có 1530 nông dân đã được huấn luyện.



9
Sự xuất bản tài liệu nghiên cứu


1. Trong mùa FFS đầu tiên năm 2005 các huấn luyện viên từ Chi cục BVTV Cần Thơ đã in
ấn một bộ gồm 12 áp phích, 8 áp phích bao gồm các loài dịch hại chính trên cây có múi
và 4 áp phích bao gồm các loại bệnh hại chính trên cây có múi. Các áp phích này đã được
in ấn trên chất liệu plastic không thấm nước đã được trình bày ở hội thảo đánh giá lần thứ
nhất vào tháng 11 năm 2005. Nhóm quản lý dự án đã đánh giá về các áp phích và kết luận
rằng đó là m
ột công cụ giảng dạy rất tốt cho các FFS. Trong tháng 3 năm 2006 các áp
phích đã được in ấn và phân phối cho các FFS được tổ chức cho năm 2006 (Hình 10). Chi
phí được trợ cấp từ ACIAR (5.000 $ Úc) và Trường Đại học Tây Sydney (3.000 $ Úc).
2. Quyển sách với tựa đề “ Quản lý dịch hại tổng hợp trên cây có múi - Hướng dẫn sinh
thái” đã được xuất bản vào ngày 15/12/2005 và 1030 bản đã được phân phối cho tất cả
các huấn luyện viên tham gia và đa số nông dân vào tháng 4 n
ăm 2006. Quyển sách đã
được sự chấp nhận rất cao và đã được phóng tác thêm để phân phối cho tất cả các tham
dự viên FFS (Hình 11). Chi phí dư từ dự án CARD cho cây có múi trước đó (2001-2004)
đã được sử dụng để chi trả cho chi phí in ấn này.
3. Quyển sách với tựa đề “Hướng dẫn đồng ruộng về sâu bệnh hại cây có múi” (Hình 11) đã
được xuất bản vào ngày 12/2/2007 và 5030 bản đã được phân phối cho các huấn luyện
viên và tham d
ự viên FFS.
4. Một tài liệu bướm về chiến lược IPM cho việc kiểm soát các dịch hại chính đã được in ấn
(10.000 bản) bởi công ty thuốc trừ sâu Sài Gòn (SPC) và phân phối cho các tham dự viên

FFS và các đại lý bán thuốc BVTV của Công ty thuốc trừ sâu Sài Gòn. Việc in ấn các tài
liệu bướm này là một bước rất quan trọng nó thể hiện các khuyến cáo của nhà sản xuất,
nhà phân phối thuốc trên thị trường và nhà khuyến nông cần phải phù hợp cùng h
ướng.

Sự đánh giá tính hiệu quả của các FFS trong sự thực hiện quản lý dịch hại tổng hợp (IPM )

.
1. Các khảo sát phân tích kiến thức, thái độ và thực tiễn của nông dân (KAP) đã được thực
hiện ở năm 2005 và 2006. Tổng cộng 1060 trước và sau tham dự FFS khảo sát từ 530
nông dân đã được phân tích trong năm 2005 và 2118 trước và sau FFS từ 1059 nông dân
tham gia FFS ở năm 2006.
2. Các nhân sự trong dự án bao phái Úc và Việt Nam đã thăm 16 FFS ở 12 tỉnh từ 1-19
tháng 6 năm 2005 các số liệu cơ bản đã được thu thập và hướng dẫn thự
c hiện các thí
nghiệm trình diễn.
3. Trong thời gian tham gia đánh giá tiến độ ở cuối của năm đầu tiên, nhóm thực hiện dự án
đã nhận thấy rằng sự phân tích KAP đã không bắt kịp thực chất tác động của các FFS đến
các nông dân và cộng đồng của họ. Vì vậy nhóm thực hiện dự án đã cùng với các huấn
luyện viên sau đó đã triển khai những khung để đánh giá khác gồm các cu
ộc phỏng dẫn
giữa kỳ và thảo luận nhóm nhằm cố gắng để cải thiện sự đánh giá.
4. Các nhân sự người Úc và Việt Nam đã thăm các FFS ở các tỉnh phía Nam và tham dự các
buổi họp mặt tại Trung tâm BVTV phía Nam và Hiệp hội trái cây tại thành phố Hồ Chí
Minh từ 21-24/3/2006.
5. Các nhân sự trong dự án phía Úc và Việt Nam đã thăm 10 FFS ở 9 tỉnh từ 13-24/6/2006
để thu thập số liệu phản h
ồi về các FFS năm 2006 và giúp đỡ sự thực hiện các thí
nghiệm.
6. Các nhân sự trong dự án phía Úc và Việt Nam đã thăm 9 tỉnh đã mở các FFS từ 17-

30/11/2006 và đảm trách việc đánh giá những tác động về kinh, xã hội và môi trường
bằng việc sử dụng những cuộc phỏng vấn cá nhân và thảo luận nhóm với nông dân mà đã
học xong FFS ở cuối năm 2005. Ngoài ra việc đánh giá thêm cho mỗi một địa đi
ểm mà
chấp nhận với EUREP GAP cũng đã được thực hiện để minh chứng sự khác nhau giữa

