Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty TNHH Tiếp Vận Thăng Long về cung cấp dịch vụ logistics trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.03 KB, 69 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, thị trường toàn cầu
ngày càng trở nên nhạy cảm với những vấn đề về thời gian cũng như sự
cạnh tranh về giá cả. Bên cạnh đó là sự phát triển nhanh chóng của khoa
học công nghệ thông tin và những yêu cầu khắt khe trong các khâu quản
lý nguyên vật liệu thô cũng như các bộ phận cấu thành sản phẩm. Trước
những yêu cầu thực tiễn đó, dịch vụ logistics ra đời và không ngừng phát
triển, ngày càng đáp ứng được những đòi hỏi về yếu tố thời gian và đem
lại hiệu quả cao trong lĩnh vực kinh doanh.
Thuật ngữ logistics xuất hiện vào khoảng những năm 1960 và liên
tục phát triển cho đến nay, được hiểu như là việc quản lý toàn bộ hệ
thống chuỗi cung cấp từ khâu nguyên liệu thô đến phân phối thành
phẩm. Mục tiêu của nó là kiểm nghiệm từng quyết định trong kênh cung
cấp một sản phẩm và tác động của nó đối với toàn bộ hệ thống. Ở Việt
Nam, các hoạt động giao nhận hàng ở cảng biển và các vùng biên giới có từ
những năm 1954, song cho đến nay logistics vẫn là một khái niệm còn mới
mẻ đối với phần lớn các doanh nghiệp. Một số ít doanh nghiệp đã cung cấp
loại hình dịch vụ này nhưng thực chất vẫn là do các đối tác nước ngoài đảm
nhiệm, còn các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đứng lo những phần công việc
trong lãnh thổ Việt Nam do cơ chế thủ tục nước ta còn phức tạp. Trong những
năm gần đây, các hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho vận đang diễn ra
khá sôi động và lĩnh vực này càng trở nên phức tạp hơn khi Việt Nam gia
nhập WTO.
Lựa chọn đề tài: “Nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty TNHH
Tiếp Vận Thăng Long về cung cấp dịch vụ logistics trong điều kiện Việt
Nam gia nhập WTO”, em hi vọng chuyên đề thực tập này sẽ một lần nữa
khẳng định lại tầm quan trọng của dịch vụ logistics đối với nền kinh tế Việt
Nam nói chung và đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực giao
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
1


Chuyên đề tốt nghiệp
nhận kho vận nói riêng. Qua việc khái quát chung về thực trạng kinh doanh
dịch vụ logistics của Công ty, nêu lên những cơ hội và thách thức khi Việt
Nam gia nhập WTO, để từ đó đưa ra được những giải pháp để nâng cao khả
năng cạnh tranh của Công ty trước những công ty nước ngoài có kinh nghiệm
và tính chuyên nghiệp cao trong việc cung ứng dịch vụ logistics.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp tại Công ty TNHH Tiếp Vận Thăng
Long ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo bao
gồm những phần sau:
- Chương I: Tổng quan về logistics
- Chương II: Thực trạng kinh doanh logistics của Công ty TNHH
Tiếp Vận Thăng Long một số năm gần đây
- Chương III: Một số giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của
Công ty TNHH Tiếp Vận Thăng Long về cung cấp dịch vụ logistics trong
điều kiện Việt Nam gia nhập WTO
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Th.s Ngô Thị Mỹ
Hạnh - giảng viên Khoa Thương mại, Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân và
Công ty TNHH Tiếp Vận Thăng Long đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực
tập này.
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CH ƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ
LOGISTICS
I - Sự hình thành và phát triển logistics
1. Một số khái niệm về logistics
Việc miêu tả khái niệm logistics dễ dàng hơn là việc định nghĩa khái
niệm này. Khái niệm logistics thường được sử dụng trong quá trình tổ chức và
thực hiện chi tiết một kế hoạch hoạt động nào đó.
Thuật ngữ logistics xuất hiện đầu tiên trong lĩnh vực quân sự, liên quan

đến việc di chuyển, cung cấp trang thiết bị, tiếp tế cho các đơn vị quân đội.
Trong hoạt động thương mại, quản lý logistics là một quá trình tương tác
nhằm tối ưu hoá các dòng nguyên vật liệu và nguồn cung cấp thông qua tổ
chức để đến với khách hàng. Khái niệm logistics được đưa ra tuỳ theo giác độ
mà người ta nghiên cứu nó. Sau đấy là một số khái niệm về logistics:
Theo Hội đồng quản lý logistics của Mỹ thì “Logistics là quá trình lập
kế hoạch, thực hiện và kiểm soát dòng di chuyển và lưu kho những nguyên
vật liệu thô của hàng hoá trong quy trình, những hàng hoá thành phẩm và
những thông tin có liên quan từ khâu mua sắm nguyên vật liệu cho đến khi
được tiêu dùng, với mục đích thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng”.
Theo viện kỹ thuật công nghệ Florida - Mỹ thì: “Logistics là việc quản lý sự
vận động và lưu giữ của nguyên vật liệu vào trong doanh nghiệp của hàng hóa
trong lúc sản xuất tại doanh nghiệp và hàng thành phẩm đi ra khỏi doanh nghiệp”.
Logistics được ủy ban quản lý logistics của Mỹ định nghĩa như sau:”
Logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc
quản lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn
nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm,
cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng
hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng”.
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo Luật Thương mại Việt Nam năm 2005:” Dịch vụ logistics là hoạt
động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều
công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải
quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã
hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa
thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.
Logistics là nghệ thuật tổ chức sự vận động của hàng hóa, nguyên
vật liệu từ khi mua sắm, qua các quá trình lưu kho, sản xuất, phân phối cho

đến khi đưa đến tay người tiêu dùng.
2.Sự hình thành và phát triển logistics
2.1.Sự thay đổi trong vai trò của người giao nhận
2.1.1.Giai đoạn 1: Vai trò truyền thống như người tư vấn cho người gửi
hàng
Người giao nhận hành động như một đại lý thanh toán và chuyển hàng -
Clearing and forwarding agent. ở vai trò này , người giao nhận hành động như
một đại lý của người gửi hàng hoặc người nhận hàng và ràng buộc người gửi
hàng hoặc người nhận hàng như một bên chính trong vụ giao dịch đó.
2.1.2.Giai đoạn 2: Vai trò trung gian như người gom hàng
Nguời giao nhận thực hiện một số công việc nhất định như gom hang,
chuyên chở hàng hoá bằng đường bộ - road haulage và khai báo hải quan với
vị trí như là chủ hàng. Trên thực tê, những người giao nhận này thực hiện tất
cả các chức năng trong chuỗi vận tải và có thể tổ chức thực hiện toàn bộ việc
vận chuyển từ nhà máy của người gửi hàng cho đến cảng đến. Tuy nhiên họ
không tự phát hành chứng từ vận tải của chính họ trên quãng đường vận tải
mà không phải là người chuyên chở thực sự. Điều này cũng tương tự trong
lĩnh vực vận tải đường biển. Vận đơn của người gom hàng - House bill of
lading, chỉ là vận đơn nội bộ giữa người gom hàng với người gửi hàng và
người gửi hàng vẫn phải tiếp tục dựa vào vận đơn đường biển - Ocean bill of
lading được người vận tải đường biển cấp để có thể thanh toán qua ngân hàng
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
4
Chuyên đề tốt nghiệp
và dùng trong trường hợp xảy ra mất mát hoặc tổn thất đối với hàng hoá.
Những người giao nhận này chỉ còn cách một bước với dịch vụ vận tải đa
phương thức.
2.1.3.Giai đoạn 3: Vai trò tiến bộ như người kinh doanh vận tải đa
phương thức
• Sự ra đời của vận tải đa phương thức (VTĐPT)

