Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Sự thống nhất ý chí trong giao kết hợp đồng và thực tiễn tại tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
---***---

NGUYỄN VĂN NGỌC

SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ
TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
VÀ THỰC TIỄN TẠI TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2022

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
---***---

NGUYỄN VĂN NGỌC

SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ
TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
VÀ THỰC TIỄN TẠI TỈNH ĐẮK LẮK
Chuyên ngành:

Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự (định hƣớng ứng dụng)

Mã Số:



838 0101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS Trần Kiên

HÀ NỘI – 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời
cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Ngọc


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy, cô đã nhiệt tình giảng dạy trong suốt
thời gian theo học cao học cũng như những năm học cử nhân, cùng gia đình
và bạn bè đã ln động viên, giúp đỡ để tơi hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tơi xin được bảy tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Tiến sĩ
Trần Kiên - người đã giúp đỡ tận tình trong suốt q trình tơi thực hiện Luận
văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Văn Ngọc


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS:

Bộ luật Dân sự

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

HNGĐ:

Hơn nhân gia đình

UBND:

Ủy ban nhân dân

UNIDROIT:

Viện quốc tế về nhất thể hóa pháp luật tư

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ TRONG
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ................................................................................ 5
1.1. Lý luận chung về sự thống nhất ý chí....................................................... 5
1.2. Nội dung và hình thức pháp lý của thống nhất ý chí.............................. 19
1.3. Hiệu lực của thống nhất ý chí giao kết hợp đồng ................................... 29
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỐNG NHẤT Ý CHÍ
TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ THỰC TIỄN TẠI TỈNH ĐẮK LẮK.. 40
2.1. Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh thống nhất ý chí trong giao kết
hợp đồng …………………………………………………………………….40
2.2. Thực trạng các quy định pháp luật về thống nhất ý chí trong giao kết
hợp đồng ……………………………………………………………………44
2.3. Thực tiễn xét xử tại các tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk .......................... 53
2.4. Những bất cập cần rút kinh nghiệm của pháp luật về thống nhất ý chí
trong giao kết hợp đồng .................................................................................. 61
CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ TRONG GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK ............................................... 68
3.1. Kiến nghị về hoàn thiện các qui định của pháp luật............................... 68
3.2. Kiến nghị thực thi pháp luật về sự thống nhất ý chí trong giao kết
hợp đồng ........................................................................................................ 69
3.3. Sửa đổi, bổ sung một số quy định trong các luật chuyên ngành khác bảo
đảm sự thống nhất, phù hợp với quy định của bộ luật dân sự trong việc bảo vệ
thống nhất ý chí trong giao kết hợp đồng ....................................................... 72
3.4. Các kiến nghị khác ................................................................................. 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79



MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài

Hợp đồng là một chế định pháp luật quan trọng nằm ở trung tâm của
luật tư, đã có bề dày lịch sử từ sự xuất hiện giao lưu dân sự, và hiện luôn là
nền tảng của giao lưu dân sự.
Trong hợp đồng, sự thống nhất ý chí là yếu tố cơ bản và khơng thể
thiếu của hợp đồng. Phải có sự tồn tại của một sự thỏa thuận hợp pháp thì mới
có hợp đồng. Nghiên cứu về yếu tố thỏa thuận bao giờ cũng là cần thiết để
hiểu đúng bản chất của hợp đồng.
Lý luận về luật hợp đồng cịn nhiều sai sót về kỹ thuật pháp lý, cũng
như tư tưởng pháp lý liên quan tới việc điều chỉnh hợp đồng trong các văn
bản qui phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay, nhất là trong BLDS năm 2015.
BLDS năm 2015 thay thế BLDS năm 2005 đã góp phần giải quyết được phần
nào những bất cập và tản mạn của các quy định pháp luật hợp đồng nằm rải
rác trong rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật. Pháp luật hợp đồng hiện
nay của Việt Nam đã dần dần trở thành một hệ thống, và ngày càng được làm
tương thích với pháp luật thế giới và là một phần quan trọng của pháp luật
quốc gia trong bối cảnh xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, thực tiễn giao kết hợp đồng tại các vùng đồng bào thiểu số
ở Việt Nam thời gian qua cho thấy: hợp đồng được giao kết hầu hết thơng qua
thói quen, mà khơng có độ thuần thục về kỹ năng pháp lý. Trong khi đó, xu
hướng hội nhập đang mở ra rất nhiều cơ hội và cả thách thức cho người dân
Việt Nam. Những hợp đồng được giao kết với những người ở vùng miền khác
và người nước ngoài ngày càng gia tăng. Vì vậy sự khơng hiểu biết trong một

chừng mực nào đó về pháp luật hợp đồng có thể dẫn đến những hậu quả đáng
tiếc về kinh tế, về văn hóa cũng như về xã hội.
1


Từ những lý do trên, học viên lựa chọn đề tài “Sự thống nhất ý chí
trong giao kết hợp đồng và thực tiễn tại tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn
thạc sĩ luật học. Qua đó có được cái nhìn tổng quan về vấn đề, thấy được
những điểm tiến bộ và thiếu sót của pháp luật Việt Nam cũng như thực tiễn
hợp đồng ở Đắc Lắc để tìm hướng khắc phục, góp phần vào q trình thống
nhất hóa và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng của Việt Nam hiện nay.
2.

