Mở đầu
Trong cơ chế thị trường hiện nay bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải có
một chiến lược kinh doanh riêng cho mình nhằm nâng cao vị thế của mình trên
thị trường, không những thế đó cũng là một giải pháp để giữ lại chỗ đứng cho
thương hiệu của Công ty mình trên thi trường. Vì vậy các doanh nghiệp luôn
luôn đổi mới, luôn luôn thay đổi cách nhìn để tạo ra sự khác biệt trong từng giải
pháp cạnh tranh.
Hiện nay với một tốc độ phát triến quá nhanh của thị trường,không một lĩnh
vực nào là duy nhất.Cụ thể là nghành Bưu chính,từ nhiều năm nay,Bưu chính đã
phát triển một cách ồ ạt và với tốc độ rất nhanh nhất là từ khi Việt Nam ra nhập
tổ chức Thương mại thế giới WTO
Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Bưu chính Viettel – một cái tên
quen thuộc trong thị trường bưu chính Việt Nam. Là một trong những nhà cung
cấp dịch vụ bưu chính hàng đầu Việt Nam. Để đạt được như thế, họ đã không
ngừng phấn đấu, không ngừng tìm tòi, nêu ra các giải pháp cạnh tranh hữu hiệu
để đưa được vị thế của Công ty lên như ngày hôm nay. Vì vậy, tôi đã quyết định
lựa chọn đề tài : “Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty TNHH
Nhà nước một thành viên Bưu chính Viettel” làm chuyên đề tốt nghiệp của
mình.
Chuyên đề tốt nghiệp gồm các phần sau:
Chương I_ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG
TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN BƯU CHÍNH VIETTEL.
I.Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty TNHH nhà nước một thành
viên Bưu chính Viettel.
1. Sự hình thành và phát triển của Tổng công ty Viễn thông Quân đội.
1.1. Sự hình thành.
Ngày 01/06/1989 Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 58/HĐBT quyết định
thành lập Tổng Công ty Thiết bị Thông tin. Vào ngày 20/6/1989 Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng ký quyết định số 189/QĐ-QP về việc qui định nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Tổng Công ty Điện tử thiết bị thông tin; là Doanh nghiệp
Nhà nước trực thuộc Binh chủng Thông tin Liên lạc - Bộ Quốc phòng.
Ngày 21/3/1991 theo Quyết định 11093/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng, về
thành lập Công ty Điện tử Thiết bị Thông tin và Tổng hợp phía Nam trên cở sở
Công ty Điện tử Hỗn hợp II (là một trong ba đơn vị được thành lập theo Quyết
định 189/QĐ-QP ngày 20/6/1989); Ngày 27/7/1991 theo quyết định số 336/QĐ-
QP của Bộ quốc phòng, về thành lập lại DNNN, đổi tên thành Công ty Điện tử
Thiết bị Thông tin, tên giao dịch SIGELCO.
Ngày 27/7/1993, Bộ quốc phòng ra quyết định số 336/QĐ - QP thành lập lại
doanh nghiệp Nhà nước Công ty Điện tử và thiết bị thông tin thuộc Bộ tư lệnh
thông tin liên lạc. Công ty Điện tử và thiết bị thông tin được phép kinh doanh
các ngành nghề: Xuất nhập khẩu các sản phẩm công nghệ; khảo sát, thiết kế, lắp
ráp các công trình thông tin, trạm biến thế; lắp ráp các thiết bị điện và điện tử.
Ngày 13/6/1995 Thủ tướng Chính phủ ra thông báo số 3179/TB-Ttg cho
phép thành lập Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội. Căn cứ vào thông báo này,
ngày 14/7/1995 Bộ Quốc phòng ra quyết định 615/QĐ-QP, đổi tên Công ty điện
tử thiết bị thông tin thành Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội, tên giao dịch
quốc tế là VIETEL. Ngày 18/9/1995 Bộ tổng tham mưu ra quyết định số
537/QĐ-TM qui định cơ cấu tổ chức của Công ty Điện tử Viễn Thông Quân đội.
Ngày 19/4/1996 Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội được thành lập theo
quyết định số 522/QĐ-QP trên cơ sở sát nhập 3 đơn vị: Công ty Điện tử Viễn
thông Quân đội, Công ty Điện tử và thiết bị thông tin 1, Công ty Điện tử và thiết
bị thông tin 2. Theo đó ngoài ngành nghề kinh doanh truyền thống Công ty Điện
tử Viễn thông Quân đội được bổ sung kinh doanh trên lĩnh vực bưu chính viễn
thông trong và ngoài nước.
Ngày 28/10/2003, Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội được đổi tên thành
Công ty Viễn thông Quân đội, tên giao dịch quốc tế là VIETTEL
CORPORATION và bổ sung ngành nghề kinh doanh theo quyết định số
262/QĐ-BQP của Bộ Quốc phòng.