VTĐPT ra đời vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỉ
20. Trong giai đoạn đầu những năm 30, VTĐPT chưa được áp dụng nhiều.
Chỉ từ sau năm 1960, VTĐPT mới được mở rộng và phát triển do kết quả tác
động của nhiều yếu tố: sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, quá trình
thương mại hoá toàn cầu…Bước tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ
trong vận tải là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển VTĐPT. Trong đó
cần phải kể đến là sự hình thành phương thức vận tải bằng container. Hàng
hoá được đựng trong các thùng tiêu chuẩn (container, xe thùng, các toa
chuyên dụng, sà lan…) khi phải chuyển từ dạng vận tải này sang dạng vận tải
khác thì không phải dỡ ra và xếp lại. Chính những ưu điểm đó đã tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của VTĐPT.
Trong giai đoạn hiện nay, các nước Châu Á đang có nhiều điều kiện
thuận lợi để đẩy mạnh VTĐPT đặc biệt là do tăng khối lượng hàng vận
chuyển bằng container xuất nhập khẩu. Sự phát triển sôi động của sản xuất
hàng hoá tạo nên sự trao đổi giao lưu buôn bán phát triển với các châu lục
khác nhất là Tây Âu và Bắc Mỹ làm tiền đề đẩy mạnh nhu cầu VTĐPT. Các
nước đang tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng mạng đường trên đất
liền trong đó có tuyến đường sắt - đường biển thực hiện VTĐPT nhằm đảm
bảo nhu cầu vận chuyển hàng ngoại thương giữa các nước trong vùng với các
nước Châu Âu. Việc xây dựng mạng lưới đường sắt có tầm cỡ chiến lược như
là một phương án tối ưu mang lại lợi ích cho vận tải ngoại thương của các
nước và cho sự phát triển kinh tế và xã hội nói chung.
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Tóm lại, quá trình hình thành và phát triển VTĐPT là kết quả tất yếu,
khách quan của sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong vận tải, sự
tác động của quá trình thương mại hoá quốc tế, sự tiến bộ của công nghệ tin
học cũng như nhu cầu đòi hỏi của hệ thống quản lý phân phối vật chất mà bây
giờ là logistics. Giai đoạn này đang là thời kỳ phát triển mạnh của VTĐPT

quốc tế.
• Hiệu quả của container hoá trong vận tải
Vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu bằng container có thể đem lại
một số hiệu quả kinh tế đối với chủ hàng như: giảm chi phí bao bì vận tải,
giảm chi phí giao hàng, rút ngắn thời gian lưu thông hàng hoá, giảm tỷ lệ tổn
thất, mất mát hàng hoá trong container, tỷ lệ hao hụt chỉ vào khoảng 0,5% đến
1% (trong khi đó nếu vận chuyển bằng phương pháp thông thường thì tỷ lệ
hao hụt tới 8%), góp phần thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, góp
phần giảm bớt trách nhiệm cho chủ hang và việc trao đổi tập quán thương mại
quốc tế, giảm được phí bảo hiểm cho hàng chuyên chở.
Bên cạnh đó, việc chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu đường biển
bằng container có một số hiệu quả xã hội. Container hoá trong vận chuyển
hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển đạt những hiệu quả về mặt xã hội
như sau: tăng năng suất lao động xã hội, tiết kiệm chi phí cho sản xuất xã hội,
tạo điều kiện áp dụng quy trình kỹ thuật mới trong ngành vận tải, góp phần
đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo ra những
việc làm mới, dịch vụ mới, giải quyết lao động xã hội, đảm bảo an toàn cho
lao động ngành nghề trong xã hội.
Ngoài những lợi ích trên đây, container hoá trong vận tải biển còn
mang lại nhiều lợi ích khác nữa như:
- Thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng quan hệ hợp tác buôn bán với
các nước trên thế giới
- Thay đổi cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trường trong kinh doanh xuất
nhập khẩu
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
6
Chuyên đề tốt nghiệp
- Góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong hoạt động thương mại
quốc tế
- Tạo điều kiện cho đất nước hoà nhập vào sự vận động chung về kinh

tế xã hội với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tóm lại, vận chuyển hàng hoá bằng container giữ một vị trí quan trọng
trong hệ thống vận tải phục vụ nền kinh tế quốc dân. Đây là phương thức vận
tải tiên tiến đã và đang mang lại hiệu quả cao trong chuyên chở, đặc biệt là
vận chuyển bằng đường biển. Chính vì vậy, so với lịch sử phát triển của vận
tải đường biển, vận tải container mới ra đời song tốc độ phát triển khá nhanh.
Để tạo khả năng áp dụng phương thức chuyên chở hiện đại này, nhiều nước
trên thế giới đã xây dựng đội tàu chuyên dụng có trọng tải lớn để chuyên chở
container. Xây dựng các cảng container với trang thiết bị xếp dỡ hiện đại, tự
động hoá cùng với hệ thống kho tàng, bến bãi đầy đủ tiện nghi nhằm khai
thác triệt để ưu thế của vận chuyển hàng hoá trong container bằng đường
biển. Vận chuyển hàng hoá bằng container ra đời đã làm thay đổi nhiều lĩnh
vực trong vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu, từ việc đóng hàng, phương
pháp gửi hàng cũng như các chứng từ trong giao nhận vận chuyển hàng hoá.
Có thể nói vận chuyển hàng hoá bằng container là một cuộc cách mạng trong
vận chuyển, nó đã đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển của vận tải đa phương
thức trong giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu trong đó người giao nhận đóng
vai trò như một người kinh doanh vận tải đa phương thức.
Trước những bước chuyển biến đã trình bày ở trên, người giao nhận đã
mở rộng phạm vi hoạt động của mình và đóng vai trò mới là một người kinh
doanh VTĐPT. Với vai trò này, người giao nhận sẽ cấp một vận đơn B/L hay
một chứng từ VTĐPT cho toàn bộ hành trình của hàng hoá, từ lúc hàng hoá
được đặt dưới sự kiểm soát của người giao nhận cho đến khi hàng hoá được
giao cho người nhận ở điểm đến cuối cùng. Tuy nhiên việc cấp một chứng từ
VTĐPT và chấp nhận chịu trách nhiệm về toàn bộ việc thực hiện chuỗi vận
tải không có nghĩa là người giao nhận chấp nhận chịu trách nhiệm đối với mọi
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
7
Chuyên đề tốt nghiệp
sai sót trong suốt hành trình. Điều này còn tuỳ thuộc vào những điều khoản