Tình hình nghiên cứu

Pháp luật hợp đồng có vai trị quan trọng trong kinh tế hàng hóa, kinh
tế thị trường. Các quy định về hợp đồng luôn được giới luật học, các cá nhân,
thương nhân quan tâm tìm hiểu. Nhiều cơng trình nghiên cứu trong và ngồi
nước đã được công bố. Trong phạm vi nghiên cứu luật hợp đồng ở Việt Nam
hiện nay có các cơng trình nổi bật sau: (1) “Giáo trình luật hợp đồng phần
chung” (Dùng cho đào tạo sau đại học) của PGS. TS. Ngô Huy Cương năm
2013 [5]; (2) “Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của TS.
Nguyễn Ngọc Khánh năm 2007 [18]; (3) “Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án
và bình luận bản án” (Sách chuyên khảo) của PGS.TS. Đỗ Văn Đại năm 2008
[9]; và (4) “Bình luận các hợp đồng thông dụng trong luật dân sự Việt Nam”
của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Điện năm 2001 [10]. Đây là các cơng trình có ý
nghĩa rất lớn về lý luận và thực tiễn. Ngồi ra cịn có một số sách chuyên
khảo, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu một số vấn đề liên quan
tới đề tài Luận văn này như: Pháp luật về hợp đồng của Tiến Sĩ Nguyễn Mạnh
Bách năm 1995 [2]; Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam của

PGS.TS Dương Đăng Huệ năm 2002 [16]; Chế độ hợp đồng kinh tế - Tồn tại
hay không tồn tại của GS.TS Lê Hồng Hạnh năm 2005 [13]; Điều kiện
thương mại chung và nguyên tắc tự do khế ước của PGS.TS Nguyễn Như
Phát năm 2003 [28]; Quyền tự do giao kết hợp đồng trong hoạt động thương
mại ở Việt Nam, luận án Tiễn sĩ luật học năm 2006 của Phạm Hoàng Giang
[11]; Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp
2


đồng Việt Nam của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa năm 2003 [23]; Một số vấn đề
liên quan đến việc sửa đổi pháp luật Việt Nam về hợp đồng năm 2004 [15] và
Hồn thiện pháp luật về bảo đảm nhìn từ thống nhất ý chí trong giao kết hợp
đồng của Tiến sĩ Nguyễn Am Hiểu năm 2004 [14]; Dự thảo BLDS sửa đổi và
vấn đề cải thiện pháp luật hợp đồng ở Việt Nam của PGS.TS Phạm Hữu Nghị
năm 2005 [25]; Luận án Tiến sĩ hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả của hợp
đồng kinh tế vô hiệu của Lê Thị Bích Thọ năm 2002 [35]; Đổi mới sự điều
chỉnh pháp luật về hợp đồng trong BLDS năm 2005, luận văn Thạc sỹ luật
học năm 2006 của Trần Hải Hưng.[17]
Tuy nhiên, do nội dung nghiên cứu của các cơng trình đặt ra khác nhau
nên các tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu một số khía cạnh cụ thể của chế định
hợp đồng và chưa nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể về nội quyền tự do
giao kết hợp đồng. Dù vậy, các cơng trình nói trên là những tài liệu quan
trọng trong quá trình tác giả tham khảo, phục vụ việc nghiên cứu của mình.
3.

Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: là những vấn đề lý luận chung về hợp đồng và
thống nhất ý chí, pháp luật dân sự Việt Nam về thống nhất ý chí giao kết hợp
đồng; thực tiễn áp dụng pháp luật về thống nhất ý chí giao kết hợp đồng dân

sự ở Việt Nam và những kiến nghị hoàn thiện.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu về những vấn đề lý luận và
thực tiễn thống nhất ý chí giao kết hợp đồng dân sự, bao gồm những nội dung
liên quan như: Khái niệm; điều kiện; các khía cạnh cũng như những trường
hợp ngoại lệ của thống nhất ý chí giao kết hợp đồng dân sự, so sánh với pháp
luật của một số nước quy định về vấn đề này, trên cơ sở đó đưa ra những kiến
nghị và hoàn thiện chế định về tự do giao kết hợp đồng ở Việt Nam.
Luận văn chỉ nghiên cứu các vấn đề chung của sự thống nhất ý chí giao
kết hợp đồng nói chung, khơng đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề của luật
chuyên ngành liên quan tới hợp đồng.
3


4.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: hồn thiện pháp luật về sự thống nhất ý chí
trong giao kết hợp đồng từ thực tiễn giải quyết tranh chấp tại tỉnh Đắk Lắk.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất, tìm hiểu các vấn đề lý luận về thống nhất ý chí giao kết hợp
đồng và các thành tố tạo nên mà trong đó có đề nghị giao kết hợp đồng, và
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và một số vấn đề liên quan;
Thứ hai, phân tích thực trạng các qui định của pháp luật về đề tài
nghiên cứu cảu luận văn và một vài vấn đề liên quan tới thực tiễn trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk:
Thứ ba, kiến nghị hoàn thiện các quy định và áp dụng pháp luật bảo
đảm an toàn pháp lý liên quan tới thống nhất ý chí trong giao kết giao kết hợp
đồng.
5.


Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp được sử
dụng trong Luận văn bao gồm: phương pháp phân tích văn bản, phương pháp
phân tích tài liệu, phương pháp phân tích vụ việc, phương pháp so sánh,
phương pháp lịch sử.
6.

Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
nghiên cứu chính của Luận văn có kết cấu bao gồm 03 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về sự thống nhất ý chí trong giao kết hợp đồng
Chương 2. Thực trạng pháp luật về thống nhất ý chí trong giao kết hợp
đồng và thực tiễn tại tỉnh Đắk Lắk
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật và kiến nghị thực thi pháp luật về sự
thống nhất ý chí trong giao kết hợp đồng từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk

4


CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ
TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
1.1. Lý luận chung về sự thống nhất ý chí
1.1.1. Khái niệm ý chí
Ý chí là mặt năng động của ý thức, ý chí là hình thức tâm lý điều chỉnh
hành vi tích cực nhất của con người, là năng lực tâm lý cho phép con người
vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để thực hiện đến cùng mục đích đã xác định.