10
những thực hành sản xuất của người dân trồng cây có múi ở Việt Nam và những yêu cầu
của EUREP GAP.
5.2 Các lợi ích của các nông hộ
Hoàn cảnh cá nhân của các nông hộ đã được điều tra tỉ mỉ qua điều tra thực tiễn nông dân ở
16 FFS trong tháng 6 năm 2005 và 10 FFS vào tháng 10 năm 2006, và suốt trong quá trình
đánh giá những tác động về kinh tế, xã hội và môi trường bằng phương pháp phỏng vấn cá
nhân tất cả 53 nông dân từ 13 nơ
i trong tháng 11 năm 2006. Kết quả cho thấy rằng có những
sự khác nhau đáng được lưu ý trong các hệ sinh thái nông nghiệp và trong thực hành trồng
cây có múi ở ĐBSCL và Vùng ven biển miền Trung (gồm tỉnh Nghệ An), và cũng có những
khác nhau đáng kể giữa các tỉnh trong các vùng này. Các kết quả chi tiết từ sự đánh giá tác
động có thể được tìm thấy trong báo cáo mốc số 7 và những điểm chủ yếu sẽ được trình bày
ở đây. Các nông dân đ
ã gia tăng kiến thức và kỹ năng của họ trong nhiều lĩnh vực về canh tác
cây có múi bao gồm mật độ cây trồng, việc cắt tỉa, dinh dưỡng cho cây trồng, quản lý dịch
hại tổng hợp. Sự nhận thức của nông dân về sự phun thuốc, giữ sổ ghi chép, sau thu hoạch,
thị trường… được gia tăng nhưng nó cũng cho thấy rằng thu nhập cần phải được tăng cao
h
ơn trên những diện tích này. Khả năng của nông dân để đánh giá về quá trình sản xuất và
những yếu tố về hệ sinh thái nông nghiệp được cải thiện một cách đáng kể chính là kết qủa từ
các FFS. Trong năm sau khi tham gia FFS, thực hành của nông dân đã thay đổi đáng kể thể
hiện qua việc giảm sử dụng thuốc trừ sâu, thay loại thuốc trừ dịch hại từ loại có phổ tác
động

rộng, độc hại cao cho môi trường sang loại thuốc mềm hơn, quản lý đất tốt hơn với việc gia
tăng sử dụng các chất liệu hữu cơ và quản lý tán cây được tốt hơn.


















Phân tích KAP cũng đã cho thấy rằng thái độ của nông dân được ảnh hưởng bởi việc tham
gia vào FFS trong mối quan hệ về các phương pháp kiểm soát dị
ch hại. Các nông dân đã gia
tăng về mức độ chấp nhận của họ rằng thuốc trừ dịch hại có thể gây nên sự tái phát của dịch
hại và chấp nhận từ bỏ quan niệm rằng dùng thuốc trừ dịch hại sẽ làm gia tăng năng suất,
rằng thuốc trừ dịch hại thì rẽ tiền và dễ sử dụng, và rằng các nông dân tiên tiến thì sử dụng
nhi
ều thuốc trừ dịch hại hơn. Kiến thức của nông dân về các dịch hại đã được cải thiện một
cách có ý nghĩa cũng chính là kết quả của việc tham gia vào FFS, với một sự gia tăng có ý
nghĩa về số lượng nông dân cho những câu trả lời đúng đạt được ở tất cả các tỉnh đặc biệt là

ở các tỉnh ven biển miền Trung do trình độ trước khi tham gia FFS thấ
p hơn (Hình 7). Bởi vì
Hình 4: Các nông dân đã gia tăng kiến thức và kỹ năng của họ trong nhiều lĩnh vực về canh
tác cây có múi bao gồm mật độ cây trồng, việc cắt tỉa, dinh dưỡng cho cây trồng, quản lý dịch
hại tổng hợp.

11
cây có múi là một loại cây lâu năm với một mùa trải dài suốt cả một năm, những thực hành
hầu như không thể thay đổi trong khoảng thời gian FFS hoạt động. Kết qủa về sự thay đổi
trong thực hành đã được ghi nhận chỉ là việc giảm số lần phun ở ĐBSCL lần lượt ở 2 năm là
2005 và 2006 là từ 7 xuống còn 6,5 và từ 7,7 xuống còn 6,0.


Hình 5: Việc giảm s
ố lần phun thuốc, thay đổi bằng việc sử dụng các loại thuốc ít độc hại và
những nông dân đã tăng sự nhận thức về vấn đề sức khoẻ cho chính họ và cho xã hội chính là
những đầu ra quan trọng của dự án.

Phần lớn nông dân đều mong muốn những thay đổi trong thực hành của họ sẽ mang lại lợi
nhuận cho họ được nhiều hơn, bởi vì qua
điều tra cho thấy 47% nông dân được phỏng vấn
cho rằng có sự giảm giá thành do chi phí đầu tư của họ ít đi một phần nào và năng suất và
chất lượng quả thì phần nào lại tăng hơn. Gia tăng năng suất cũng đã được ghi nhận với các
nông dân ở tỉnh Vĩnh Long. Trên 38% nông dân được phỏng vấn đã đề cập đến việc gia tăng
năng suất, 17% cho rằng tă
ng chất lượng quả, 17% cho rằng tăng giá bán quả và 13% tăng lợi
nhuận. Tuy nhiên không thể xác định phần nào của việc gia tăng năng suất mà họ khai báo là
do những thực hành quản lý vườn được thay đổi và bao nhiêu là do sự biến động theo mùa.
Sự tham gia vào FFS làm gia tăng mối quan hệ rộng rãi giữa các nông dân trong cộng đồng.
Các mạng lưới giữa nông dân được mạnh mẽ hơn làm cho sự thành lập các câu lạc bộ nông