quy định trong hợp đồng vận tải. Điều quan trọng là người giao nhận thực
hiện giao dịch với tư cách một bên chính trong hợp đồng với người gửi hàng
và với người chuyên chở đường biển/đường bộ và đường sắt hay đường hàng
không mà anh ta ký hợp đồng phụ.
2.1.4. Giai đoạn 4: Vai trò mới như người cung cấp dịch vụ logistics
Ở Bắc Mỹ, Tây Âu và ở các nước phát triển trong khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương - ESCAP, những người giao nhận hiện nay đang cung cấp
một loạt các dịch vụ như những người cung cấp dịch vụ logistics “bên thứ ba”
- Third Party Logistics Provider.
Trong nền kinh tế toàn cầu rất sôi động hiện nay, một công ty sản xuất
phải chú ý đến những điểm ưu việt của logistics để có thể để có thể đạt được
lợi thế cạnh tranh cũng chính là nhằm để thoả mãn được nhu cầu ngày càng
tăng của khách hàng và vượt qua được các đối thủ cạnh tranh. Những quy
trình logistics của một công ty (không chỉ gồm quá trình vận tải, xử lý và đưa
nguyên vật liệu thô vào sản xuất và hoàn thiện khâu đưa thành phẩm ra thị
trường) hiện nay đã vượt ra khỏi ranh giới doanh nghiệp cũng như vượt qua
biên giới quốc gia và tìm đến khách hàng cũng như người cung cấp. Không
còn giống như việc kinh doanh trước đây, các quy trình quản lý cần phải được
thay đổi và tiếp thêm sức sống mới cùng với văn hoá của doanh nghiệp.
Những nhà quản lý cần phải sáng tạo, có tầm nhìn xa và nắm vai trò chủ đạo,
hướng dẫn trong việc phát triển, mở rộng ranh giới và hiệu quả của hoạt động
logistics.
Do nguồn tài nguyên sẵn có của nhiều doanh nghiệp sản xuất còn hạn
chế, nên sẽ là sáng suốt nếu các doanh nghiệp này tập trung nguồn tài nguyên
của họ vào lĩnh vực cho phép họ cung cấp những dịch vụ có giá trị có một
không hai cho khách hàng và sử dụng những dịch vụ của một bên thứ ba –
“outsourcing” - đối với những hoạt động mà doanh nghiệp không có sẵn
nguồn tài nguyên hoặc không thực sự xuất sắc. Việc outsourcing như trên sẽ
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
8

Chuyên đề tốt nghiệp
hiệu quả và kinh tế hơn nhiều so với việc doanh nghiệp tự làm lấy. Đối với
những doanh nghiệp đi sau trong lĩnh vực logistics thì vẫn có những cơ hội
đáng kể cho họ để thiết lập một sự cộng tác chiến lược với một người cung
cấp dịch vụ logistics bên thứ ba - Third Party Logistics Provider (được bắt
nguồn từ trong lĩnh vực quân sự, trong chương trình phòng thủ chiến lược -
Strategic Defense Initiative - do Tổng thống Mỹ Ronald Reagan đề xuất năm
1983 – ‘3PLs’). Nếu quản lý tốt, sự cộng tác này có thể góp phần làm giảm
chi phí, tăng hiệu quả và cải thiện đáng kể trong việc đáp ứng, thoả mãn nhu
cầu của khách hàng.
Những ưu điểm của việc sử dụng hợp lý dịch vụ logistics của bên thứ
ba khá nhiều ngay cho dù việc cộng tác này chỉ mang lại lợi nhuận cho các
nhà sản xuất trong một số lĩnh vực mũi nhọn. Thứ nhất là, việc sử dụng dịch
vụ của 3PLs phải thật uyển chuyển giúp công ty có thể tận dụng nguồn nội
lực và tài sản của mình tập trung vào những hoạt động trọng tâm, tận dụng tác
động đòn bẩy của tài sản và kiến thức chuyên môn của người cung cấp dịch
vụ 3PLs để thu được những lợi nhuận gia tăng. Hệ thống mạng lưới và cơ sở
hạ tầng toàn cầu của người cung cấp dịch vụ 3PLs cần phải tạo điều kiện cho
phép công ty thích ứng nhanh hơn và hiệu quả hơn trước những điều kiện
thay đổi của thị trường. Thêm vào đó, sự quản lý tập trung của người cung
cấp dịch vụ 3PLs nên phải tăng cường sự thống nhất trong toàn bộ quy trình
logistics của công ty từ khâu nhập kho, phân phối, điều chỉnh lượng tồn kho,
xuất khẩu, nhập khẩu, tính hữu hình về công nghệ và điện tử trong hàng hoá.
Người cung cấp dịch vụ 3PLs có thể mang lại những lợi ích như sau:
- Giảm chi phí trực tiếp thông qua việc định giá ưu đãi nhất cho khách
hàng.
- Giảm chi phí gián tiếp thông qua việc tăng cường các dịch vụ giá trị
gia tăng và thông qua việc sử dụng dịch vụ của bên thứ ba trong một loạt các
công việc văn phòng và quá trình tiến hành thực hiện việc mua bán (ví dụ như
đóng gói đưa hàng lên tàu)

Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
9
Chuyên đề tốt nghiệp
- Phản ứng nhanh, linh động và sáng tạo trong tất cả những nhu cầu về
logistics
- Thông qua chuỗi cung cấp, thời gian và số lần quá cảnh giảm đi và dễ
dự đoán hơn, thời gian quay vòng cũng được giảm xuống thông qua chuỗi
cung cấp.
- Cải tiến được những kiến thức chuyên môn logistics chiến lược và sự
quản lý logistics tổng thể thống nhất với các mục tiêu kinh doanh của công ty.
Để có được một sự hợp tác chiến lược thành công cần có những nhân tố
quyết định. Không có một sự cộng tác nào tự nó xảy ra mà cần có sự cam kết
thực sự giữa những người lãnh đạo cao nhất, từ đó truyền đạt xuống co toàn
bộ nhân viên dưới quyền trong tổ chức của cả hai bên đối tác. Đối với doanh
nghiệp sản xuất điều này có nghĩa là phải có một chiến lược sử dụng dịch vụ
bên thứ ba được xác định một cách rõ ràng và một cam kết cũng phải rõ ràng
sử dụng những nguồn tài nguyên hợp lý để hoàn thành được công việc. Một
cơ cấu định giá hợp lý thoả mãn nhất cũng là một trong những nhân tố đóng
góp vào sự thành công. Khi hai bên kết hợp với nhau, mối quan hệ này nên
được xây dựng vun đắp trên cơ sở những mong muốn, dự tính thực tế và thoả
thuận cùng có lợi với sự phân công vai trò và trách nhiệm rõ ràng cho cả hai
bên. Khi giá cả được định ra dựa trên kết quả thì những vạch ranh giới phải
được thiết lập vững chắc để những hoạt động có thể được xác định và đánh
giá một cách liên tục. Việc liên lạc thường xuyên phải được duy trì giữa hai
bên với những điểm cụ thể được chỉ ra trên hợp đồng.
Hãng sản xuất phải chỉ định một người quản lý có khả năng giao tiếp
tuyệt vời và tư duy chiến lược để có thể quản lý, giám sát mối liên kết giữa
hai bên. Người quản lý này phải tập trung vào việc làm thế nào để sự cộng tác
trên có thể đạt được kết quả logistics hoàn hảo cho công ty mình chứ không
phải giám sát hoạt động hàng ngày của đối tác chiến lược của công ty.