Thực hiện QĐ số 43/2005/QĐ-TTg ngày 2/3/2005 của TTCP và QĐ số
45/2005/QĐ-BQP ngày 6/4/2005 của Bộ trưởng BQP về thành lập Tổng Công ty
VTQĐ trên cơ sở tổ chức lại Công ty VTQĐ. Ngày 1/6/2005, Công ty Viễn
Thông Quân Đội được đổi tên thành Tổng Công Ty Viễn Thông Quân Đội
Viettel, tên giao dịch quốc tế là VIETTEL CORPORATION.
1.2. Quá trình phát triển:
Năm 2000 Thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ bưu chính quốc tế; kinh doanh
thử nghiệm dịch vụ điện thoại đường dài trong nước sử dụng công nghệ mới
VoIP.
Năm 2001 Chính thức cung cấp rộng rãi dịch vụ điện thoại đường dài trong
nước và quốc tế sử dụng công nghệ mới VoIP và cung cấp dịch vụ cho thuê kênh
truyền dẫn nội hạt và đường dài trong nước.
Năm 2002 Cung cấp dịch vụ truy cập Internet ISP và dịch vụ kết nối Internet
IXP.
Năm 2003 Thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ điện thoại cố định PSTN; triển
khai thiết lập mạng thông tin di động; thiết lập Cửa ngõ Quốc tế và cung cấp
dịch vụ thuê kênh quốc tế.
Năm 2004 Chính thức cung cấp dịch vụ điện thoại di động trên toàn quốc với
Mạng Viettel Mobile 098.
Trụ sở chính của Công ty tại:
Số 1 đường Giang Văn Minh - Quận Ba Đình - Hà nội.
Điện thoại: (84)-266.0064
Fax(84) – 266.00634
Website: .
Đến nay Công ty đã trải qua 17 năm xây dựng và trưởng thành với hơn 4000
cán bộ công nhân viên, gồm nhiều Kỹ sư, Thạc sỹ, Tiến sỹ với nhiều kinh
nghiệm thực tế trong công tác quản lý và kinh doanh.
2. Sự hình thành và phát triển của Công ty TNHH Nhà nước một thành viên
Bưu chính Viettel
Giữa năm 1981, Tổng Công ty Thiết bị thông tin, tiền thân của Công ty Điện tử
Viễn thông Quân đội (nay là Tổng Công ty Viễn thông quân đội), thuộc Bộ Tư
lệnh Thông tin Liên lạc ra đời, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Binh chủng,
quân đội và xây dựng đất nước trong thời kỳ mới. Trong quá trình sản xuất, kinh
doanh, Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội được phép phát triển các dịch vụ
bưu chính trong cả nước và đi quốc tế. Sau một thời gian tích cực, khẩn trương
chuẩn bị, ngày 01 tháng 07 năm 1997, Bộ phận phát hành báo chí của Công ty –
tổ chức tiền thân của Trung tâm Bưu Chính, nay là Công ty Bưu chính Viettel
được thành lập và đi vào hoạt động, mở ra triển vọng phát triển lâu dài của dịch
vụ bưu chính, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội và thiết thực góp phần phát
triển sản xuất kinh doanh của Công ty. Tính đến nay Công ty Bưu chính đang
lớn mạnh và khẳng định vị thế của nhà cung cấp dịch vụ bưu chính hàng đầu tại
Việt Nam. Để có được thành công đó chúng ta đi ngược lại chặng đường hình
thành và phát triển Công ty.
Năm 1997:
Căn cứ vào quyết định của Chính phủ, Bộ quốc phòng và quyết định của Tổng
cục Bưu điện, Ủy ban Kế hoạch thành phố Hà Nội về việc cho phép Công ty
Điện tử Viễn thông Quân đội được “mở dịch vụ bưu chính viễn thông trong
nước và ngoài nước”, ngày 01/01/1997, Giám đốc Công ty Điện tử Viễn thông
Quân đội giao cho Phòng Chính trị Công ty phối hợp với các cơ quan chức năng
Binh chủng và Công ty, nghiên cứu xây dựng dự án mở dịch vụ bưu chính.
Phòng Chính trị đã cử cán bộ trực tiếp làm việc với các cơ quan chức năng Tổng
Cục Bưu Điện, cơ quan phát hành báo chí Trung ương và Hà Nội, các cơ quan
đơn vị liên quan, tìm hiểu nghiệp vụ phát hành báo chí, nghiên cứu thị trường,
khả năng sắp xếp nhân sự và các yếu tố bảo đảm, trên cơ sở đó, dự thảo kế hoạch
triển khai dịch vụ bưu chính.
Ngày 01/07/1997, ngày ra đời tổ chức bưu chính đầu tiên và chính thức triển
khai dịch vụ phát hành báo chí thực sự là ngày truyền thống đáng ghi nhớ của
Trung tâm Bưu Chính-Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội.
Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 1997.