“Sở dĩ như vậy là vì ý chí kết hợp được trong mình cả mặt năng động của trí
tuệ lẫn mặt năng động của tình cảm đạo đức, ý chí - do đó là mặt hoạt động
của trí tuệ và tình cảm đạo đức”. Năng lực kiểm soát, điều chỉnh hành vi một
cách có ý thức nảy sinh trong hoạt động lao động. Ý chí là mặt đặc trưng của
tâm lý người, bởi vì con vật chỉ thích ứng một cách thụ động với thiên nhiên,
còn con người bằng lao động - một loại hoạt động có ý thức - đã chinh phục
và cải biến thiên nhiên. ý chí con người được hình thành trong quá trình lao
động. Ngay cả hoạt động lao động đơn giản nhất (ví dụ, việc săn bắt nguyên
thuỷ...) cũng địi hỏi con người phải có phẩm chất ý chí nhất định, nó hình
thành nên ở con người những phẩm chất ý chí nhất định.
Ý chí của con người được hình thành và biến đổi tuỳ theo những điều
kiện xã hội - lịch sử, tuỳ theo những điều kiện vật chất của đời sống xã hội.
Tính chất của những mục đích và những thúc đẩy đối với hành động của con
người được quyết định bởi thính họ đại diện cho quyền lợi của giai cấp nào.
Xu hướng của ý chí khác nhau trong những thời đại khác nhau và ở những đại
diện của các giai cấp khác nhau.
Trong xã hội XHCN, những quan hệ được xây dựng trên nguyên tắc
giúp đỡ lẫn nhau, hợp tác với nhau. ở đây có sự phối hợp hài hồ giữa mục
đích của cá nhân và mục đích của xã hội.

5


Trong khi ý thức được mối liên hệ gắn bó mình với tập thể, cá nhân
phục từng hoạt động chung của xã hội, của tập thể, bắt quyền lợi của cá nhân
phục tùng những quyền lợi của dân tộc, vì vậy khơng thể đặt ra cho mình
những mục đích đối lập với những mục đích của tập thể.
1.1.2. Sự thống nhất ý chí: định nghĩa và mơ hình
Định nghĩa
Thống nhất ý chí (cịn được gọi là thỏa thuận): là sự gặp gỡ của hai

hay nhiều ý chí được các bên thống nhất thể hiện ra bên ngồi đầu óc của họ.
Khi thống nhất ý chí là ý chí của các bên kết hợp với nhau để đạt được mục
đích là ràng buộc nhau vào trong một quan hệ pháp luật, cụ thể là hợp đồng.
Vì vậy thống nhất ý chí (thỏa thuận) là yếu tố cơ bản của hợp đồng. Khơng có
hợp đồng một khi các bên khơng thống nhất được ý chí (thỏa thuận) giữa các
bên. Bởi lẽ, trước tiên hợp đồng phải là một thỏa thuận có nghĩa là hợp đồng
phải chứa đựng yếu tố tự nguyện khi giao kết nó phải có sự trùng hợp ý chí
của các bên. Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tn theo các ngun tắc tự
nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự do giao kết
hợp đồng, nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Yếu tố thỏa
thuận đã bao hàm trong nó yếu tố tự nguyện, tự định đoạt và sự thống nhất về
mặt ý chí. Đây là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự đặc trưng của hợp đồng so
với các giao dịch dân sự khác, đây cũng là yếu tố làm nên bản chất của Luật
dân sự so với các ngành luật khác.
Lấy ví dụ: A muốn di chuyển ra Hà Nội gặp B sẵn sàng chuyên chở
hành khách đi theo ý muốn của họ; hai ý chí mong muốn này gặp gỡ nhau thể
hiện ở việc hai bên ràng buộc nhau vào một quan hệ hợp đồng vận chuyển,
theo đó B có nghĩa vụ vận chuyên chở A ra Hà Nội, còn A phải trả cho B một
khoản tiền theo thỏa thuận để bù đắp công sức và chi phí cho B. Cũng như
vậy, C muốn bán ô tô để mua xe ô tô mới, còn D thì muốn mua chiếc ơ tơ cũ
của C; sau thương thảo ý chí của hai bên gặp gỡ nhau tạo thành quan hệ hợp
6


đồng, theo đó C phải chuyển giao quyền sở hữu chiếc ơ tơ cho D, cịn D thì
phải trả cho C một khoản tiền là giá bán xe ô tô đó. Qua đây chúng ta thấy,
nếu khơng cso sự thống nhất ý chí (thỏa thuận) thì hai bên A và B cũng như C
và D không bị ràng buộc vào quan hệ hợp đồng mà có quyền và nghĩa vụ
tương ứng.
Mơ hình sự thống nhất ý chí