dân và các hợp tác xã mà bao gồ
m các thành viên FFS và các thành viên trong cộng đồng
nông thôn được dễ dàng hơn. Trong các tổ chức nông dân này thì các thành viên FFS luôn
giữ vai trò chủ chốt. Mặc dù mức độ tham gia của giới nữ ở các FFS, đặc biệt là ở phía Nam
thì không cao, nhưng nó làm nâng cao vị trí của người phụ nữ trong gia đình. Sự tham gia
vào FFS làm cho sự truyền đạt kinh nghiệm quản lý từ những người đàn ông mà có công việc
làm bên ngoài cho các bà vợ của họ. Khi các cơ hội cho việc tìm kiếm công ăn chuyện làm ở

các lĩnh vực khác gia tăng trong tương lai, thì vai trò chủ lực của người phụ nữ trong sản xuất
nông nghiệp sẽ gia tăng. Dự án này đã chứng minh rằng việc huấn luyện FFS có thể giúp cho
những người phụ nữ một cách hữu hiệu trong lĩnh vực này.
Cũng có một tỷ lệ nhỏ con em trong các gia đình nông dân tham gia FFS và có lẽ dường như
sự tham dự của chúng cũng nhằm để có nhữ
ng cơ hội tương tự như sự chuyển việc quản lý
vườn từ các ông chồng và các bà vợ, khả năng này không được xem là có hiệu quả. Việc trao
quyền quản lý giữa hai thế hệ thường là chủ đề của sự bất đồng, và dường như FFS là cách
tốt nhất để có thể làm cho điều này được thuận lợi hơn khi những đứa con (trai) được chia
cho một phần khu v
ườn mà chúng quản lý một cách độc lập.

12


Hình 6: Nông dân học nhận diện các dịch hại chính và các côn trùng có ích trong vườn quả.

13









Hình 7: Sự quan trọng của các loại dịch hại được sắp xếp theo nông dân a) ở Đồng bắng sông
Cửu Long (ĐBSCL) và b) Các tỉnh miền Trung. Chú ý một sự gia tăng rõ nét trong nhận thức
của người nông dân về sự quan trọng của loài psyllid Châu Á trong sự lây truyền bệnh
greening (huanglongbin)

15.8
4.8
12.7
0.8
1.6
10.227
14.5
3
9.6
12.8
3.6
13.7
0.1
0.8
13.2
31.9
10.4
4
9.5
a) ĐBSCL 2006
Trước FFS

Sau FFS
Scales & Mealybugs
Leafminer
Mites
Branch borer
Stink bug
Psylla
Greening disease
Root rot
Scab
Others
b) Các tỉnh miền Trung 2006
Trước FFS Sau FFS
11.8
20.7
21.85.2
0
6.6
17
10.3
1.8
4.8
4.2
23.9
19.7
2.8
0.7
22.2
15.5
7.7

0.4
2.9
Scales & Mealybugs
Leafminer
Mites
Branch borer
Stink bug
Psylla
Greening disease
Root rot
Scab
Others

14
5.3 Việc xây dựng năng lực
Dự án này làm nâng cao năng lực của các cán bộ Chi cục BVTV một cách rõ rệt trong việc
tập huấn cho nông dân về kỹ thuật canh tác và quản lý sâu bệnh hại cây có múi. Qua khoá
học của dự án 209 cán bộ khuyến nông đã đảm nhận việc huấn luyện nhờ vào sự chỉ dẫn của
11 nhà khoa học chủ lực. Trình độ của các huấn luyện viên sau khi hoàn tất khoá học đã
được đánh giá và được trình bày ở bảng 1. Các huấn luyện viên đã tổ chức thành công 72
FFS ở 12 tỉnh của ĐBSCL và miền Trung Việt Nam (bảng 2). Trong năm 2006 đã có thêm 4
FFS được hoàn tất với nguồn kinh phí từ chính quyền địa phương. Sự tham gia tiếp cận đã
tạo nên một hệ thống cơ bản trong đó nhiều ý tưởng của các huấn luyện viên có thể được
xem xét, chấp nhận và gạ
n lọc trong cuộc hội chẩn với các nông dân để cung cấp những giải
pháp hữu hiệu cho nông dân.
Ngoài ra để cho việc huấn luyện TOT và FFS thật chính quy, dự án này đã tạo một loạt các
cơ hội để phát triển những mối liên kết giữa các tổ chức khuyến nông và học viện nghiên
cứu. Một mối liên kết rất chặt chẽ giữa Trung tâm BVTV phía Nam với Trường Đại học Cần
Thơ