‘Outsourcing’ là một lựa chọn hoàn toàn có thể thực hiện được của các
công ty. Việc thực hiện các thương vụ thông qua các bên thứ ba được điễn ra
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
10
Chuyên đề tốt nghiệp
vì nhiều lí do khác nhau, ví dụ như để tăng giá trị tài sản của các cổ đông,
giảm các chi phí chuyển giao các thương vụ, tăng hiệu quả các kế hoạch kinh
doanh, giải quyết những khả năng còn thiếu trong nội bộ công ty, tăng sản
lượng bán hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm lượng tồn kho, tăng tốc độ
và vòng quay hàng hoá, giảm đầu tư tư bản, tăng hiệu quả dòng tiền, chuyển
chi phí cố định thành các chi phí biến đổi và các lợi nhuận khác cả vô hình lẫn
hữu hình.
Chính những người cung cấp dịch vụ 3PLs đã mở đường cho hoạt động
‘outsourcing’ logistics. Trong trọng tâm kinh doanh của họ dù là hoạt động
giao nhận, vận chuyển bằng xe tải hay nhập kho hàng hoá, họ đã mở rộng các
dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Nó đã mở ra một con đường mới cho
những người cung cấp dịch vụ logistics về hàng hoá chuyển sang một mức độ
cao hơn đó là các dịch vụ trọn gói. Các khách hàng thường lo lắng về việc cắt
giảm chi phí, thực sự mong muốn những gì mà người cung cấp 3PLs thực
hiện. Cơ hội cho một thị trường mới đầy tiềm năng cho những người cung cấp
dịch vụ logistics ‘bên thứ ba’ dù là trong nội địa, quốc tế và/hoặc toàn cầu là
rất lớn.
2.2. Ba giai đoạn phát triển của logistics
Bắt đầu xuất hiện trong lĩnh vực quân sự, logistics trải qua ba giai đoạn
phát triển được trình bày dưới đây:
2.2.1. Phân phối vật chất
Ở Mỹ ngay từ những năm 60, các công ty đã tập trung chú trọng vào
cái được định nghĩa là logistics hướng nội - inbound logistics. Họ đã cố gắng
quản lý một cách hệ thống một chuỗi các hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau trong đó bao gồm các hoạt động vận tải nhằm đảm bảo việc giao

hàng thành phẩm một cách hiệu qủa cao cho các khàch hàng. Những công ty
này đã bắt đầu nhận ra mối liên hệ giữa chi phí hàng tồn kho và chi phí vận
tải từ bức tranh tổng thể tổng chi phí. Ví dụ như một thay đổi trong cước phí
cao của ngành hàng không có thể dẫn đến một khoản tiết kiệm khá lớn về
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
11
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng tồn kho và chi phí kho bãi do giảm được chi phí lưu kho để đáp ứng
được yêu cầu của khách hàng. Những hoạt động có mối liên hệ bên trong này
bao gồm: vận tải, phân phối, nhập kho hàng thành phẩm, định mức hàng tồn
kho, đóng gói và giải quyết khâu nguyên liệu.
2.2.2 Hệ thống Logistics - Logistics System
Trong suốt những năm 70 và 80 của thế kỷ 20, các công ty đã bắt đầu
nhận ra rõ ràng hơn những khoản tiết kiệm phụ thêm có thể thu được nhờ việc
kết hợp những khía cạnh hướng nội (inbound) - liên quan đến quản lý nguyên
vật liệu và khía cạnh hướng ngoại (outbound) - chính là hoạt động phân phối
vật chất. Sự kết hợp của hai mặt trong và ngoài doanh nghiệp này được mô tả
là hệ thống logistics của công ty.
Bốn nhân tố đóng góp và sự phát triển của những khái niệm liên quan
đến logistics đó chính là sự toàn cầu hoá trong mua bán hàng hoá và các dịch
vụ vận tải; sự cạnh tranh toàn cầu; các nguồn cung cấp đa dạng và công nghệ
thông tin.
Logistics là một trách nhiệm khó khăn nhất của một công ty. Nó được
‘kéo’ và ‘đẩy’ một cách liên tục từ nhiều hướng khác nhau, cả từ bên trong
lẫn bên ngoài: việc bán hàng, kế toán, hoạt động kinh doanh, mua bán, khách
hàng, người bán hàng lẻ, người chuyên chở…Nhân tố làm cho nhiệm vụ càng
khó khăn hơn đó là sự mâu thuẫn trong trách nhiệm logistis - kiểm soát chi
phí và tối đa hoá các dịch vụ. Rất nhiều nhà lãnh đạo của các công ty không
hiểu rõ logistics là gì hay nó thực sự là về cái gì. Rất khó có thể đo đếm được
thành công trong logistics. Khó có thể chỉ ra được những cống hiến của hệ

thống cho công ty và những giá trị gia tăng mà hệ thống đã tạo ra. Cần phải
nắm ngay lấy những số liệu, nhiều nguồn và biện pháp khác nhau. Dịch vụ
này không có trong bất kì một bản kê tài chính nào. Nhưng sự hiệu quả của
logistics còn hơn là về chi phí và giảm chi phí. Đó chỉ là một phương diện rất
hẹp và gián tiếp của logistics.
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Cần phải mở rộng phát triển các biện pháp đánh giá. Nhưng có thể
những biện pháp đó được nhìn nhận theo chủ nghĩa hoài nghi và cá nhân. Có
thể điều duy nhất mà công ty có thể nhớ được đó là vấn đề cuối cùng hoặc sai
lầm xảy ra với một đơn đặt hàng hoặc gửi hàng. Trong một số trường hợp nào
đó có thể là một thất bại hoàn toàn. Nếu điều đó là chưa đủ phiền toái thì
thêm vào đó, nhiều công ty còn có nhận thức sai lầm rằng logistics chỉ là một
hoạt động không được mong muốn nhưng vẫn phải chấp nhận vì lý do thực tế
và không cần phải có nhiều kỹ năng mới thực hiện được nó.
Sự thành công trong nền kinh tế toàn cầu phụ thuộc rất nhiều vào khả
năng đạt được ưu thế cạnh tranh logistics toàn cầu thực sự mạnh hơn của công
ty. Để đáp ứng được mong muốn, yêu cầu ngày càng tăng của khách hàng,
công ty cần phải luôn đứng đầu trong chiến lược kinh tế ở bất kỳ thị trường
nào, tuy nhiên khi một công ty hoà nhập vào thị trường toàn cầu - một thị
trường của người tiêu dùng, công ty phải đối mặt với những phức tạp mới đặc
biệt là khi khách hàng của các công ty là một trong các thị trường đang nổi.
Những khách hàng dù là ở thị trường nội địa hay ở bất kỳ đâu đều mong
muốn việc giao hàng được tiến hành một cách nhanh chóng với thời gian
quay vòng từ khi đặt hàng đến khi nhận được hàng ngắn. Hơn nữa, khách
hàng cũng mong muốn được cung cấp hàng với khâu bảo hành hiệu quả.
Nếu một sản phẩm được nhà sản xuất bảo hành thì khi người tiêu dùng
phát hiện khiếm khuyết của hàng hoá, chính lúc này nhiệm vụ của hệ thống
logistics là phải lên kế hoạch để thực hiện cam kết của công ty. Việc gửi lại