Ý chí là một vấn đề tâm lý bên trong con người rất khó biết nếu nó
khơng được chủ thể thể hiện ra bên ngồi. Vì vậy trong lĩnh vực luật hình sự,
khơng định tội được với âm mưu nếu khơng có biểu hiện nào để có thể biết
được âm mưu đó. Trong lĩnh vực luật dân sự, việc hiểu để thực hiện hợp đồng
hoặc giải quyết tranh chấp hợp đồng nhiều khi gặp phải khó khăn do thể hiện
khơng rõ ràng của ngơn từ, câu cú hoặc mưu đồ riêng gây nên. Vì vậy sự
thống nhất ý chí cần phải thận trọng vì dễ gây tranh cãi nhất.
Thỏa thuận có nghĩ là đi tới sự đồng ý sau khi cân nhắc, thảo luận,
được thể hiện ở chỗ khơng có một ý kiến đối lập của bất cứ một bộ phận nào
trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện thơng
qua một q trình mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phải được
xem xét và dung hoà được tất cả các tranh chấp; là việc các bên (cá nhân hay
tổ chức) có ý định chung tự nguyện cùng nhau thực hiện những nghĩa vụ mà
họ đã cùng nhau chấp nhận vì lợi ích của các bên. Sự đồng tình tự nguyện này
có thể chỉ được tuyên bố miệng và được gọi là thoả thuận quân tử (hợp đồng
quân tử) hay được viết thành văn bản gọi là hợp đồng viết hay hợp đồng thành
văn. Tuỳ theo từng trường hợp được gọi là hợp đồng hay hiệp định.
Thống nhất ý chí được tạo thành bởi hai thành tố: (i) thành tố đề nghị
và (ii) thành tố chấp nhận. Chấp nhận này là chấp nhận đề nghị đã đưa đến
trước đó để mong được chấp nhận. Luật hợp đồng nào cũng nói tới hai thành
tố này. Nhưng thống nhất ý chí chỉ được coi là hợp đồng nếu đã đạt được sự
thống nhất một số điều khoản bắt buộc. Muốn có những điều khoản bắt buộc
7


này thống nhất ý chí phải hướng tới những đối tượng nhất định. Điều khoản
quan trọng nhất mà các bên chủ thể cần thống nhất bý chí trước hết phải là đối
tượng của hợp đồng, lấy ví dụ như tài sản cần phải chuyển giao (xe, nhà, giày
dép, quần áo..v..vv..) hoặc công việc phải làm (xây dựng, vận chuyển, bảo
hiểm..v..vv..) hoặc cơng việc khơng được làm (khơng tiết lộ bí mật của bên

đối tác, không cạnh tranh..vv.v..). Sau khi thống nhất đối tượng mới thống
nhất các điều khoản bắt buộc và các điều khoản khác liên quan.
Biểu hiện (hình thức) của thống nhất ý chí: thống nhất ý chí có thể
được tiến hành trực tiếp giữa các bên như gặp mặt nhau trao đổi ý chí, điện
thoại trao đổi với nhau,...vv. hoặc có thể được tiến hành gián tiếp như gửi thư
qua bưu điện cho nhau, fax gửi cho nhau…vv. Thống nhất ý chí nói như thế ở
đây là các bên cùng với nhau thể hiện và trao đổi ý chí giữa các bên với nhau.
Thống nhất ý chí khơng cần trực tiếp giữa các bên như trên đã nói mà
thống nhất ý chí có thể ngầm định mà khi giải quyết tranh chấp phải xét theo
hoàn cảnh mới giải thích được. Vì vậy, hồn cảnh, địa điểm và thời gian, các
bên tham gia,… tất cả phải được xem xét gắn liền với thỏa thuận của các bên
giao kết. Vấn đề này phải được áp dụng khi xem xét hiệu lực pháp luật của
thỏa thuận. Lấy ví dụ một thỏa thuận được làm ra trong hoàn cảnh cấp bách,
khẩn cấp, một trong các bên bị đe dọa về tinh thần…vv. thì khơng thể được
xem là một thỏa thuận hợp pháp và có hiệu lực pháp luật được thi hành.
Đối tượng của thống nhất ý chí: bao gồm tài sản hoặc hành vi (làm
hoặc khơng làm). Tài sản có thể là động sản hoặc bất động sản hoặc tài sản
hữu hình hoặc tài sản vơ hình. Hành vi có thể là công việc phải làm hoặc công
việc không được thực hiện… với 03 điều kiện là: Một, tài sản hoặc hành vi
phải hợp pháp; Hai, tài sản hoặc hành vi phải được xác định cụ thể; Ba, tài sản
hoặc hành vi phải đáp ứng được một lợi ích vật chất hoặc tinh thần cho chủ
thể thống nhất ý chí.

8


Đối tượng của thống nhất ý chí sẽ được tiếp theo bằng các nội dung của
thống nhất ý chí. Lấy ví dụ: nếu đối tượng của thống nhất ý chí là tài sản được
giáo thì nội dung của hợp đồng phải qui định về giá cả hoặc tài sản trao, chất
lượng, số lượng…, nếu đối tượng là một công việc phải làm thì nội dung của

hợp đồng phải qui định phương thức tiến hành, thời gian tiến hành, giá cả…,
chưa kể tới những nội dung mà loại hợp đồng nào cũng phải có như giải quyết
tranh chấp…
Phân biệt thống nhất ý chí với hợp đồng: thống nhất ý chí (thỏa thuận)
và hợp đồng là hai khái niệm khác nhau. Hợp đồng nào cũng là một sự thống
nhất ý chí (thỏa thuận) nhưng ngược lại thì lại khơng hồn tồn đúng vì khơng
phải sự thống nhất ý chí (thỏa thuận) nào cũng là hợp đồng. BLDS năm 2015
(Điều 385) định nghĩa là “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, nghĩa là sự thỏa thuận
(thống nhất ý chí) phải xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân
sự thì mới là hợp đồng. Những sự thống nhất ý chí (thỏa thuận) như thống
nhất ý chí cùng nhau ra cơng viên chơi hoặc thống nhất ý chí cùng nhau ngồi
bàn nhậu nhân dự một đám cưới hỏi thì khơng phải là hợp đồng. Tuy nhiên
cũng có sự thống nhất ý chí (thỏa thuận) có mục đích thật sự tạo nên một quan
hệ hợp đồng nhưng khơng thể tạo nên bởi nó vi phạm các điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng bị tịa án tun vơ hiệu.
Tóm lại: Thống nhất ý chí hoặc thỏa thuận là một khái niệm. Nhưng
hợp đồng và thống nhất ý chí là hai khái niệm khác nhau. Tuy nhiên hợp đồng
nào cũng là sự thống nhất ý chí nhưng phải nhằm mục đích tạo ra một quan hệ
pháp lý ràng buộc nhau. Khái niệm thống nhất ý chí rộng hơn khái niệm hợp
đồng.
Pháp luật địi hỏi thống nhất ý chí trong hợp đồng phải hợp pháp, nghĩa
là các bên thống nhất ý chí phải cùng nhau đáp ứng được các qui định của
pháp luật. Vì vậy phải biết rằng bản chất pháp lý của hợp đồng là tự do, tự
9