và Viện Nghiên Cứu Cây Ăn quả miền Nam đã hình thành một đội ngũ các nhà khoa
học và nghiên cứu để cung cấp một chương trình FFS và huấn luyện có giá trị. Những thực
nghiệm tại FFS đã bao hàm những chiến lược quản lý bệnh greening trên cây có múi mà vẫn
còn đang phát triển như là một phần của các dự án CARD và ACIAR trong đó SOFRI là nơi
cung cấp các nhà nghiên cứu để làm việc với nông dân trong việc đánh giá những chiến lược
mới và cho phép các nông dân và huấn luyện viên phát triển những giải pháp đối với những
vấn đề của họ trong việc sử dụng những kỹ thuật mới nhất. Ngoài kết quả của những liên kết
này hai quyển sách hướng dẫn thực hành đồng ruộng cho nông dân và huấn luyện viên đã
được viết và xuất bản (xem sự thực hiện những điểm nổi bật).
Đội ngũ ng
ười Úc nhận thấy trong năm đầu của dự án này phần lớn những kỷ năng và kinh
nghiệm cần thiết trong việc quản lý các loại dịch hại trên cây có múi là sẳn có trong khả năng
của các viện nghiên cứu và trường Đại học ở Việt Nam, nhưng vì kinh phí đi lại cho các cơ
quan địa phương bị giới hạn nên việc thực hiện khả năng chuyên môn này bị bị hạn chế.
Để
khắc phục điều này Cơ quan phía Úc đã tài trợ phí đi lại cho TS. Nguyễn Thị Thu Cúc và TS.
Trần Văn Hai ở Trường Đại học Cần Thơ đi thăm các tỉnh miền Trung và tỉnh Nghệ An vào
năm 2005 và 2006 tạo cơ hội để các cán bộ Chi cục BVTV ở những vùng đó tiếp xúc với
những nhà khoa học ở miền Nam. Đó cũng là lần thăm viếng đầu tiên củ
a các nhà khoa học ở
trường Đại học Cần Thơ đến những vùng này.
Trong việc điều tra cơ bản vào tháng 6 năm 2005, kết quả cho thấy rằng phytophthora đã
xuất hiện ở hầu hết các vùng và tỉnh đến thăm và nó cũng là một vấn đề nguy hiểm như là
bệnh greening. Tuy nhiên, các nông dân nhìn chung điều không nhận ra vấn đề và chỉ một
phần nhỏ trong chương trinh huấn luyện TOT trong nă
m 2005 có liên quan đến
phytophthora. Nhóm thực hiện dự án ngay lập tức đã liên kết với dự án 052/04VIE “Quản lý
bệnh phytophthora trong nghề làm vườn ở Việt Nam”, và Ông Dương Minh từ Trường Đại
học Cần Thơ đã đảm nhiệm việc huấn luyện phần này trong 3 TOT ở năm 2006. Trong các
phần học này các huấn luyện viên đã được học về các vấn đề của Phytophthora trên cây có

múi và những phương pháp quản lý bệnh mộ
t cách hiệu quả. Phân ủ và Trichoderma đã được
sử dụng trong các thực nghiệm tại FFS và việc sử dụng phân ủ đã được nông dân ĐBSCL áp
dụng nhanh chóng. Việc gia tăng nhu cầu phân ủ nhiều đến nổi giá bán của nó cũng tăng một
cách rõ rệt. Việc sử dụng phân ủ gia tăng và sức khỏe của đất đã được cải thiện chính là một
trong những thành tựu của d
ự án này và là điều không được mong đợi đến lúc khởi đầu dự
án.
Doanh nghiệp tư nhân đã đóng một vai trò quan trọng trong dự án này và sự hợp tác giữa
Công ty bảo vệ thực vật Sài Gòn (nhà sản xuất dầu khoáng được sử dụng trong FFS) và nhân

15
viên chi cục BVTV trong chiến lược quản bá tiếp thị đã giới thiệu thành công đến các nông
trong việc sử dụng phun dầu khoáng. Kết quả là việc bán dầu cũng đã gia tăng từ 10 tấn lúc
mới bắt đầu dự án lên đến trên 60 tấn trước khi kết thúc dự án. Việc sử dụng dầu khoáng là
một trong những chiến lược chủ chốt trong việc quản lý dịch hạ
i đã sử dụng ở các nghiệm
thức IPM ở FFS. Lượng dầu bán gia tăng cho thấy các FFS đã thành công và giới thiệu nó
như là một kỹ thuật mới. Năng lực đáp ứng của công ty BVTV Sài Gòn đối với những nhu
cầu của nông dân tăng lên một cách có ý nghĩa nhờ vào việc học từ nông dân và các nhà
nghiên cứu và cũng đạt được nhờ vào sự hiểu biết về việc thay đổi nh
ững thái độ của các
nông dân trong quan hệ sử dụng thuốc trừ dịch hại. FFS đã làm gia tăng mối quan hệ giữa
các nông dân với nhau và với chính quyền địa phương. Sự hợp tác này giữa các nông dân với
sự tài trợ của các tổ chức nông dân và cơ quan phi chính phủ VacVina sẽ có một vai trò quan
trọng trong việc duy trì ảnh hưởng tác động mà dự án này đã thực sự tác động cho cộng đồng
nông trại. Những s
ự kết hợp giữa các nông dân, chính quyền địa phương các tổ chức nông
dân đã cải thiện khả năng của cộng đồng nông trại để đáp ứng những thách thức và cơ hội mà
sự gia nhập WTO của Việt Nam đã tạo ra.



Hình 8: TS Trần Văn Hai từ trường Đại Học Cần Thơ và Oleg Nicetic từ Đại học Tây
Sydney với các tham dự viên FFS ở Tỉnh Trà Vinh.



Hình 9: Ông Hồ Văn Chiến Giám đốc Trung tâm BVTV phía Nam và là trưởng dự án người
Việt Nam đang nghe các nông dân trình bày trong FFS.