Báo cáo của Công ty nêu rõ:
“Công ty đã tích cực, khẩn trương tìm kiếm thị trường, mở rộng dịch vụ mới về
bưu chính, tuy doanh số còn thấp, song mở ra triển vọng cao hơn vào năm sau,
tăng thêm doanh thu, lợi nhuận, việc làm mới”.
Do tích cực triển khai công tác tiếp thị, mạng phát hành báo chí được mở rộng,
phát triển thêm 15 đầu mối tại khu vực Hà Nội. Nhờ vậy, trong những tháng cuối
năm 1997, doanh số tăng gấp 2 lần, lợi nhuận tăng 1,2 lần so với quý III năm
1997.
Năm 1998
Nhờ tăng cường công tác tiếp thị, Bộ phận bưu chính đã mở rộng mạng phát
hành báo chí tới một số đơn vị quân đội đóng quân đội tại các huyện Đông Anh,
Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm (Hà Nội) và khu vực thị xã Hà Đông (Hà Tây).
Đồng thời, ngay từ đầu quý I năm 1998, Bộ phận bưu chính tiếp tục liên hệ, tìm
hiểu nhu cầu về báo chí của các đơn vị thuộc Quân khu 3, Quân đoàn 2, các đơn
vị đóng quân tại thành phố Việt Trì.
Do những cố gắng đó, doanh số trong quý I năm 1998 tăng gấp 2 lần so với quý
IV năm 1997.
Căn cứ văn bản số 3179/ĐM-DN ngày 13/06/1995 của Thủ tướng Chính phủ cho
phép Công ty Điện tư Viễn thông Quân đội kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn
thông, Tổng cục Bưu Điện cấp giấy phép số 109/1998/GP-TCBĐ cho phép Công
ty Điện tử Viễn thông Quân đội “được thiết lập mạng bưu chính và kết nối với
các mạng bưu chính công cộng khác để cung cấp dịch vụ bưu chính: bưu phẩm
(trừ thư tín), bưu kiện và chuyển tiền trên phạm vi toàn quốc”
Giấy phép có giá trị hết ngày 31/01/2018. (Giấy phép do Tổng cục trưởng Tổng
cục Bưu Điện Mai Liêm Trực ký ngày 24/01/1998)
Đồng chí Trần Văn Đãi (nay là Trưởng Phòng Chính trị Tổng Công ty) được bổ
nhiệm làm Giám đốc Trung tâm.
Năm 1999:
Nhằm quán triệt và thực hiện tốt kế hoạch năm 1999 của Công ty, Trung Tâm
Bưu Chính họp, thống nhất những nhiệm vụ trọng tâm của công tác bưu chính
năm 1999 như sau:
- Tập trung mọi nỗ lực củng cố vững chắc mạng lưới phát hành báo chí đã
có, nâng cao chất lượng dịch vụ, tiếp tục nghiên cứu thị trường, mở rộng
mạng lưới, nhất là địa bàn các tỉnh phía Nam. Bảo đảm đạt và vượt doanh
thu và lợi nhuận theo chỉ tiêu của Công ty.
- Tăng cường công tác quản lý, điều hành công tác phát hành các cơ sở.
Tiếp tục hoàn chỉnh và tổ chức triển khai thực hiên quy chế nghiệp vụ bưu
chính. Coi trọng công tác giáo dục, kiểm tra việc thực hiện quy chế, nhất
là những quy định về bảo đảm an toàn, không để nhầm lẫn, mất mát, chậm
thời gian quy định. Thực hiện đầy đủ các chế độ quy định về thanh quyết
toán tài chính.
- Nghiên cứu, báo cáo Công ty về tổ chức biên chế của Trung tâm, báo đảm
thực hiện nhiệm vụ kinh doanh ngày càng phát triển.
- Sắp xếp hợp lý thời gian và công việc, tham gia đầy đủ và hiệu quả mọi
hoạt động chung của Công ty và Binh chủng.
Năm 2000
Đảng ủy Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội ra nghị quyết số 01/NQ-ĐU.
“Đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết năm 1999 và phương hướng nhiệm vụ
lãnh đạo năm 2000”.
Đánh giá kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh doanh dịch vụ phát hành báo
chí năm 1999, nghị quyết nêu rõ: “Công ty bắt đầu triển khai kinh doanh dịch vụ
phát hành báo chí từ quý III năm 1977 tới cuối năm 1999, mạng lưới dịch vụ
phát hành báo chí đã mở rộng tại các địa phương trong cả nước, từ Hà Nội, các
tỉnh phía Bắc tới thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam, không chỉ phục
vụ các đơn vị, cơ quan trong quân đội mà còn phát triển dịch vụ tới các đơn vị,
cơ quan Nhà nước, các cơ sở kinh tế. Nhờ vậy, doanh thu tăng hàng năm, khách
hàng được giữ vững và phát triển, chất lượng dịch vụ bảo đảm tốt, có tín nhiệm
với khách hàng.”.