một thiết bị nào đó về công ty và tái xuất khẩu có thể tốn chi phí vào khoảng
80% giá trị của hàng hoá đó. Đây chỉ là một ví dụ về một khâu trong quy trình
thực hiện của hệ thống logistics từ khâu nguyên vật liệu, đặt hàng thông qua
logistics nội bộ, các hợp đồng, nhập kho, phân phối, thoả mãn yêu cầu của
khách hàng cuối cùng. Những lợi thế cạnh tranh về logistics toàn cầu có nghĩa
là phải áp dụng những giải pháp logistics hàng đầu, những dịch vụ thực tế tốt
nhất nhằm vượt qua được cả sự mong đợi của khách hàng và các đổi thủ cạnh
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
13
Chuyên đề tốt nghiệp
tranh về cả chất lượng, giá cả, giao hàng và các yếu tố giá trị gia tăng vượt
qua bất cứ ranh giới nào ở bất kì đâu trên thế giới.
2.2.3. Quản lý chuỗi cung cấp - Supply Chain Management (SCM)
Quản lý chuỗi cung cấp - SCM có thể được miêu tả là một thuật ngữ
chiến lược về việc hiểu và quản lý một chuỗi các hoạt động từ người cung cấp
- đến người sản xuất - cho đến khách hàng cùng với các chứng từ có liên
quan, giám sát và điều hành hệ thống có thể tăng giá trị cho sản phẩm. Thuật
ngữ này đưa vào xem xét tầm quan trọng của việc mở rộng mối quan hệ với
những đối tác và sự liên kết giữa những nhà sản xuất và người cung cấp của
họ (vendors), mối liên hệ giữa khách hàng và các bên cung cấp dịch vụ
logistics có liên quan khác, ví dụ như các công ty vận tải, nhập kho và những
nhà cung cấp công nghệ thông tin. Vì các công ty đã bắt đầu nhận ra triển
vọng của sự thống nhất cả chiều ngang lẫn chiều dọc giữa các bên tham gia
trong hoạt động thương mại quốc tế nên điều này đã dẫn đến sự hình thành
một dạng logistics mới - một mô hình mới được biết đến với cái tên là quản lý
chuỗi cung cấp - supply chain management (SCM).
Trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp đã tranh luận và đưa ra
một thoả thuận ngắn hạn nhằm tiến hành một cuộc cách tân trong quản lý
chuỗi cung cấp - SCM, nâng cao chất lượng vượt qua cả sự mong đợi của
khách hàng, sử dụng dịch vụ logistics của bên thứ ba, hợp nhất quy trình, đổi

mới trong sự cộng tác với các nhà cung cấp, các mục tiêu ISO, TQM, JIT, sự
cải tiến không ngừng, tái tổ chức các công việc kinh doanh…Đó là toàn bộ
những giải pháp hoàn toàn có cơ sở nhưng chỉ một số ít công ty là thiết lập
những cam kết dài hạn hoặc thực sự thay đổi nhận thức cố hữu trong nội bộ
doanh nghiệp đủ để tiến hành thực hiện những cách thức mới nhằm hợp nhất
và quản lý toàn bộ kênh cung cấp dịch vụ.
Bán hàng và quản lý chuỗi cung cấp - Purchasing and suppy
management. Những người cung cấp cần phải được nắm rõ kế hoạch sản xuất
và nhu cầu trong chuỗi cung cấp. Việc bán hàng và quản lý chuỗi cung cấp
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
14
Chuyên đề tốt nghiệp
diễn ra trong mọi khâu của chuỗi cung cấp. ở từng cấp độ các chuyên gia về
logistics thực hiện những trách nhiệm của họ về việc đặt hàng và nhận hàng
cho các thương vụ bắt đầu từ việc lựa chọn người cung cấp cho đến khi thoả
mãn được nhu cầu của khách hàng. Khi việc thông tin kết nối trong chuỗi bị
đứt đoạn thì có thể dẫn đến những chức năng cung cấp rời rạc trong cả chuỗi
cung cấp. Việc những người thực hiện việc mua hàng, đặt hàng và các nguồn
dự trữ diễn ra quá thường xuyên trong khi họ biết rằng đã có thừa hàng hoá
dự trữ trong chuỗi cung cấp. Việc mua hàng được thực hiện tốt không chỉ là
mua được ở giá có lợi nhất của những người cung cấp mà cần phải nắm rõ
được lượng hàng tồn kho còn với số lượng bao nhiêu và ở đâu.
Logistics chuỗi cung cấp. Việc hợp lý hoá những điểm nút trong chuỗi
cung cấp và vượt lên trên việc chỉ ‘phiên dịch’ quá trình lắp ráp, sản xuất và
phân phối những điểm nút của một công ty chính là nhìn nhận sau cùng của
những chuyên gia về Logistics chuỗi cung cấp. Lấy một thí dụ, hiện nay nhiều
thương vụ thực hiện với các khách hàng nhằm cân đối số lượng sắp xếp các
điểm nút sắp xếp hàng tồn kho. Những người thực hiện các thương vụ đó
nhận ra rằng chính khách hàng cũng có số hàng tồn kho gần như ngang bằng
với lượng hàng tồn kho của người sản xuất, người cung cấp của họ và của

người trung gian. Những hàng tồn kho trong quá trình quá cảnh và ở những
‘điểm dừng trước khi vượt rào’ trong chuỗi cung cấp cần phải được phân tích
để tổ chức, sắp xếp hợp lý hoá Logistics chuỗi cung cấp.
Hệ thống kinh doanh và chuỗi cung cấp trình tự ngược - Reverse
business and supply chain system. Một lĩnh vực trong vận dụng chuỗi cung
cấp thường bị bỏ qua đó chính là Logistics trình tự ngược. Sự tái chế của bộ
phận ắc quy ô tô chính là một ví dụ minh hoạ cho vai trò của hệ thống kinh
doanh và các chuỗi cung cấp trình tự ngược mang tính đa cấp bậc và liên
doanh nghiệp. Định hướng người sử dụng cuối cùng cho bộ nạp năng lượng
tự động có ưu điểm cả về môi trường và tính kinh tế, tăng khả năng tái sử
dụng của nguyên vật liệu trong khi vẫn giữ được mức chi phí thấp. Kết quả
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
15
Chuyên đề tốt nghiệp
cuối cùng chính là xấp xỉ 95% các đường dẫn được sử dụng trong hệ thống
năng lượng mới làm bằng nguyên liệu tái chế được.
Như vậy, quản lý chuỗi cung cấp, qua nhiều cách giải thích và nhận
thức khác nhau có thể đạt được nhờ mối quan mới hệ giữa những đối tác làm
ăn, những thành tựu công nghệ tiên tiến và những phân tích và tái tổ chức
công việc có giá trị. Những sự đổi mới này đã liên tục làm thay đổi nhận thức
về SCM, đặc biệt là những nhận thức về các chức năng khác nhau của
logistics và những đối tác trong chuỗi cung cấp.
3. Sự cần thiết phát triển logistics trong doanh nghiệp
Thứ nhất, chi phí vận tải tăng nhanh, các phương thức phân phối truyền
thống ngày càng đắt đỏ hơn, vì vậy cần phải chú ý tới việc kiểm soát chặt chẽ
những chí phí này vào những năm 70 của thế kỷ 20. Kiểm soát chi phí vận tải
ngày càng cần thiết hơn do giá nhiên liệu tăng vọt. Vận tải lúc này không thể
được coi là một nhân tố ổn định trong phương án kinh doanh của các doanh
nghiệp nữa. Như vậy thực tế đòi hỏi phải có nghệ thuật quản lý ở cấp độ cao
hơn để can thiệp vào những lĩnh vực liên quan đến vận tải cả trong lĩnh vực

