Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời
chung. Hãy bình luận ý kiến trên của Nguyễn Du
ĐAU ĐỚN THAY PHẬN ĐÀN BÀ
LỜI RẰNG BẠC MỆNH CŨNG LÀ LỜI CHUNG
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Hãy bình luận ý kiến trên.
Bài làm
"Truyện Kiều" của thi hào dân tộc Nguyễn Du là kiệt tác của nền văn học cổ
Việt Nam. "Truyện Kiều" là tình yêu thương, niềm say mê lớn trong hàng trăm năm
của hàng triệu con người. Vút qua năm tháng "đêm trường dạ tối tăm mù mịt", nhiều
câu thơ Kiều đọng lại trong tâm hồn nhân gian bao ám ảnh:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
1. "Phận" là thân phận, số phận. Theo quan niệm cũ số phận của con người
được sung sướng hay đau khổ là do một thế lực huyền bí, thiêng liêng định đoạt. Câu
thơ thứ nhất là lời cảm thán cho số phận đàn bà đau khổ.
"Bạc mệnh" hay mệnh bạc là số phận, số mệnh tiền định mỏng manh, đen tối,
trải qua nhiều đau thương bất hạnh. "Bạc mệnh" không chỉ riêng ai mà là "lời chung",
là số phận đáng thương của hầu hết mọi người phụ nữ trong xã hội cũ.
Hai câu thơ trên là tiếng khóc của Thuý Kiều khi đứng trước nấm mồ Đạm
Tiên trong một buổi chiều thanh minh. Đó là tiếng khóc của nàng cho mọi người phụ
nữ tài hoa bạc mệnh ngày xưa, và cũng tự khóc cho đời mình mai sau (sự cảm). Ý thơ
mang tính chất khái quát rất cao, biểu hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo của Nguyễn
Du qua Truyện Kiều.
2. Hai câu thơ trên đã nói lên bi kịch về thân phận của người phụ nữ ngày xưa:
đau khổ, bạc mệnh. Nguyễn Du đã sống trong một thời đại đen tối là lúc chế độ phong
kiến suy tàn, đầy rẫy thối nát, bất công và dã man. "Truyện Kiều" đã phản ánh một
cách sống động và chân thực cái hiện thực đen tối ấy của xã hội phong kiến:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
"Phận đàn bà" trong xã hội ấy là "đau đớn", là "bạc mệnh", tủi nhục không kể
xiết. Lễ giáo phong kiến khe khắt, cổ hủ nặng nề: trọng nam khinh nữ (nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô), đạo "tam tòng" như sợi dây oan nghiệt thít chặt vào cổ người
đàn bà (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Thân phận bếp núc, không
được học hành, không có chút quyền hành gì ngoài xã hội. Nam nữ "thụ thụ bất thân".
Người con gái và nhan sắc chỉ để "mua vui" cho bọn vua chúa, quan lại, kẻ quyền
quý Hai chữ "bạc mệnh" trong lời thơ đã cực tả nỗi "đau đớn", tủi nhục của "khách
má hồng".
Nguyễn Du đã phản ánh một sự thật đau lòng trong xã hội phong kiến suy tàn,
thổi nát. Nạn mất mùa, dịch bệnh, tệ áp bức bóc lột nặng nề của vua quan, chiến tranh,
loạn lạc triền miên đã dìm người dân lanh trong máu, nước mắt và đói rét. Phụ nữ và
trẻ em là lớp người đau thương nhất: góa bụa, côi cút Có người phải ăn xin "chết lăn
rãnh đến nơi, thịt da béo cầy sói" (Những điều trông thấy). Có giai nhân "nổi danh tài
sắc một thì" nhưng bạc mệnh: "Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm
ma không chồng" (Đạm Tiên). có thiếu nữ hiếu thảo, tài sắc vẹn toàn nhưng phải trải
qua số kiếp "đoạn trường" nên phải nếm mùi cay đắng nhục nhã "Thanh lâu hai lượt,
thanh y hai lần" (Thuý Kiều).
Nguyễn Du bằng sự trải nghiệm của đời mình, đã từng mười năm trời lưu lạc,
không thuốc men lúc ốm đau, vợ con chia lìa, anh em tan tác (Anh em tan tác nhà
không có - Ngày tháng xoay vần tóc bạc rồi - Thơ chữ Hán), nên ông đã có sự đồng
cảm sâu sắc, cảm thương vô hạn cho bao nỗi đau đớn của người phụ nữ bạc mệnh.
Ông đã lên tiếng tố cáo những thế lực hắc ám, bạo tàn (quan lại, bọn lưu manh, lũ
buôn thịt bán người, đồng tiền hôi tanh và bạo lực ) đã chà đạp lên quyền sống và
hạnh phúc của con người, của người phụ nữ. "Truyện Kiều" là tiếng kêu thương thống
thiết, ai oán, não nùng. Tiếng kêu thương ấy, nhà thơ ấy, nhà thơ đã gửi vào thân phận
một người đàn bà "Những oan khổ lưu ly - Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!".
Hai câu thơ:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
đúng như Tố Hữu đã nói "còn đọng nỗi đau nhân tình", "Tố Như ơi lệ chảy
quanh thân Kiều! ". Nó chứa chan tinh thần nhân đạo cao đẹp.
3. Câu thơ của Nguyễn Du cho đến nay vẫn còn làm xúc động lòng người.
Cách mạng đã xác nhận quyền nam nữ bình đẳng. Người phụ nữ đã có vai trò rộng lớn
trong xã hội. Đảm đang việc nước, đảm đang việc nhà, người phu nữ đã và đang phát
huy tài năng, đức hạnh trong sản xuất, học tập và chiến đầu:
Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử,
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ
(Huy Cận)
Hai câu thơ của Nguyễn Du tuy không còn ý nghĩa phổ biến nữa, nhưng trong
xã hội hiện nay vẫn còn không ít bất công, tàn dư của tư tưởng phong kiến, đã và đang
làm cho người phụ nữ bị thiệt thòi, đau khổ. Vì thế cuộc đấu tranh để thực sự giải
phóng phụ nữ phải được tiếp tục.
Qua hai câu thơ:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
ta thấy trái tim yêu thương mênh mông của thiên tài Nguyễn Du, ta cảm nhận
sâu sắc giá trị nhân bản tuyệt vời của Truyện Kiều. Một lần nữa trong "Văn Chiêu
hồn", Nguyễn Du lại thống thiết kêu lên:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu!
Hơn bất cứ nghệ sĩ nào, Nguyễn Du đã dành cho người phụ nữ những tình cảm
thắm thiết, cảm động nhất. Nguyễn Du mãi mãi bất tử về tấm lòng nhân đạo mênh
mông.