Về phương hướng nhiệm vụ lãnh đạo dịch vụ bưu chính năm 2000, nghị quyết
Đảng ủy Công ty chỉ rõ:
“Tiếp tục duy trì dịch vụ phát hành báo chí, mở rộng thị trường tại các tỉnh,
thành phố; chuẩn bị đề án dịch vụ chuyển tiền, chuyển phát bưu phẩm, bưu
kiện để triển khai vào các năm sau.
Coi trọng chỉ đạo thực hiện tốt các mặt công tác quản lý, công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công nhân viên, thực hiện tốt các chế độ, chính sách xã hội quy
định. Xây dựng Trung tâm vững về chính trị, tổ chức lực lượng ngày càng kiện
toàn, kỷ luật nghiêm, đoàn kết hiệp đồng tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
bưu chính ngày càng nâng cao, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.
Tư lệnh Binh chủng Thông tin ký quyết định số 101/BHĐ bổ nhiệm đồng chí
Bùi Đức Ngoãn, Phó Giám đốc Trung tâm Bưu chính, giữ chức Giám đốc Trung
tâm Bưu chính-Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội.
Sau khi xem xét dự án cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh bưu phẩm, bưu kiện
do Giám đốc Trung Tâm Bưu Chính trình bày, Giám đốc Công ty Điện tử Viễn
thông Quân đội ra quyết định số 2304/CTĐTVTQĐ, đầu tư dự án “Cung cấp
dịch vụ chuyển phát nhanh bưu phẩm, bưu kiện”.
Quyết định nêu rõ:
-Mục tiêu đầu tư là mở mạng và cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh bưu
phẩm, bưu kiện.
-Chủ đầu tư là Công ty Điện tử Viễn Thông Quân đội.
-Hình thức quản lý dự án: từ thực hiện dự án.
-Tổng mức đầu tư: 350 triệu đồng.
-Thời gian tiến độ thực hiện: Trong tháng 07 năm 2000.
Năm 2001
Ban giám đốc Công ty giao nhiệm vụ kinh doanh dịch vụ bưu chính như năm
2001 cho Trung Tâm Bưu Chính gồm những chỉ tiêu chủ yếu như sau:
-Bảo đảm ổn định và tiếp tục phát triển mạng lưới phát hành báo chí. Nâng
cao chất lượng phục vụ, khắc phục tình trạng nhầm lẫn, trượt tuyến, muộn
báo.
-Tiếp tục mở rộng dịch vụ chuyển phát nhanh, bảo đảm ổn định và nâng cao
chất lượng dịch vụ. Kiên quyết khắc phục tình trạng chậm thời gian, làm hư
hỏng, thất thoát bưu kiện, bưu phẩm.
-Nghiên cứu, đưa vào thử nghiệm dịch vụ mới – bán hàng văn phòng phẩm
trên mạng bưu chính.
- Phấn đấu đạt doanh thu 9.316 triệu đồng, thu nộp lợi nhuận đầy đủ theo chỉ
tiêu của Công ty.
- Quản lý, sử dụng có hiệu quả 150 lao động (bao gồm cán bộ, công nhân
viên trong định biên, lao động hợp đồng ngắn hạn và dài hạn). Bảo đảm thu
nhập bình quân 890.000 đồng/người/tháng. Chăm lo tổ chức đời sống vật
chất, tinh thần cho cán bộ, công nhân viên.
-Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất kiện toàn tổ chức, biên chế cơ quan nghiệp vụ
và các Bưu cục, đại lý cơ sở. Tập trung nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện và
tổ chức thực hiện tốt các chế độ nghiệp vụ bưu chính. Duy trì nghiêm túc các
chế độ nề nếp quản lý, sinh hoạt, học tập, công tác. Xây dựng Trung Tâm
Bưu Chính an toàn tuyệt đối, vững vàng toàn diện.
Để lãnh đạo Trung Tâm Bưu Chính hoạt động kinh doanh và thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao, xây dựng đơn vị vững mạnh, trưởng thành, Đảng ủy
Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội ra quyết định số 39/QĐ-ĐU, thành lập
Chi bộ Trung Tâm Bưu Chính, trực thuộc Đảng bộ Công ty Điện tử Viễn
thông Quân đội. Chi bộ Trung Tâm Bưu Chính gồm 6 đảng viên. Đảng ủy
Công ty lâm thời chỉ định các đồng chí:
Hoàng Anh Đằng – Bí thư Chi bộ.
Bùi Đức Ngoãn – Phó Bí thư Chi bộ.
Do lực lượng nhân viên ở tuổi thanh niên gồm hơn 300 đồng chí, làm việc tại
các Bưu cục trong cả nước, Trung Tâm Bưu Chính được thành lập Chi đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đảng ủy Công ty Điện tử Viễn thông Quân
đội chỉ định Ban chấp hành gồm 5 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Thu Hà làm Bí
thư, đồng chí Phạm Quỳnh Sơn làm Phó Bí thư.