chính sách cũng như quá trình thực hiện.
Thứ hai, hiệu quả trong sản xuất đã đạt tới đỉnh cao, vì vậy khó có thể
tìm thêm những biện pháp nhằm tiết kiệm thêm nữa những chi phí từ sản
xuất. Vì vậy muốn tối ưu hóa quá trình sản xuất vật chất, các doanh nghiệp
cần phải tìm kiếm một giải pháp khác- “phân phối vật chất” và “logistics”,
lĩnh vực hầu như chưa được khai phá.
Thứ ba, trong nhận thức của các doanh nghiệp đã có sự thay đổi cơ bản
về nguyên lý trữ hàng. Có thời kỳ các nhà bán lẻ nắm giữ khoảng một nửa
hàng thành phẩm, nửa còn lại các nhà bán buôn và sản xuất nắm giữ. Vào
những năm 50 của thế kỷ XX, nhiều kỹ thuật kiểm soát hàng tồn kho đã được
áp dụng, đặc biệt là trong kinh doanh tạp hóa, đã làm giảm lượng hàng hóa
trong kho, thay đổi tỷ lệ nắm giữ hàng hóa của các nhà bán lẻ xuống còn 10%
còn các nhà phân phối và sản xuất nắm giữ 90%.
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ tư, các ngành sản xuất gia tăng nhanh chóng. Đây là kết quả trực
tiếp nguyên lý cơ bản của Marketing “cung cấp cho khách hàng những sản
phẩm cụ thể mà họ yêu cầu”. Điều này phản ánh đa dạng và phức tạp nhu cầu
của khách hàng, vì vậy phải có phương pháp quản lý quá trình phân phối
trước nhu cầu đa dạng và phức tạp của khách hàng.
Thứ năm, công nghệ thông tin đã tạo nên sự thay đổi lớn trong sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Việc quản lý cách thức thực hành logistics đòi
hỏi phải có một khối lượng lớn chi tiết và dữ liệu như vị trí của mỗi khách
hàng; nhu cầu của từng đơn hàng; vị trí nơi sản xuất, nhà kho và các trung
tâm phân phối; chi phí vận tải; lượng hàng tồn kho… Tất cả các thông tin này
làm cho việc phân tích thủ công không thể thực hiện được. Công nghệ thông
tin mà cụ thể là máy vi tính đã giúp hiện thực hóa khái niệm phân phối vật
chất và logistics.
Thứ sáu, yếu tố này cũng liên quan đến sự gia tăng của sử dụng máy vi

tính, bởi vì doanh nghiệp dù không sử dụng máy vi tính thì các nhà cung cấp
và khách hàng của họ vẫn sử dụng. Điều này tạo cho doanh nghiệp nhận thấy
được một cách có hệ thống chất lượng của các dịch vụ mà họ nhận được từ
các nhà cung cấp. Dựa trên phân tích này, nhiều doanh nghiệp đã xác định
được nhà cung cấp nào thường xuyên cung cấp các dịch vụ có chất lượng
dưới mức tiêu chuẩn. Nhiều doanh nghiệp nhận thấy sự cần thiết phải nâng
cấp hệ thống phân phối của mình. Và khi các doanh nghiệp chuyển sang áp
dụng hệ thống JIT (Just in time) thì họ cũng đặt ra cho các nhà cung cấp một
yêu cầu rất chính xác về vận chuyển nguyên vật liệu hoặc giao hàng.
II- Đặc điểm và vai trò của logistics
1. Đặc điểm của logistics
Logistics có thể coi là tổng hợp các hoạt động của doanh nghiệp trên
các khía cạnh chính, đó là logistics sinh tồn; logistics hoạt động và logistics hệ
thống.
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
17
Chuyên đề tốt nghiệp
- Logistics sinh tồn có liên quan đến các nhu cầu cơ bản của cuộc sống.
Tại bất kỳ thời điểm nào, trong bất cứ môi trường nào, logistics sinh tồn cũng
tương đối ổn định và có thể dự đoán được. Con người có thể nhận thức được
nhu cầu như: cần gì, cần bao nhiêu, khi nào cần và cần ở đâu… Logistics sinh
tồn là hoạt động cơ bản của các xã hội sơ khai và là một thành phần thiết yếu
trong một xã hội công nghiệp hóa. Logistics sinh tồn cung cấp nền tảng cho
logistics hoạt động.
- Logistics hoạt động mở rộng các nhu cầu cơ bản bằng cách liên kết
các hệ thống sản xuất các sản phẩm.Logistics liên kết các nguyên liệu thô
doanh nghiệp cần trong quá trình sản xuất, các dụng cụ sử dụng nguyên liệu
đó trong quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm có được từ sản xuất. Khía
cạnh này của logistics cũng tương đối ổn định và có thể dự đoán được. Nhưng
logistics hoạt động lại không thể dự đoán được khi nào máy móc có sự cố, để

sửa chữa thì cần có cái gì và thời gian sửa chữa…Như vậy logistics hoạt động
chỉ liên quan tới sự vận động và lưu kho của nguyên vật liệu vào trong, qua
và đi ra khỏi doanh nghiệp và là nền tảng cho logistics hệ thống.
- Logistics hệ thống liên kết các nguồn lực cần có trong việc giữ cho hệ
thống hoạt động. Những nguồn lực này bao gồm thiết bị, phụ tùng thay thế,
nhân sự và đào tạo, tài liệu kỹ thuật, các thiết bị kiểm tra, hỗ trợ và nhà
xưởng… Các yếu tố này không thể thiếu và phải được kết hợp chặt chẽ nếu
muốn duy trì sự hoạt động của một hệ thống sản xuất hay lưu thông. Logistics
sinh tồn, logistics hoạt động và logistics hệ thống không tách rời nhau, quan
hệ chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho nhau tạo thành chuỗi dây chuyền
logistics.
Logistics có chức năng hỗ trợ các hoạt động của doanh nghiệp.
Logistics có chức năng hỗ trợ thể hiện ở chỗ nó tồn tại chỉ để cung cấp
sự hỗ trợ cho các bộ phận khác của doanh nghiệp. Logistics hỗ trợ quá trình
sản xuất (logistics hoạt động), hỗ trợ cho sản phẩm sau khi được di chuyển
quyền sở hữu từ người sản xuất sang người tiêu dùng (logistics hệ thống).
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
18
Chuyên đề tốt nghiệp
Logistics còn hỗ trợ các hoạt động của doanh nghiệp thể hiện: sản xuất
được logistics hỗ trợ thông qua quản lý sự di chuyển và lưu trữ nguyên vật
liệu đi vào doanh nghiệp và bán thành phẩm di chuyển trong doanh nghiệp.
Marketing được logistics hỗ trợ thông qua quản lý việc di chuyển và lưu trữ
hàng thành phẩm. Logistics hỗ trợ sản xuất và marketing có thể dẫn đến yêu
cầu phải đào tạo nhân lực, dự trữ phụ tùng thay thế hay bất kỳ một yếu tố nào
khác của logistics.
Logistics là một dịch vụ.
Logistics tồn tại để cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp hoặc cho khách
hàng của doanh nghiệp, dịch vụ, đối với cả doanh nghiệp hay khách hàng đều
được cung cấp thông qua việc tập trung các yếu tố khác nhau, các yếu tố này