nguyện thỏa thuận, giao kết của các bên chủ thể. Các bên chủ thể ràng buộc
nhau và nếu các bên không thực hiện đúng các điều khoản về nội dung mà
mình đã giao kết thì sẽ phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi, có thể bị cưỡng chế

buộc thực hiện theo quy định của pháp luật. Hiểu bản chất của hợp đồng như
vậy ta sẽ thấy hết ý nghĩa và vai trị của thống nhất ý chí làm nên hợp đồng và
thấy hết mục đích pháp lý của thống nhất ý chí.
Về lý thuyết, thống nhất ý chí làm nên hợp đồng có điều kiện để gọi là
thống nhất ý chí như sau:
(1) Thống nhất ý chí nội tại bên trong (ý chí bên trong và thể hiện ra
bên ngồi của các chủ thể với nhau);
(2) Ý chí của các bên chủ thể phải nhau gặp gỡ với nhau.
Nội dung của thống nhất ý chí khơng phải là ý chí đích thực ở bên trong
của chủ thể có thể thì khơng thể tạo thành hợp đồng, dẫn đến pháp luật không
thừa nhận giá trị hiệu lực của hợp đồng. Vì vậy pháp luật phải đặt ra các điều
kiện để cho hợp đồng có hiệu lực về phần ý chí như khơng được nhầm lẫn,
lừa dối và đe dọa.
Ví dụ: Điều 398, BLDS năm 2015 của Việt Nam qui định về đối tượng
của hợp đồng và các điều khoản của hợp đồng gọi là nội dung của hợp đồng
mà các bên chủ thể phải thống nhất dưới đây:
“Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây:
a) Đối tượng của hợp đồng;
b) Số lượng, chất lượng;
c) Giá, phương thức thanh toán;
d) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên;
e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
g) Phương thức giải quyết tranh chấp”.

10


Qui định này là qui định chung cho các loại hợp đồng từ hợp đồng mua
bán đến hợp đồng dịch vụ, nên tùy từng loại hợp đồng mà xem xét. Về đối

tượng của hợp đồng, Điều 214, BLDS của Iran qui định cụ thể và tách riêng
hơn, rất dễ cho việc áp dụng luật: “Đối tượng của giao dịch nhất thiết phải là
tài sản hoặc hành vi mà hai bên đồng ý giao hoặc thực hiện”; Điều 215 qui
định tiếp “Đối tượng của hợp đồng nhất thiết có khả năng được sở hữu và
nhất thiết bao gồm lợi ích hợp lý và chính đáng”; và Điều 216 qui định là rõ
“Đối tượng của giao dịch không nên mơ hồ trừ trường hợp đặc biệt khi nhận
thức chung về vấn đề này là đầy đủ.”
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc bảo đảm thống nhất ý chí trong giao kết hợp
đồng
Trong nền kinh tế thị trường, với những đặc trưng và quy luật của nó,
các chủ thể ở vào vị thế bình đẳng, có quyền tự do sở hữu, quyền tự do kinh
doanh, tự do hợp đồng. Hợp đồng có bản chất là sự thỏa thuận giữa các chủ
thể, đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành của nền kinh tế, là hình thức
pháp lý của các giao dịch dân sự, thương mại.
Về mặt kinh tế và pháp lý, việc bảo đảm thống nhất ý chí trong giao kết
hợp đồng có vai trị, ý nghĩa quan trọng sau:
Một là, với tính cách là một cơng cụ điều chỉnh các quan hệ tài sản, lợi
ích kinh tế, hợp đồng trước hết là căn cứ để các chủ thể thực hiện các giao
dịch dân sự của mình và là cơ sở để giải quyết khi phát sinh tranh chấp giữa
các bên, bảo đảm trật tự trong các giao dịch dân sự. Trong đời sống pháp lý,
hợp đồng là công cụ bảo vệ các quyền tài sản của tổ chức, cá nhân; là một
trong những cách thức quan trọng và phổ biến nhất để xác lập và bảo vệ
quyền tài sản. Vì vậy, việc bảo vệ thống nhất ý chí trong giao kết hợp đồng có
ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong các giao dịch dân sự, hợp đồng được các chủ thể sử dụng phổ
biến và thơng dụng, thơng qua hợp đồng các bên có thể thỏa thuận với nhau
11