Trung tâm còn được thành lập chi hội phụ nữ trực thuộc Hội phụ nữ cơ sở
Công ty và một tổ Công đoàn trực thuộc Công đoàn cơ sở Công ty.
Trong điều kiện hoạt động phân tán, các tổ chức quần chúng của Trung Tâm
Bưu Chính đã khắc phục khó khăn, duy trì sinh hoạt đều đặn, chăm lo giáo dục
đoàn viên, hội viên phát huy vai trò, trách nhiệm, giữ nghiêm kỷ luật, hoàn thành
tốt nhiệm vụ chính trị được giao, là lực lượng nòng cốt trong phong trào thể dục
thể thao, văn hóa, văn nghệ quần chúng, góp phần xây dựng Trung tâm vững
mạnh toàn diện.
Nhằm phát huy hiệu quả các hoạt động kinh doanh dịch vụ bưu chính,sau
một thời gian nghiên cứu thị trường, chuẩn bị những yếu tố bảo đảm, ngày
01/10/2001, Trung tâm thí điểm mở dịch vụ bán văn phòng phẩm trên mạng bưu
chính, với khách hàng tại Hà Nội. Đây là hoạt động dịch vụ mới, song cán bộ,
công nhân viên Trung tâm nêu cao tính chủ động và quyết tâm, vừa làm vừa rút
kinh nghiệm, thực hiện thí điểm dịch vụ này.
Đảng ủy Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội ra nghị quyết chuyên đề (số
102/NQĐUCTĐTVTQĐ) về “định hướng phát triển Công ty Điện tử Viễn thông
Quân đội từ năm 2001 đến năm 2005”.
Đánh giá thực trạng kinh doanh dịch vụ bưu chính của Công ty 5 năm
(1996-2001), Nghị quyết nêu rõ:
“Công ty đã thúc đẩy việc triển khai kinh doanh các dịch vụ bưu chính.
Từ bước đầu triển khai dự án phát hành báo chí tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh và một số địa phương, đến nay dịch vụ bưu chính đã phát triển ra 45 tỉnh,
thành phố... góp phần tăng doanh thu, lợi nhuận cho Công ty và thu nhập của
người lao động.”
Về phương hướng phát triển của Trung tâm Bưu Chính trong những năm
2001-2005, Nghị quyết Đảng ủy Công ty nhấn mạnh:
“Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, trước hết
là chất lượng chính trị, xây dựng Chi bộ Trung tâm trong sạch vững mạnh,
Trung tâm vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Củng cố và phát triển các dịch vụ bưu chính ổn định, vững chắc. Phát triển tất
cả các dịch vụ cơ bản của ngành Bưu chính, mở rộng mạng lưới trên toàn quốc
với kế hoạch như sau:
- Năm 2002: phát triển mạng lưới dịch vụ chuyển phát nhanh ra quốc
tế.Triển khai dịch vụ điện hoa
- Năm 2003: Kinh doanh dịch vụ chuyển tiền.
- Năm 2004-2005: Củng cố và gia tăng các dịch vụ trên mạng bưu chính...”
Chi ủy, Ban Giám đốc Trung tâm Bưu chính tổng kết việc triển khai các hoạt
động công tác Đảng, công tác chính trị của Trung tâm năm 2001. Báo cáo của
Cấp ủy Chi bộ Trung tâm Bưu chính nêu rõ:
“Trung tâm đã coi trọng công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, triển
khai thực hiện tốt các đợt học tập, quán triệt đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước do Binh chủng và Công ty tổ chức. Trong điều kiện đơn vị phân tán
rộng, Trung tâm tổ chức nhiều hình thức phù hợp để thông báo về tình hình,
nhiệm vụ, giúp cán bộ, công nhân viên hiểu rõ những chính sách mới của Nhà
nước về kinh tế - xã hội - quốc phòng – an ninh; trên cơ sở đó, thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội. Được rèn luyện, thử thách
trong thực tiễn, hầu hết cán bộ, công nhân viên Trung tâm có lập trường tư tưởng
vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, quyết tâm xây dựng Công ty, xây dựng Trung
tâm Bưu chính trưởng thành, vững mạnh.
Chi bộ và các tổ Đảng duy trì sinh hoạt theo nề nếp quy định, thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ. Tổ chức phụ nữ, công đoàn và thanh niên phát huy
được vai trò, chức năng, nhiệm vụ, của mình trong các hội, nhất là trong giáo
dục, rèn luyện kỷ luật, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, động viên mọi
người thi đua thực hiên thắng lợi nhiệm vụ được giao, hăng hái tham gia các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao quần chúng. Đội văn nghệ quần
chúng của Trung tâm mà nòng cốt là lực lượng thanh niên, phụ nữ đã tích cực
luyện tập và đạt giải nhì trong hội thi văn nghệ quần chúng toàn Công ty. Trong
năm chi bộ đã bồi dưỡng và kết nạp một đoàn viên thanh niên ưu tú vào Đảng.