16

















































Hình 11: Hai quyển sách “ Quản lý dịch hại tổng hợp trên cây có múi - Hướng dẫn

sinh thái” đã được xuất bản vào ngày 15/12/2005 và quyển sách “Hướng dẫn đồng
ruộng về sâu bệnh hại cây có múi” đã được xuất bản vào ngày 12/2/2007.
Hình 10: Một bộ gồm 12 áp phích gồm 8 áp phích về các loài dịch hại phổ biến và 4
áp phích về các loại bệnh hại chính trên cây có múi được in ấn trên chất liệu plastic
không thấm nước để làm phương tiện giảng dạ
y ở các FFS đã được in ấn và phân phối
cho các FFS được tổ chức cho năm 2006.


17
Bảng 1: Sự phân bố về giới và mức độ đạt được của các huấn luyện viên tham gia trong dự án .
2005 2006 Tổng cộng

Số tham dự viên Số tham dự viên Số tham dự viên
Tỉnh Nam Nữ
Điểm
số/100
Nam Nữ
Điểm
số/100
Nam Nữ
Tổng
cộng
Điểm
số/100
Nghe An 3 1 81.25 4 3 79.17 7 4 11 80.21
Quang
Nam
4 0 79.69 không không n/a 4 0 4 79.69
Kanh Hoa 4 3 89.85 4 3 77.86 8 6 14 83.86

Binh Dinh 5 0 88.81 không không n/a 5 0 5 88.81
Tổng miền
Trung
16 4 84.90 8 6 78.52 24 10 34 81.71
Tien Giang 19 4 86.99 11 7 79.38 30 11 41 83.19
Ben Tre 3 3 89.59 12 2 80.71 15 5 20 85.15
Vinh Long 8 6 94.42 9 4 83.00 17 10 27 88.71
Dong Thap 8 2 90.63 10 6 80.63 18 8 26 85.63
Tra Vinh 1 3 90.63 5 2 80.00 6 5 11 85.32
Can Tho 7 3 88.13 9 5 74.64 16 8 24 81.39
Hau Giang 7 1 81.26 8 3 81.43 15 4 19 81.35
Soc Trang 2 1 87.50 3 2 77.00 5 3 8 82.25
Tổng
ĐBSCL
55 23 88.81 67 31 79.97 122 54 176 84.39
Tổng cộng 71 27 86.86 75 37 79.24 146 64 210 83.05






18
Bảng 2: Sự phân bố về giới và số FFS đã được tổ chức thực hiện bởi các huấn luyện viên tham gia trong dự án

2005 2006 Tổng

Số tham dự viên Số tham dự viên Số tham dự viên
Tỉnh Số FFS Nam Nữ Số FFS Nam Nữ Số FFS Nam Nữ
Tổng

cộng
Nghe An 2 29 31 4 90 27 6 119 58 177
Quang Nam 1 25 5 0 0 0 1 25 5 30
Kanh Hoa 2 52 8 4 55 73 6 107 81 188
Binh Dinh 1 22 8 2 46 12 3 68 20 88
Tổng miền
Trung
6 128 52 10 191 112 16 319 164 483
Tien Giang 3 93 5 7 213 24 10 306 29 335
Ben Tre 3 85 5 5 138 12 8 223 17 240
Vinh Long 3 83 7 6 232 8 9 315 15 330
Dong Thap 2 53 7 6 178 2 8 231 9 240
Tra Vinh 1 25 5 3 83 7 4 108 12 120
Can Tho 3 80 10 7 203 7 10 283 17 300
Hau Giang 2 53 7 2 59 1 4 112 8 120
Soc Trang 1 25 5 2 58 2 3 83 7 90
Tổng
ĐBSCL
18 497 51 38 1164 63 56 1661 114 1775
CỘNG
24 625 103 48 1355 175 72 1980 278 2258




19
5.4 Ấn phẩm
Một phát hiện qua việc phỏng vấn đầu khóa cho thấy cách tốt nhất để thông tin tuyên truyền
đến nông dân qua phương tiện thông tin đại chúng là truyền hình với hơn 90 % nông dân có
một bộ truyền hình trong gia đình của họ. Mỗi tỉnh ở Việt Nam đều có một kênh truyền hình