bất kỳ điều gì, với bất cứ điều kiện nào, dưới bất cứ hình thức nào, miễn là

pháp luật khơng cấm. Vì thế, bảo đảm thống nhất ý chí trong giao kết hợp
đồng cịn nhằm bảo đảm sự bình đẳng và lợi ích của các chủ thể, là cơ sở
pháp lý cho sự hợp tác.
Hai là, trong mối quan hệ với quyền tự do kinh doanh, thống nhất ý
chí trong giao kết hợp đồng là yếu tố cơ bản của quyền tự do kinh doanh.[7]
Vì vậy, việc bảo đảm thống nhất ý chí trong giao kết hợp đồng cũng chính là
bảo đảm quyền tự do kinh doanh được thể hiện trên thực tế. Khi quyền tự do
kinh doanh thể hiện sẽ là điều kiện và động lực cho sự phát triển và tăng
trưởng kinh tế.
Ba là, trong các giao dịch dân sự hợp đồng ngày càng trở thành phương
tiện quản lý rủi ro, thông qua hợp đồng các bên đều tự nguyện cam kết thực
hiện đúng, đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh từ hợp đồng, do
đó nó tạo cho các chủ thể ln ý thức được việc phải tuân thủ các điều khoản
đã cam kết đó, nếu khơng tn thủ bên vi phạm phải chịu trách nhiệm và phải
bồi thường thiệt hại (nếu có) cho bên bị vi phạm và phải chịu các chế tài khác
mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng và quy định của pháp luật.[4] Vì
vậy, đối với các chủ thể, việc bảo vệ thống nhất ý chí trong giao kết hợp đồng
có vai trị quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do sở hữu, tự do kinh
doanh, tự do cạnh tranh [27],… Trong thực tế việc bảo đảm thống nhất ý chí
trong giao kết hợp đồng cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích của các bên chủ thể, chống lại các hành vi lạm dụng thống nhất ý chí
trong giao kết hợp đồng nhằm vi phạm thống nhất ý chí trong giao kết hợp
đồng và lợi ích của các chủ thể khác.
Về mặt xã hội, việc bảo đảm thống nhất ý chí trong giao kết hợp đồng
có vai trị, ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi các quyền cơ bản của con
người về dân sự, kinh tế.Trong xã hội hiện đại, hợp đồng được biết đến như
một giao dịch không thể thiếu của mỗi thành viên trong xã hội có tổ chức; sử
12



dụng điện thoại, điện nước, mua nhu yếu phẩm hàng ngày, di du lịch, giải
chí,… hầu hết các hoạt động của con người đều được thực hiện trong khuôn
khổ của mỗi quan hệ khế ước. Hợp đồng ngày càng trở thành một hiện tượng
hết sức phổ biến, phong phú, phức tạp trong cuộc sống hàng ngày của mỗi
thành viên trong xã hội. Vì vậy, việc bảo đảm thống nhất ý chí trong giao kết
hợp đồng có vai trị quan trọng cho việc quản lý và thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội, bảo đảm quyền tự do cơ bản của con người về dân sự, kinh tế,…
1.1.4. Khái niệm Hợp đồng
Hợp đồng là một trong những chế định lâu đời nhất trong lịch sử pháp
luật thế giới. Xét một cách khái quát nhất, cơ sở hình thành nên hợp đồng có
hai nguyên nhân cơ bản: nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Khi xã hội phát triển đến một mức độ nhất định, sự phân hóa lao động hình
thành, mỗi con người trong xã hội chỉ có thể làm một số công việc nhất định
(nguyên nhân khách quan) và nhu cầu của con người cũng ngày một phong
phú hơn.[16] Để thỏa mãn những nhu cầu của mình, con người tự thấy phải
có sự trao đổi vật chất với các chủ thể khác trong xã hội (nguyên nhân chủ
quan), từ đó quan hệ hợp đồng được hình thành.
Cùng với chế độ hợp đồng, khái niệm về hợp đồng cũng được các nhà
nghiên cứu pháp luật từ thời kì cổ xưa quan tâm. Ở mỗi thời kì và ở mỗi nơi,
khái niệm về hợp đồng cũng có sự khác biệt nhất định mặc dù không khác về
bản chất.
Pháp luật châu Âu lục địa (Civil Law) quan niệm: “hợp đồng được coi
là hình thức thể hiện của các giao dịch giữa các chủ thể mà việc xác lập
chúng có thể trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa
vụ của các bên” [29], dựa theo quan niệm đó, điều kiện cơ bản để hợp đồng
có hiệu lực bao gồm [37]:
- Ý chí của các bên tham gia giao dịch;
- Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp và phải được xác định;
13



- Hành vi, công việc trong hợp đồng phải thực hiện được;
- Thỏa mãn điều kiện về hình thức hợp đồng.
BLDS Pháp được coi là một trong những bộ luật có ảnh hưởng lớn đến
nền pháp luật dân sự của châu Âu lục địa. Theo đó, “hợp đồng là sự thỏa
thuận của hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay khơng làm
một cơng việc nào đó”.[26] Khái niệm này đã xác định rõ bản chất của hợp
đồng là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí giữa hai hay nhiều người, đối tượng
của hợp đồng là vật hay việc và chủ thể của hợp đồng phải có hai bên trở lên.
Đây có thể coi là một khái niệm tuy giản đơn nhưng đã khái quát được những
tính chất cơ bản của hợp đồng.
Những điều kiện để một hợp đồng có hiệu lực theo quy định của
BLDS Pháp gồm:
- Các bên giao kết hoàn toàn tự nguyện thỏa thuận;
- Các bên có đủ năng lực hành vi dân sự;
- Khách thể của hợp đồng nếu là vật thì vật đó phải thực sự tồn tại hoặc
nếu là hành vì thì hành vi đó phải có thể thực hiện được;
BLDS Đức cũng có nhiều nét tương đồng với BLDS Pháp do đều chịu
ảnh hưởng từ pháp luật La Mã. Theo điều 305, BLDS Đức năm 1896, sửa đổi
năm 2002 thì hợp đồng được coi là điều kiện cần thiết để hình thành hoặc làm
thay đổi một trách nhiệm từ các giao dịch hợp pháp của các bên trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác. Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng điều
306, Bộ luật dân sự Đức năm 1896, sửa đổi năm 2002 quy định: Một hợp
đồng có hiệu lực phải là một hợp đồng có thể thực hiện được, cịn hợp đồng
mà khơng thể thực hiện được thì coi như khơng tồn tại cũng gần như điều
kiện hành vi, công việc trong hợp đồng phải thực hiện được trong Luật La
Mã.
Đối với các nước thuộc dịng họ thơng luật (Common Law) như Anh,
Mỹ, Úc, Ấn Độ,… hợp đồng được định nghĩa là một thỏa thuận có ràng buộc
14