Chi bộ được Đảng ủy xét công nhận Chi bộ trong sạch vững mạnh”
Báo cáo của Chi ủy cũng nghiêm túc kiểm điểm những khuyết điểm và tồn tại
của Chi bộ và Trung tâm về công tác Đảng, công tác chính trị. Điều đáng chú ý
là, công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với Chi bộ và Trung tâm
chưa thật sâu sắc, kịp thời, chưa chủ động, tích cực nắm bắt diễn biến tư tưởng,
giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cán bộ, đảng viên, công nhân viên; do
vậy, một số công nhân viên chưa thật ổn định về tư tưởng, giảm nhiệt tình công
tác, chất lượng hoàn thành nhiệm vụ không cao. Do đơn vị phân tán rộng
nên hoạt động của các tổ chức quần chúng mới tập trung chỉ đạo tại cơ quan
Trung tâm; ở các bộ phận nhỏ, lẻ còn lúng túng về phương thức hoạt động, chất
lượng và hiệu quả thấp. Những khuyết điểm, tồn tại chủ yếu nêu trên cần được
tập trung khắc phục, giải quyết trong năm 2002.
Trung tâm Bưu Chính tiến hành tổng kết công tác năm 2001. Báo cáo tổng kết
của Ban Giám đốc Trung tâm nêu rõ:
“Quán triệt chiến lược phát triển “Doanh thu, lợi nhuận mạng lưới và dịch
vụ mới đi đôi với đào tạo nguồn nhân lực”, Trung tâm đã chủ động tìm bước đi
thích hợp, phát triển mạng lưới bưu chính tới 45 tỉnh, thành tạo điều kiện tốt để
ổn định chất lượng dịch vụ và phát triển mạng lưới... Với lực lượng lao động tuổi
bình quân là 26, trong đó 40% có trình độ đại học, đội ngũ cán bộ, công nhân
viên Trung tâm đã nỗ lực vượt khó, vươn lên, hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh
doanh, nâng cao chất lượng nghiệp vụ, đạt và vượt các chỉ tiêu chủ yếu về kinh
doanh, xây dựng từng Bưu cục và toàn Trung tâm vững mạnh.
Trong năm mạng lưới phát hành báo chí, dịch vụ chuyển phát nhanh tiếp tục
ổn định phát triển. Trung tâm đã mở rộng thêm 18 tuyến phát nhanh hành báo,
16 Bưu cục, tăng 354 khách hàng hợp đồng chuyển phát nhanh và 637 khách
hàng đặt báo. Từ tháng 10/2001, Trung tâm triển khai dịch vụ bán hàng văn
phòng phẩm trên mạng bưu chính, đạt kết quả bước đầu đáng khích lệ. Năm
2001 Trung tâm đạt doanh số gần 11.553 triệu đồng (bằng 124% kế hoạch), thu
nộp lợi nhuận trên 1.290 triệu đồng (bằng 127% kế hoạch). Do phần lớn số lao
động làm hợp đồng, điều kiện làm việc khó khăn, hoạt động phân tán, lợi nhuận
bưu chính thấp, Trung tâm coi trọng công tác quản lý, giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời chăm lo về đời sống, chính sách, bảo
đảm thu nhập bình quân 934.000 đồng/người/tháng (đạt 104% kế hoạch).
Các mặt công tác nghiệp vụ bưu chính được thực hiện ngày càng nề nếp,
hiệu quả. Trung tâm đã tập trung nghiên cứu, hoàn thành biên soạn một số văn
bản quy định về nghiệp vụ, trong đó, văn bản “Điều lệ quy trình khai thác bưu
phẩm, bưu kiện chuyển phát nhanh” góp phần thiết thực vào quá trình bồi
dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ, công nhân viên. Hội thi nghiệp vụ bưu chính
được tổ chức tốt góp phần thúc đẩy phong trào tự học, tự bồi dưỡng trong cán
bộ, công nhân viên”
Báo cáo cũng chỉ rõ những khuyết điểm, tồn tại của Trung tâm, như: chất
lượng mạng lưới dịch vụ chưa ổn định vững chắc. Doanh số của các dịch vụ tăng
nhưng lợi nhuận không cao. Bộ máy tổ chức của Trung tâm chưa thật hoàn thiện,
nhân lực thiếu, nhất là còn thiếu những cán bộ, nhân viên có đủ trình độ, năng
lực đáp ứng yêu cầu phát triển của Trung tâm.
Năm 2002
Ban Giám đốc Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội giao kế hoạch sản xuất
kinh doanh năm 2002 cho Trung tâm Bưu Chính với những chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Tiếp tục ổn định và phát triển mạng lưới, nâng cao chất lượng các hoạt
động bưu chính (mở thêm 10 Bưu cục phát, 13 Bưu cục thu – phát tại các
tỉnh, thành). Tập trung nguồn lực phát triển dịch vụ bán văn phòng phẩm
trên mạng bưu chính. Nghiên cứu, triển khai dịch vụ bưu chính quốc tế.