địa phương và khoảng 70% của dân số sống ở các vùng nông thôn, mức độ có liên quan đến
nông nghiệp thì cao. Các phóng viên truyền hình đều được mờ
i đến tham dự trong các sự
kiện diễn ra của hoạt động dựa án như các cuộc họp, khai giảng và bế giảng các FFS. Số bài
phát trên TV về dự án đã được phát thanh suốt trong năm 2005 và 2006, và tất cả có 15 bài
phát trên kênh truyền hình quốc gia (VTV), Cần Thơ (CVTV), Vĩnh Long (VLTV) và Tiền
Giang (TGTV) đã báo cáo trong Báo cáo tiến độ (Milestone) số 4 (trang 6 bảng2) và báo cáo
tiến độ (Milestone) số 6 (trang 6 bảng 2).
5.5 Sự quản lý dự án
Nhóm quản lý dự án phía Việt Nam đã chứ
ng tỏ những kỷ năng quản lý dự án và tài xoay sở
rất xuất sắc. Ngoài việc phối hợp huấn luyện của 209 huấn luyện viên kết thúc tốt đẹp 72
FFS ở 12 tỉnh trong năm 2005 và 2006, ông Hồ Văn Chiến đã khởi xướng một loạt các hoạt
động bổ sung khác ngoài phạm vi gốc của dự án. Chẳng hạn như sự cung cấp kính lúp cho tất
cả các FFS, sắp xếp nhữ
ng chuyến tham quan học tập cho các nông dân ĐBSCL tham quan
vườn cây có múi ở các tỉnh bạn trong năm 2005, và tổ chức các hội thảo đánh giá hoạt động
dự án sau khi kết thúc FFS trong 2 năm 2005 và 2006. Kinh phí cho các hoạt động bổ sung
này là ngoài kinh phí hoạt động của dự án, và thể hiện mức độ trách nhiệm của những người
cùng quản lý dự án. Trong năm 2006 bốn FFS đã được tổ chức và hoàn tất với nguồn kinh
phí của chính quyền các tỉ
nh. Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam cũng đã đóng góp một
cách đáng kể trong chương trình tập huấn với 3 bài giảng cho chương trình TOT ở năm 2005
và 4 bài trong năm 2006. Điều này đã không được định hình trước trong văn kiện của dự án
và vì thế thời gian đóng góp của họ không được kể đến. Khả năng chuyên môn của các nhà
khoa học từ Viện Nghiên Cứu cây ăn quả mi
ền Nam có vai trò quan trọng trong việc huấn
luyện cho các huấn luyện viên. Cơ quan phía Úc đã tỏ ra hết sức tận lực đối với dự án và đã
làm cho các hoạt động huấn luyện được dễ dàng hơn nhờ vào việc ứng trước các chi phí cho
tổ chức thực hiện phía Việt Nam trước khi họ nhận được kinh phí từ tổ chức tài trợ. Cơ quan

phía Úc cũng đã cung cấp các chi phí bổ sung khác ngoài nguồ
n kinh phí từ dự án để tổ chức
cho các học viên FFS các chuyến tham quan học tập tại ĐBSCL, ban điều hành dự án người
Úc đã đầu tư thêm rất nhiều thời gian cho dự án. Thời gian đầu tư thêm mà ban điều hành dự
án phía Úc dành cho dự án chính là sự tài trợ đầy thiện ý từ Trường Đại Học Tây Sydney.
Công ty kinh doanh SK cũng đã đóng góp một cách gián tiếp cho dự án bằng việc tài trợ kinh
phí cho ông Oleg Nicetic đi thă
m các điểm của dự án CARD và tham dự các cuộc họp trong
thời gian ông ta làm việc ở Việt Nam.
Ban quản lý dự án CARD đã có một vai trò đắc lực trong việc quản lý dự án. Những nhắc
nhở của họ về các báo cáo định kỳ đã cải thiện được hiệu xuất công việc và nhờ thế đạt được
những đầu ra như mong đợi. Trong sự tham gia chính việc dựa vào nghiên cứu và giáo dục
mà nhóm điều hành dự án có thể phản ứng nhanh nhạy trước những yêu cầu từ thực tế đồng
ruộng của nông dân. Nếu như sự trợ cấp kinh phí phải được sử dụng một cách nghiêm khắc
như dự thảo kinh phí lúc ban đầu tức là chỉ dựa vào những dự trù của nhóm nghiên cứu, hay
đòi hỏi phải có thời gian cho việc làm thủ tục thay đổi kinh phí cho phép, những cần thiết
thực tế của các nông dân mà đã được xác định như là kết quả của việc tiếp cận tham gia, rồi
đến nghiên cứu và khuyến nông đã không thể đạt được trong phạm vi khung thời gian của dự
án. Ban quản lý dự án CARD đã hiểu được những điều cần thiết này và đã điều chỉnh lại một
phần nào giúp cho đạt được những kết quả.

20


















6. Báo cáo về những sản phẩm chéo
6.1 Môi trường
Trọng tâm của FFS là để gia tăng sự hiểu biết của nông dân về hệ sinh thái và tác động của
những ảnh hưởng của con người lên nó. Sự đánh giá chi tiết những tác động về kinh tế, xã
hội và môi trường đã được thực hiện với 53 nông dân ở 9 tỉnh đã cho thấy có những tác động
tích cực về môi trường. Ít nhất mỗi tỉnh cũng có một nông dân cho rằng có sự gia t
ăng về số
vi sinh vật có ích. Các nông dân từ các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Cần Thơ và Sóc Trăng đã
đề cập đến việc gia tăng số lượng cá cũng như họ có thể nuôi được cá trong các kênh mương
mà trước đây họ không thể nuôi được. Những sinh vật có ích khác mà được kể đến thường
xuyên là kiến vàng và ong mật. Sáu nông dân đã lưu ý về một sự cải thiện tình trạng sức khoẻ
củ
a các cây trồng của họ và 5 nông dân tì cho rằng sức khoẻ của chính họ đã được cải thiện.
Các khảo sát về kiến thức, thái độ và thực tiễn (KAP) trước và sau đã được thực hiện trong
năm 2005 và 2006 đã cho thấy có sự giảm tổng số lần phun thuốc trừ dịch hại sau khi họ
tham gia FFS. Sự giảm đáng kể nhất đã xảy ra ở Đồng Tháp nơi đó số
lần phun thuốc đã
được giảm từ khoảng 20 xuống còn 12-15 lần phun.




Hình 12: Hai áp phích về những kết quả và hình ảnh hoạt động của dự án tham gia
trong hội nghị về GAP trên cây ăn quả do CARD tổ chức tại Bình Thuận ngày 21-
22/7/2008.