là các bộ phận tạo thành chuỗi logistics.
Dịch vụ logistics trong doanh nghiệp chú trọng đến các yếu tố về quản
trị nguyên vật liệu, lưu kho trong nhà máy và phân phối vật chất. Tuy nhiên
trong hoạt động của doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở yêu cầu các yếu tố cơ
bản mà dịch vụ logistics cung cấp trên đây mà có thể cần cung cấp thêm các
dịch vụ khác của logistics.
Logistics là sự phát triển cao, hoàn chỉnh của dịch vụ vận tải giao nhận:
vận tải giao nhận gắn liền và nằm trong logistics.
Logistics là sự phát triển của dịch vụ vận tải giao nhận ở trình độ cao
và hoàn thiện. Qua các giai đoạn phát triển, logistics đã làm cho các khái
niệm vận tải giao nhận truyền thống ngày càng đa dạng và phong phú. Từ chỗ
thay mặt khách hàng để thực hiện các công việc đơn điệu, lẻ tẻ, tách biệt như:
thuê tàu, chuẩn bị hàng, đóng gói, tái chế hàng, làm thủ tục thông quan… cho
tới cung cấp trọn gói một dịch vụ vận chuyển từ kho đến kho đúng nơi đúng
lúc để phục vụ nhu cầu khách hàng. Từ chỗ đóng vai trò là đại lý, người ủy
thác trở thành một bên chính trong các hoạt động vận tải giao nhận với khách
hàng, chịu trách nhiệm trước các nguồn luật điều chỉnh đối với hành vi của
mình. Không phải như trước kia chỉ cần vài xe tải, kho chứa hàng… là có thể
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
19
Chuyên đề tốt nghiệp
triển khai cung cấp dịch vụ vận tải giao nhận cho khách hàng. Ngày nay, yêu
cầu dịch vụ cung cấp cho khách hàng đa dạng, phong phú, người cung cấp
dịch vụ phải tổ chức quản lý một hệ thống đồng bộ từ giao nhận đến vận tải,
cung ứng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo quản hàng hóa
trong kho, phân phối hàng hóa đúng nơi, đúng lúc, sử dụng thông tin điện tử
để theo dõi, kiểm tra… Rõ ràng dịch vụ vận tải giao nhận không còn đơn
thuần như trước mà được phát triển ở mức độ cao với đầy tính phức tạp.
Người vận tải giao nhận trở thành người cung cấp dịch vụ logistics.
Logistics là sự phát triển hoàn thiện dịch vụ vận tải đa phương thức.

Dịch vụ logistics chính là sự phát triển sâu rộng của dịch vụ vận tải đa
phương thức. Toàn bộ hoạt động vận tải có thể được thực hiện theo một hợp
đồng vận tải đa phương thức và sự phối hợp mọi chu chuyển của hàng hóa do
người tổ chức dịch vụ logistics đảm nhiệm. Điểm giống nhau ở chỗ, trên cơ
sở nhiều hợp đồng mua bán, người tổ chức dịch vụ logistics sẽ nhận hàng tại
cơ sở của từng người bán, gom hàng thành nhiều đơn vị, gửi hàng tại kho hay
nơi xếp dỡ hàng trước khi chúng được gửi đến nước ngoài trên các phương
thức vận tải khác nhau. Tại nước người mua, người tổ chức dịch vụ logistics
sẽ thu xếp tách thành các đơn vị gửi hàng và hình thành các chuyến hàng
thích hợp để phân phối đi đến những địa chỉ cuối cùng theo yêu cầu của
khách hàng.
Tóm lại, logistics là sự phối hợp đồng bộ các hoạt động, là dịch vụ hỗ
trợ các hoạt động, là sự phát triển cao, hoàn thiện của dịch vụ giao nhận vận
tải và là sự phát triển khéo léo của dịch vụ vận tải đa phương thức. Đây chính
là những đặc điểm cơ bản của logistics.
2.Vai trò của logistics
Từ những điều trình bày ở trên cho thấy logistics là một chức năng kinh
tế có ảnh hưởng sâu rộng đến toàn xã hội. Trong thời đại ngày nay người ta
luôn mong muốn những dịch vụ hoàn hảo thoả mãn tối đa nhu cầu với chi phí
nhỏ nhất và điều đó sẽ đạt được khi phát triển logistics.
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
20
Chuyên đề tốt nghiệp
2.1. Đối với nền kinh tế
Một nghiên cứu gần đây của trường Đại học Quốc gia Michigan (Hoa
Kỳ) cho thấy, chỉ riêng hoạt động logistics đã chiếm từ 10-15% GDP của hầu
hết các nước lớn ở Châu Âu, Bắc Mỹ và một số nền kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương. Vì vậy nếu nâng cao hiệu quả hoạt động logistics thì sẽ góp
phần quan trọng nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.
Logistics hỗ trợ cho luồng chu chuyển các giao dịch kinh tế. Nền kinh

tế chỉ có thể phát triển nhịp nhàng, đồng bộ một khi dây chuyền logistics hoạt
động liên tục, nhịp nhàng. Hàng loạt các hoạt động kinh tế liên quan diễn ra
trongg chuỗi logistics, theo đó các nguồn tài nguyên được biến đổi thành sản
phẩm và điều quan trọng là giá trị được tăng lên cho cả khách hàng lẫn người
sản xuất, giúp thoả mãn nhu cầu của mỗi người.
2.2. Đối với các doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp, logistics có vai trò rất to lớn. Logistics giúp
giải quyết cả đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nhờ có
thể thay đổi các nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hoá quá trình chu
chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ…Logistics giúp giảm chi phí, tăng
khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Có nhiều doanh nghiệp thành công
lớn nhờ có được chiến lược và hoạt động logistics đúng đắn. Ngược lại có
không ít doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí thất bại, phá sản do có những
quyết định sai lầm trong hoạt động logistics. Ví dụ: chọn sai vị trí, chọn
nguồn tài nguyên cung cấp sai, dự trữ không phù hợp, tổ chức vận chuyển
không hiệu quả.
Ngày nay, để tìm được vị trí tốt hơn, kinh doanh hiệu quả hơn, các tập
đoàn đa quốc gia, các công ty đủ mạnh đã và đang nỗ lực tìm kiếm trên toàn
thế cầu nhằm tìm được nguồn nguyên liệu, nhân công, vốn, bí quyết công
nghệ, thị trường tiêu thụ, môi trường kinh doanh… tốt nhất và thế là logistics
toàn cầu hình thành và phát triển.
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài ra, logistics còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động marketing, đặc biệt
là marketing hỗn hợp (4P-Right Product, Right Price, Proper Promotion,
Right Place). Chính logistics đóng vai trò then chốt trong việc đưa sản phẩm
đến đúng nơi cần đến, vào đúng thời điểm thích hợp: sản phẩm/dịch vụ chỉ có
thể làm thoả mãn khách hàng và có giá trị khi và chỉ khi nó đến được vói
khách hàng đúng thời hạn và địa điểm quy định.