- Bảo đảm doanh số đạt 25.785 triệu đồng, trong đó, dịch vụ phát hành báo
chí đạt 4.260 triệu đồng, dịch vụ văn phòng phẩm đạt 1.260 triệu đồng.
Thực hiện đầy đủ chỉ tiêu thu nộp lợi nhuận quy định
- Xây dựng Trung tâm Bưu chính ổn định về tổ chức, con người, đạt tiêu
chuẩn vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển của sản xuất kinh
doanh trong tình hình nhiệm vụ mới.
- Giữ vững và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, công nhân
viên, bảo đảm thu nhập bình quân 1.030.000 đồng/người/tháng. Thực
hiwn chu đáo chính sách xã hội đối với người lao động.
15/04/2004 dịch vụ điện thoại di động của Công ty Điện tử Viễn thông Quân
đội chính thức được triển khai, Trung tâm Bưu chính là đại lý của Viettel
Mobile. Do yêu cầu cán bộ cho dịch vụ di động, Đảng ủy, Ban Giám đốc Công
ty đã điều động đồng chí Bùi Đức Ngoãn – Giám đốc Trung tâm Bưu chính làm
phó Giám đốc Trung tâm điện thoại di động, đồng thời bổ nhiệm đồng chí
Nguyễn Trần Phúc – Phó Giám đốc Trung tâm Bưu chính làm Giám đốc trung
tâm.
Trung tâm Bưu Chính chính thức kinh doanh 03 mảng dịch vụ chính:
- Dịch vụ chuyển phát
- Dịch vụ phát hành báo chí
- Cung cấp dịch vụ viễn thông 098
Theo quyết định số 10/2006/QĐ-BQP do Bộ Quốc Phòng ký ngày 12 tháng 01
năm 2006, Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Bưu chính Viettel là đơn vị
thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty Viễn thông Quân đội do Tổng
công ty đầu tư 100% vốn.
Tên gọi đầy đủ: CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN NHÀ NƯỚC
MỘT THÀNH VIÊN BƯU CHÍNH VIETTEL
Tên giao dịch tiếng Việt: Công ty Bưu chính Viettel
Tên giao dịch tiếng Anh: Viettel Post limited company
Tên viết tắt: VTP
Tr s chớnh: S 1 ng Giang Vn Minh Phng Kim Mó Qun
Ba ỡnh Thnh ph H Ni
in thoi: 04 2660306 Fax: 069 883 035
Email:
Website: http//www.viettel.com.
Tháng 4/2006, do yêu cầu về đổi mới cơ cấu tổ chức và cải tổ bộ máy Công ty
Bu chính, Đảng uỷ, Ban Giám đốc Tổng Công ty đã bổ nhiệm đ/c Hoàng Anh
Đằng - Phó Giám đốc Công ty Bu chính làm Giám đốc Công ty.
Trong năm 2006, Công ty Bu chính đã tăng trởng vợt bậc về doanh thu so với năm
2005, đời sống vật chất và tinh thần của CBCNV đợc nâng lên rõ rệt. Đợc sự chỉ
đạo của Ban Giám đốc Tổng Công ty, Công ty đã áp dụng Quy chế khoán quản lý
SXKD cho các đơn vị và bớc đầu thành công, thúc đẩy sự phát triển về doanh thu,
chất lợng dịch vụ và công nợ. Đồng thời Quy chế Marketing cũng đợc áp dụng, tạo
cơ hội và khả năng phát triển thị trờng cho nhân viên kinh doanh.
Cho đến nay Công ty Bu chính Viettel không ngừng phát triển và ngày càng khẳng
định mình trên thị trờng bu chính viễn thông Việt Nam, là doanh nghiệp có thị
phần và mạng lới lớn thứ 2 tại Việt Nam, sau Tổng Công ty Bu chính Việt Nam
(thuộc Tập đoàn VNPT
II. Vn ca Cụng ty
Vn hot ng ca Cụng ty gm cú: vn huy ng, vn tớch ly, v cỏc loi
vn khỏc
1. Vốn điều lệ
Vốn điều lệ của Công ty tại thời điểm thành lập được xác định là: 40 000 000
000 (Bốn mươi tỷ đồng).
Cơ cấu vốn: 100% vốn điều lệ do Tổng công ty Viễn thông Quân đội đầu tư.
Việc tăng hoặc giảm vốn điều lệ do Tổng công ty Viễn thông Quân đội quyết
định và được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Vốn điều lệ của Công ty tại thời điểm thành lập được Tổng công ty Viễn
thông Quân đội chuyển giao dưới hình thức đầu tư.