về mặt pháp lý (legally binding agreement). Để hình thành nên một hợp đồng
cần có bốn yếu tố cơ bản sau: Đề nghị giao kết (offer), sự chấp thuận đề nghị
(acceptance), sự bù trừ nghĩa vụ (consideration) và ý định thiết lập nghĩa vụ
pháp lý (intention to effect legal obligations). Sự khác biệt cơ bản trong pháp
luật hợp đồng của Common Law so với Civil Law chính là yếu tố sự bù trừ
nghĩa vụ (consideration). Sự bù trừ ở đây được hiểu là một giá trị nào đó (có
thể là tiền, dịch vụ hoặc một công việc phải thực hiện,…) mà mỗi bên nhận
được và trao đi hoặc từ bỏ theo thỏa thuận. Vì lẽ đó, trong pháp luật Anh - Mỹ
“nếu thiếu sự bù trừ, tức là nếu một trong các bên khơng có nghĩa vụ theo
thỏa thuận thì hợp đồng sẽ không thể được thực thi, tức không tồn tại”.[1]
Đối với các nước trong khu vực châu Á, tư duy pháp lý về hợp đồng
cũng tồn tại nhiều tư tưởng tương đối khác biệt, tùy theo dòng họ pháp luật
mà nước đó chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Trung Quốc, một quốc gia theo hệ
thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, tức có xu hướng gần với nền pháp luật châu
Âu lục, khái niệm hợp đồng được diễn đạt tại Điều 2, luật hợp đồng năm 1999
của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa như sau: “Hợp đồng là sự thỏa thuận
về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể
bình đẳng tự nhiên nhân, pháp nhân và các tổ chức khác”.[3]
Pháp luật dân sự Nhật Bản có khái niệm về hợp đồng không khác mấy
so với khái niệm về hợp đồng của Trung Quốc khi vẫn đề cao sự tự do ý chí
và yếu tố thỏa thuận trong hợp đồng: Một loại giao dịch dân sự thể hiện sự
thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên.[3] Mục đích của hợp đồng thông
thường làm phát sinh nghĩa vụ. Từ định nghĩa này, ta thấy được Bộ luật Dân
sự Nhật Bản coi hợp đồng là một quan hệ pháp luật và cũng là căn cứ phổ
biến và quan trọng làm phát sinh nghĩa vụ, sự khác biệt được thể hiện ở chỗ
hợp đồng trong pháp luật Nhật Bản không phải lúc nào cũng làm phát sinh
quan hệ nghĩa vụ mà trong một số trường hợp, hợp đồng có thể là các loại
giao dịch khơng có mục đích làm phát sinh nghĩa vụ như quan hệ hôn nhân

15


được coi là một giao dịch hợp đồng không làm phát sinh nghĩa vụ (điều này
khá giống pháp luật về hơn nhân, gia đình của Mỹ).
Trong Bộ luật dân sự và Thương mại của Thái Lan lại không đưa ra
một khái niệm cụ thể cho hợp đồng dù họ có riêng một tiêu đề là tiêu đề thứ 2
“hợp đồng” trong Bộ luật của mình.[2] Tuy nhiên, trong chương I “Sự hình
thành hợp đồng” của tiêu đề “hợp đồng” thể hiện quan điểm của những nhà
làm luật Thái Lan khá tương đồng với những nhà lập pháp theo hệ thống
Common Law khi cho rằng hợp đồng trước tiên được hình thành do lời đề
nghị giao kết, sau đó nó sẽ được chính thức trở thành hợp đồng khi lời đề nghị
đó được chấp nhận (phải thỏa mãn một số điều kiện như: thời hạn trả lời, điều
kiện về sự thiện chí, khơng dối trá,…).
Giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác, pháp luật dân sự của Việt
Nam chủ yếu chịu ảnh hưởng của luật La Mã và thừa hưởng nhiều thành tựu
của hệ thống pháp luật Civil Law. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975,
trong khoảng 10 năm, pháp luật dân sự vẫn ở vào tình trạng kém phát triển.
Phải đến cuối những năm 80 của thế kỉ XX thì việc ban hành các văn bản
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh mới trở nên đa dạng vì
được quan tâm và thúc bách. Rất nhiều văn bản pháp luật về dân sự được ban
hành trong thời kỳ này nhưng đến năm 1991, Việt Nam mới ban hành Pháp
lệnh về Hợp đồng dân sự. Pháp lệnh đã đưa ra khái niệm hợp đồng dân sự
một cách khá chi tiết tại điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991: “Hợp
đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về xác lập, thay đổi hay chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho
tài sản, làm một việc hay không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận
khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu
dùng.”
Đến BLDS năm 1995, các nhà làm luật đã định nghĩa lại một cách khái