21

Hình 13: Vườn cây có múi loại nhỏ 0,3-1 ha với mật độ trồng cây rất dày 2000-4000 cây/ha.
Vườn quả được bao bọc bởi mạng lưới kênh mương dày đặc. Sử dụng thuốc trừ dịch hại có
ảnh hưởng bất lợi cho các sinh vật sống ở nước. Sau khi học song FFS và việc giảm sử dụng
thuốc trừ dịch hại làm cho phong phú thành phần cá.

Hình 14: 4-6 lộc non chính và nhiều lộc non ở giữa làm cho việ
c kiểm soát psyllid rất khó
khăn. Để kiểm soát thành công ít nhất phải có 6-8 lần phun nhưng với việc thu hái quanh
năm ở nhiều vườn quả để được đồng ý làm theo so với việc từ chối không làm quả là thách
thức thật sự.
6.2 Những vấn đề về giới và xã hội
Trong việc huấn luyện các huấn luyện viên tổng cộng có 145 nam và 64 nữ đã được tập huấn.
Tỷ lệ
nam và nữ này phản ánh có sự cân bằng giới tính trong số các huấn luyện viên ở Chi
cục BVTV. Ở miền Trung, tỷ lệ các nông dân nam và nữ tham gia trong FFS tương tự như là
ở các huấn luyện viên. Tuy nhiên, ở ĐBSCL tỷ lệ nữ tham gia FFS thì thấp hơn. Điều này có
lẽ liên quan đến những vai trò mang tính truyền thống Á đông của phụ nữ ở đồng bằng đối
với nghề chăn nuôi.
Đánh giá chi tiết về
những tác động về kinh tế, xã hội và môi trường được thực hiện với 53
nông dân ở 9 tỉnh cho thấy rằng tác động về xã hội chủ yếu của việc huấn luyện FFS cho các
nông dân là gia tăng việc chia sẽ kiến thức và các kinh nghiệm giữa các nông dân tham dự
FFS, xóm giềng, các thành viên câu lạc bộ nông dân và những người trong gia đình. Việc
chia sẽ kiến thức thường xuất hiện gắn kết với việc gia t

ăng các hoạt động xã hội đã được
báo cáo có liên quan đến các việc như uống cà phê, nhậu. Sự tham dự ở các FFS cũng giữ
một vai trò quan trọng trong việc gia tăng những hoạt động của câu lạc bộ những người làm
vườn bao gồm việc trồng cây cũng như việc thành lập những hợp tác xã nông dân. Kết quả

22
phỏng vấn cũng cho thấy rằng việc tham dự FFS cũng là một cơ hội để giúp sự truyền đạt
kinh nghiệm quản lý vườn từ cha đến con trai, chồng đến vợ và cha đến con gái.
7. Các kết quả về sự thực hiện và khả năng duy trì
7.1 Những điều đạt được và những trở ngại
Quá trình đăng ký thuốc trừ dịch hại, sự thích hợp của những thuốc trừ dịch hại hiện tại đã
được đăng ký cho việc sử dụng trên cây có múi và những thủ tục bắt buộc có liên quan cần
được xem xét lại một cách hoàn chỉnh. Không có sự khởi đầu của chính phủ như là giới thiệu
và khuyến khích sử d
ụng các loại thuốc trừ dịch hại thế hệ mới, ít gây tác động xấu đến môi
trường, những khích lệ về tài chính đối với các công ty thuốc BVTV cho việc đăng ký những
loại thuốc này và khuyến khích các nông dân tuân thủ theo sự hướng dẫn, thì việc sử dụng
những loại thuốc trừ dịch hại thế hệ cũ sẽ tiếp tục chiếm ưu thế. Từ kết qu
ả của FFS cho thấy
số lượng và chất lượng sản xuất quả cây có múi đã gia tăng. Bởi vì kết quả của các chiến
lược IPM đã được chấp nhận số lần phun thuốc trừ dịch hại đã giảm và thay đổi từ những
loại thuốc trừ dịch hại phổ tác động rộng theo hướng sử dụng các loại thuốc trừ dịch hại th
ế
hệ mới với mức độ tác động đến môi trường thấp hơn đã được khởi xướng. Tuy nhiên để
phát huy những thay đổi này sự cải thiện công nghệ sau thu hoạch là rất cần thiết. Ngoài ra
một kế hoach cấp giấy chứng nhận để phân biệt quả cam quýt an toàn, được sản xuất theo
hướng ít tác động cho môi trường hơn cũng nên được thiết lập.
7.2 Những sự ch
ọn lựa
Cần thuyết phục Bộ NN và PTNT xem xét lại toàn bộ những thuốc trừ dịch hại đã được đăng