Để thực hiện hoạt động logistics cần có những chi phí nhất định. Hình
sau cho thấy những khoản chi phí cơ bản trong hoạt động logistics.
Sơ đồ 1.1: Cân đối chi phí trong marketing và logistics
Mục tiêu của marketing là tối đa hoá lợi nhuận của công ty về lâu dài.
Còn mục tiêu của logistics là cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng với
tổng chi phí nhỏ nhất. Tổng chi phí được xác định với công thức sau:
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
Sản phẩm
Gía cả Marketing
Vị trí/dịch vụ khách
hàng
Chi phí vận tải Chi phí dự trữ
Chi phí quản lý kho Chi phí dự trữ
Chi phí giải quyết đơn hàng &
thông tin
22
Chuyên đề tốt nghiệp
Tổng chi phí = Chi phí vận tải + Chi phí lưu kho, lưu bãi + Chi phí giải
quyết đơn hàng & cung cấp thông tin + Chi phí sản xuất + Chi phí dự trữ.
Muốn đưa ra quyết định logistics một cách đúng đắn cần cân đối giữa
thu và chi nhằm lựa chọn được phương án đáp ứng nhu cầu tốt nhất với tổng
chi phí nhỏ nhất.
III- Các yếu tố cơ bản của logistics
1. Yếu tố vận tải
Trong các yếu tố cấu thành chuỗi logistics thì vận tải giao nhận là khâu
quan trọng nhất. Chi phí vận tải giao nhận thường chiếm tới hơn 1/3 tổng chi
phí của logistics. Muốn giảm chi phí logistics phải giảm chi phí khâu giao
nhận vận tải từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ khác nhau trên thị trường. Việc
vận tải giao nhận phải đảm bảo thời gian giao hàng, phải đảm bảo cung ứng
nguyên vật liệu cho sản xuất kịp thời, đúng lúc. Từ đó giảm đến mức thấp

nhất chi phí, thiệt hại do lưu kho, tồn đọng sản phẩm để làm giảm chi phí
logistics nói chung.
Vận tải giao nhận là yếu tố rất cần và không thể thiếu được trong
logistics, yêu cầu này xuất phát từ xu hướng chuyên môn hóa trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của xã hội. Vận tải là người cung cấp các phương tiện,
dịch vụ nhằm di chuyển nguồn nguyên liệu đó từ nơi cung cấp tới nơi doanh
nghiệp cần. Tại đó, nguyên liệu được sản xuất, chế biến thành sản phẩm và
vận tải giao nhận lại một lần nữa làm công việc cung cấp hệ thống phân phối
vật chất cho sản phẩm. Như vậy, vận tải giao nhận đảm nhận việc di chuyển
nguyên liệu vào trong doanh nghiệp sau đó phân phối sản phẩm từ doanh
nghiệp ra thị trường đã tạo thành một vòng tuần hoàn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Yếu tố Marketing
Marketing cũng là một yếu tố cơ bản của logistics. Như đã đề cập ở
trên “logistics là một phần của quá trình cung ứng hàng hóa, theo đó lên kế
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
23
Chuyên đề tốt nghiệp
hoạch, thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả luồng hàng và việc cất trữ
hàng hóa và các thông tin có liên quan từ giai đoạn khởi đầu cho tới khi tiêu
thụ nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng”. Như vậy điều quan trọng ở khái
niệm này có thể thấy, tất cả các hoạt động cuối cùng đều tập trung vào khách
hàng- khách hàng là “thượng đế”. Vì vậy trong logistics điểm được nhấn
mạnh nằm ở dịch vụ hiệu quả dành cho khách hàng. Việc chuyển hướng sang
nền kinh tế thị trường, nơi khách hàng là “ thượng đế” là một cuộc cách mạng
lớn trong sản xuất kinh doanh. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải thay đổi tư
duy về marketing, phải điều tra nghiên cứu thị trường, nhu cầu thị trường cần
gì? Bao nhiêu?để có kế hoạch sản xuất và cung cấp sản phẩm đáp ứng nhu
cầu thị trường. “Bán cho khách hàng cái mà họ cần” đã trở thành phương
châm kinh doanh mới.

3.Yếu tố phân phối
Phân phối là một yếu tố cơ bản không thể thiếu được trong chuỗi dây
chuyền của logistics. “Phân phối” là một khái niệm phản ánh sự di chuyển
hàng hóa của một doanh nghiệp (người sản xuất, người kinh doanh hay bất kỳ
một người có hàng hóa nào khác). Nó bao gồm sự di chuyển của hàng hóa
giữa các phương tiện khác nhau, qua biên giới của một hay nhiều nước, qua
nhiều địa điểm khác nhau, trong đó sự phối hợp các hoạt động và các chức
năng khác nhau được nhấn mạnh nhằm mục đích loại bỏ các gián đoạn trong
hành trình liên tục của hàng hóa từ giai đoạn sản xuất đến khi hàng hóa đến
tay người tiêu dùng cuối cùng. Logistics sẽ phối hợp toàn bộ quá trình cung
ứng, sản xuất, phân phối thành một dòng chảy nhịp nhàng.
4. Yếu tố quản trị
Trong hệ thống logistics, quản trị có vai trò hết sức quan trọng. Hoạt
động logistics nếu không có yếu tố kiểm tra, giám sát sẽ không đạt được mục
đích đặt ra. Vấn đề quản trị trong logistics được thể hiện qua hoạt động của
những nhà quản trị logistics. Nhà quản trị logistics có trách nhiệm và vai trò
rất lớn. Họ là những người vừa có chuyên môn sâu đồng thời phải có sự hiểu
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
24
Chuyên đề tốt nghiệp
biết rộng. Ở khía cạnh thứ nhất, nhà quản trị logistics phải hiểu biết về các
loại hình vận tải, cước phí vận tải, tình hình kho bãi, vấn đề lưu kho lưu bãi,
tình hình cung ứng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, phân phối, các kênh
phân phối và thị trường… Ở khía cạnh thứ hai, nhà quản trị logistics phải hiểu
biết về mối quan hệ giữa tất cả các chức năng của logistics, đồng thời phải
liên kết, phối hợp hài hòa hoạt động của logistics với các hoạt động khác
trong doanh nghiệp cũng như với các doanh nghiệp khác và khách hàng.
5. Yếu tố kho bãi, nhà xưởng
Kho bãi nhà xưởng và các hoạt động khác có liên quan, đại diện cho
một yếu tố quan trọng của logistics và là sự kết nối cơ bản trong kênh

logistics. Toàn bộ quá trình sản xuất, từ nguyên vật liệu nhập vào cho tới hàng
thành phẩm đều cần phải có kho bãi, nhà xưởng. Sự cần thiết của kho bãi, nhà
xưởng bắt nguồn từ nhu cầu lưu trữ nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất,
thành phẩm trước khi đưa vào phân phối, kể cả phụ tùng thay thế hay sửa
chữa phục vụ máy móc thiết bị trong quá trình sản xuất hay sản phẩm bị hư
hỏng… Yêu cầu về lưu trữ là một nhân tố quan trọng khi quyết định loại và
quy mô của kho bãi, nhà xưởng.
6. Yếu tố nhân lực và đào tạo nhân lực
Đào tạo nhân lực được coi là yếu tố đòi hỏi chi phí lớn nhất trong
logistics. Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phức tạp, hàm lượng khoa học
công nghệ cao… đòi hỏi lực lượng lao động phải được đào tạo kỹ, đầy đủ
kiến thức chuyên môn và tay nghề cao. Chương trình đào tạo phải được xây
dựng và phát triển phù hợp với sản phẩm sản xuất ra, với tài liệu kỹ thuật
được áp dụng trong sản xuất, bảo dưỡng sửa chữa các thiết bị hỗ trợ kiểm tra.
Yêu cầu đào tạo phải đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, đúng nơi, đúng lúc.
Việc tuyển chọn cùng với đào tạo hiệu quả được thiết kế và liên kết với tổng
thể hoạt động logistics phục vụ mục tiêu của doanh nghiệp sẽ giúp giảm thiểu
chi phí cho yếu tố logistics này.
Hà Thị Hải Yến - Thương mại 46A
25

×