quát và toàn diện hơn tại điều 394 BLDS năm 1995: “Hợp đồng là sự thỏa
16


thuận giữa các bên về sự xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự.”
Sau đó, BLDS năm 2005 đã giữ nguyên khái niệm này. Khái niệm hợp
đồng theo BLDS năm 2005 đã nêu lên những yếu tố cơ bản nhất của hợp
đồng: Bản chất pháp lý của hợp đồng, chủ thể của hợp đồng và mục đích của
hợp đồng. Bản chất của hợp đồng cũng như các quan điểm của các nước khác
trên thế giới vẫn là sự thỏa thuận giữa các bên tham gia giao kết; chủ thể của
hợp đồng phải có từ hai bên trở lên; về mục đích của hợp đồng, quy định khá
rộng khi mục đích của sự thỏa thuận là nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự, quy định này thể hiện tính bao quát của pháp luật dân
sự. Bởi vì, tại Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự năm 1991, phạm vi hợp
đồng dân sự lại giới hạn trong việc đáp ứng “nhu cầu sinh hoạt tiêu
dùng”.[33]
Khi BLDS năm 2015 ra đời, phạm vi điều chỉnh của pháp luật hợp
đồng dân sự đã được thống nhất và mở rộng; theo đó, bất cứ thỏa thuận nào
giữa các chủ thể theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự đều được coi là hợp
đồng dân sự và được điều chỉnh theo quy định chung về hợp đồng dân sự của
Bộ luật Dân sự năm 2005 (kể cả hợp đồng kinh doanh thương mại, lao động).
1.1.5. Bản chất và ý nghĩa pháp lý của Hợp đồng
Hợp đồng là căn cứ phổ biến, dạng giao dịch phổ biến trong các quan
hệ xã hội, rất đa dạng, phong phú và được thể hiện dưới các hình thức khác
nhau, có thể bằng lời nói, bằng hành vi hoặc bằng văn bản. Thông qua thống
nhất ý chí hay thỏa thuận hay giao kết hợp đồng, các bên mong muốn đạt
được mục đích như đã thống nhất ý chí, thỏa thuận hay đã giao kết. Hợp đồng
cũng góp phần nâng cao sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội, chi phối sâu

rộng lên mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy địi hỏi pháp luật có sự quan
tâm và quản lý hợp lý, đúng mức của các cơ quan nhà nước liên quan đến
17


quan hệ hợp đồng. Nhà nước ban hành ra luật để hỗ trợ và điều chỉnh quan hệ
hợp đồng làm sao vừa đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
trong giao kết và thực hiện hợp đồng và vừa có tác dụng thúc đẩy, tạo điều
kiện phát triển kinh tế, xã hội của đất nước theo định hướng đã dược Đảng đề
ra như phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội
nhập quốc tế, cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa…
Trong khoa học pháp luật, hành vi pháp lý là một sự thể hiện ý chí
nhằm làm phát sinh ra một hậu quả pháp lý, có nghĩa là làm phát sinh, thay
đổi hay chấm dứt một quyền lợi.[6, tr.16] Hành vi pháp lý bao gồm hợp đồng
và hành vi pháp lý đơn phương. Hợp đồng có bản chất là sự thống nhất của
các ý chí nhằm làm phát sinh hậu quả pháp luật. Còn hành vi pháp lý đơn
phương là việc thể hiện ý chí của chỉ một người nhằm làm phát sinh hậu quả
pháp luật. Đây là các căn cứ rất quan trọng để lập ra các quan hệ pháp luật.
Trong thực tiễn đời sống xã hội, mỗi bên trong quan hệ hợp đồng muốn
theo đuổi những lợi ích nhất định của riêng họ. Do đó hợp đồng là kết quả của
sự dung hịa các lợi ích ngược nhau giữa họ với nhau.[12] Để có được lợi ích
họ muốn đó, các bên họ buộc phải có sự thỏa thuận. Hợp đồng là sự thống
nhất ý chí để sinh một hệ quả pháp luật đặc biệt. Hệ quả đó là hệ quả quan hệ
nghĩa vụ mà trong đó có hai loại chủ thể khác nhau là người có quyền yêu cầu
và người có nghĩa vụ thực hiện quyền yêu cầu này. Trong quan hệ này người
có nghĩa vụ phải thi hành nghĩa vụ của họ vì lợi ích của người có quyền yêu
cầu khi học yêu cầu. Người có quyền yêu cầu có quyền được thỏa mãn quyền
u cầu của mình do địi hỏi người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của
họ vì lợi ích của người có quyền yêu cầu. Thi hành nghĩa vụ bị cưỡng chế
bằng pháp luật.

Từ đó chúng ta phải thấy, hợp đồng có hai vấn đề pháp luật cơ bản:
Một là, hợp đồng là sự thống nhất của hai ý chí tách rời nhau; hai là, sự thống

18


nhất ý chí đó phải có giá trị pháp luật, nghĩa là thống nhất phải thực hiện đủ
các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được pháp luật quy định.
1.2. Nội dung và hình thức pháp lý của thống nhất ý chí
1.2.1. Chủ thể của thống nhất ý chí
Gọi là sự thống nhất khi có hai người trở lên đều có mục đích trao đổi
để ý cbhis của các bên gặp gỡ nhau. Sự gặp gỡ này như trên đã làm rõ là các
chủ thể của các ý chí cùng mong muốn ràng buộc nhau vào một quan hệ hợp
đồng có các quyền và nghĩa vụ dân sự như họ muốn. Một người khơng thể có
thống nhất ý chí. Do đó cần phải xem chủ thể có đủ điều kiện để thống nhất ý
chí khơng. Theo qui định chung của pháp luật, cá nhân và pháp nhân là những
chủ thể của pháp luật và là chủ thể của thống nhất ý chí. Ngồi ra cịn nhiều
chủ thể khác mà pháp luật qui định, đồng thời pháp luật xác định điều kiện để
họ tham gia vào các giao dịch, nghĩa là thống nhất ý chí giao kết hợp đồng.
BLDS năm 2015 qui định ở Điều 19: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền,
nghĩa vụ dân sự”. Qui định này cho phép cá nhân có đủ năng lực hành vi dân
sự được tham gia thống nhất ý chí giao kết hợp đồng. BLDS năm 2015 ở Điều
20 qui định người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và
có quyền tham gia vào mọi giao dịch dân sự, trừ khi bị mất năng lực hành vi
dân sự, khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự. Những người dưới 18 tuổi được phép tham gia hạn chế vào
việc thống nhất ý chí giao kết hợp đồng theo Điều 21, BLDS năm 2015 như
sau:
“1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.

2. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo
pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.

19


×