ký cho việc sử dụng hiện tại trên cây có múi. Những hợp tác xã mới được thành lập với sự
nâng đở của những cơ quan phát triển nông thôn thuộc các tỉnh nên tìm kiếm con đường để
đảm bảo sự tài trợ về tài chính với các điều kiện tín dụng dễ dàng h
ơn để phát triển công
nghệ sau thu họach được tốt hơn. Cần thiết lập một kế hoạch cấp giấy chứng nhận của Việt
Nam dựa vào VietGAP để cho việc kiểm tra và cấp giấy chứng nhận cho các hợp tác xã và
các nhóm nhông dân ít tốn kém hơn. Một cuộc thảo luận ngắn ở Hà Nội để thông tin và vận
động những văn phòng chính phủ cấp cao về quan điểm này sẽ là s
ự đóng góp có giá trị trong
việc duy trì và mở rộng những tác động mở đầu của dự án.
7.3 Khả năng duy trì
Sự thành lập các hợp tác xã sau khi kết thúc các FFS là một bước mở đầu rất quan trọng
trong việc duy trì năng lực đã được gia tăng trong các cộng đồng nông trại để cải thiện ngành
trồng cây có múi. Tuy nhiên, để duy trì những thuận lợi đã tạo được từ FFS, các nhóm nông
trại cần đượ
c tài trợ về tài chính với những điều kiện về tín dụng dễ dàng hơn để họ có thể
đầu tư nhiều hơn trong khâu sau thu hoạch giúp họ có điều kiện tiếp cận được với thị trường.
Mạng lưới huấn luyện viên từ kết quả của dự án này đã được phát triển cần tiếp tục có kinh
phí để tổ chức thực hiện
được nhiều FFS hơn. Chính quyền các tỉnh đã tỏ ra rất quan tâm và
đã tài trợ kinh phí cho việc mở thêm các FFS trong thời gian tiến hành dự án này và điều này
sẽ được tiếp tục sau khi dự án kết thúc. Tuy nhiên khả năng về tài chính của các tỉnh bị giới
hạn và sự mong đợi trọn vẹn vào kinh phí của chính phủ vốn đã không thể duy trì được. Chi
phí cho mỗi tham dự viên FFS được ước tính khoảng 70,62 đô la Úc, ước tính khoảng 1,60%
trung bình lợi nhuận thực tế cho mỗi ha. Nếu dựa vào những ước tính này chi phí của FFS sẽ
được đền bù chỉ trong một mùa do việc giảm chi phí đầu vào và gia tăng năng suất. Chi phí
cho FFS trên cây có múi qua báo cáo cho thấy nó tương tự hoặc cao hơn một chút ít cho chi
phí FFS trên lúa, nhưng ngược lại tiền lãi cho cây có múi thì cao gấp 4-5 lần cho trồng lúa.

23

Điều này cho thấy chi phí đầu tư vào FFS thì thấp nhưng lợi nhuận thì rất hấp dẫn, khả năng
thu phí của các nông dân để đóng góp cho chi phí FFS trong tương lai nên được xem xét đến,
đặc biệt là đối với các nông dân là thành viên của câu lạc bộ cây có múi hay các hợp tác xã.
8. Những bước quyết định kế tiếp
Trong cuộc hội đàm với các cơ quan thuộc bộ NN và PTNT nhóm điều hành dự án đã nhận
thấy rằng cần thiết phải can thiệp nhiều hơn nữa cho ngành sản xuất cây có múi tại Việt Nam
vốn vẫn còn rất yếu so với những tiêu chuẩn thực hành trên thế giới đồng thời tạo những điều
kiện thuận lợi cho thị trường xuất khẩu. Nhữ
ng bước quyết định kế tiếp trong quá trình đang
diễn ra này là sự giới thiệu của GAP và việc tìm ra những giải pháp cho công nghệ sau thu
hoạch của cây có múi thì nên thích đáng trước những thực tế xã hội hoá về kinh tế của Việt
Nam.
9. Kết luận
Dự án này đã làm nâng cao năng lực cho các đối tác chính một cách đáng kể bao gồm các
nông dân, các cán bộ chuyển giao của Cục BVTV, các nhà khoa học và nghiên cứu từ các
viện, trường đại học, các cơ quan chính quyền địa phương các tỉnh, các nhà kinh doanh thuốc
BVTV đáp ứng được trước những thách thức trong tình hình sản xuất cây có múi đang bị
dịch bệnh greening và trong việc thay đổi các điều kiện về thị trường khi Việt Nam là thành
viên củ
a WTO. Năng lực được nâng cao đã đạt được nhờ vào việc tham gia huấn luyện của
209 cán bộ khuyến nông mà đã được huấn luyện bởi 11 nhà khoa học chủ chốt. Các huấn
luyện viên đã thực hiện thành công 72 FFS tại 12 tỉnh ở Đồng Bằng Sông Cửu Long và các
tỉnh miền Trung Việt Nam làm gia tăng kiến thức và sự hiểu biết về sinh thái vườn, IPM,
dinh dưỡng trên cây có múi và trong đất cho 2245 nông dân trồng cầy có múi. Sự
đánh giá về
tính hiệu quả của FFS đã cho thấy các nông dân đã quan sát thấy được nhiều loại sinh vật có
ích trong vườn họ hơn; họ đã chấp nhận các loại thuốc trừ dịch hại thích hợp hơn trong IPM,
giảm các chi phí đầu vào, gia tăng việc chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm dẫn đến sự thành
lập các nên tổ hợp tác. Mối liên kết và sự hiểu biết giữa các người thụ
hưởng đã thiết lập

trong thời gian làm dự án ngày càng chặt chẽ và vẫn còn tiếp diễn sau khi dự án kết thúc sẽ
giữ một vai trò quan trọng trong việc duy trì những tác động của dự án sau khi dự án kết
thúc.


















Hình 15: Nông dân tham gia FFS tặng quà cho những người thực hiện dự án phía Úc - Việt
Nam và đại diện nhà tài trợ - Công ty Bayer Việt Nam vào ngày tổng kết FFS và hội thảo
kiểm tra các hoạt động trong năm thứ hai của dự án.

24










×