Vốn điều lệ chỉ được sử dụng cho các mục đích: Mua sắm tài sản cố định,
máy móc, thiết bị, mở rộng quy mô hoạt động của Công ty; Phát triển kỹ thuật
nghiệp vụ, công nghệ; Mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn liên doanh; Các dự trữ
cần thiết về động sản, bất động sản; Kinh doanh theo nội dung hoạt động của
Công ty;
Vốn điều lệ của Công ty chỉ có thể được thay đổi (tăng, giảm) bằng cách:
Tăng, giảm vốn góp của Tổng công ty Viễn thông Quân đội tịa công ty; Điều
chỉnh mức vốn điều lệ tương ứng với giá trị tài sản của Công ty.
2. Vốn huy động
Các hình thức huy động vốn của Công ty gồm:
Phát hành các loại chứng khoán khi có đủ điều kiện và được Tổng công ty
Viễn thông Quân đội phê chuẩn và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho
phép: Công ty phải chấp hành và tôn trọng các giới hạn khống chế về mức huy
động dự trữ tối thiểu bắt buộc và các biện pháp bảo đảm an toàn về vốn.
Vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.
Các hình thức huy động vốn khác pháp luật cho phép và Tổng công ty chấp
thuận.
3. Vốn tích lũy
Vốn tích lũy của Công ty được hình thành từ kết quả kinh doanh, được sử để
mở rộng và phát triển Công ty, góp vốn liên doanh với các cá nhân và các tổ
chức kinh tế trong và ngoài nước theo phương án đã được Tổng công ty phê
duyệt và tuân thủ đúng các quy định của cơ quan Nhà nước có liên quan.
III. Nhiệm vụ và mặt hàng kinh doanh chủ yếu
1. Nhiệm vụ kinh doanh
1.1 Kinh doanh có lãi, bảo toàn và phát triển vốn, hoàn thành nhiệm vụ quốc
phòng và mọi nhiệm vụ do Tổng công ty giao.
1.2 Tối đa hóa hiệu quả hoạt động.
2. Ngành nghề kinh doanh:
- Kinh doanh dịch vụ chuyển phát bưu phẩm, bưu kiện và hàng hóa. Dịch vụ
chuyển phát bao gồm:
+ Bưu phẩm; bưu kiện.
+ Dịch vụ đặc biệt khi ký gửi bưu gửi như: Gửi qua máy bay; Ghi số
(đảm bảo); báo phát; Phát nhanh; Hẹn giờ; Phát trong ngày; Khai giá; Phát tận
tay; Phát tại địa chỉ...
+ Chuyển phát nhanh (EMS): Hiện nay có khoảng 50 Công ty và doanh
nghiệp tư nhân thực hiện dịch vụ này.
EMS khác với các dịch vụ trên là có chỉ tiêu thời gian đã được công bố
trước là 12h trong nội thành (không kể đêm). Cước tính = theo 3 vùng + theo nấc
khối lượng + dịch vụ đặc biệt. Trong đó: Cước 3 vùng chia thành: nội hạt, đến
300Km; trên 300km. Khối lượng nhỏ hơn 31.5 kg.
+ Bưu chính ủy thác.
+ Dịch vụ COD: Phát hàng thu tiền (chỉ có VNPT thực hiện)
- Kinh doanh dịch vụ phát hành báo chí;
- Kinh doanh dịch vụ thương mại trên mạng bưu chính;
- Kinh doanh dịch vụ viễn thông: Bán các thiết bị viễn thông đầu cuối, các loại
viễn thông, điện thoại, Internet card v.v...
- Kinh doanh dịch vụ in, in bao bì...
- Kinh doanh dịch vụ tài chính bưu điện.
IV. Bộ máy tổ chức quản lý và chức năng của các phòng ban
1. Mô hình cơ cấu tổ chức
Công ty Bưu chính có cơ cấu tổ chức như sau:
1.1.Ban giám đốc Công ty
Đồng chí: Lương Ngọc Hải, Giám đốc Công ty
Đồng chí: Phó Đức Hùng, Phó giám đốc
Đồng chí: Hoàng Quốc Anh, Phó giám đốc
Đồng chí: Nguyễn Đắc Luân, Giám đốc Trung tâm đường trục
Đồng chí: Vũ Đức Luyện, Phó Giám đốc Trung tâm đường trục.
1.2. Các phòng ban chức năng
Phòng tổ chức lao động
Phòng Tài chính kế toán
Phòng Kinh doanh
Phòng Kế hoạch Đầu tư
Phòng nghiệp vụ kiểm soát
Ban Kỹ thuật
Ban Công nghệ
Ban Chính trị hành chính.
Các trung tâm khai thác; 04 Trung tâm (Trung tâm khai thác 1: 29 Láng
Hạ - Hà nội; Trung tâm khai thác 2: Thành phố Hồ Chí Minh; Trung tâm khai
thác 3: Thành phố Đà Nẵng; Trung tâm khai thác 4: Cần Thơ) và các bưu cục.
2.Mô hình tổ chức của Công ty
S 1: Mụ hỡnh t chc ca Cụng ty:
P. Giám đốc
bí th Đảng uỷ
P. Giám đốc
kinh doanh
trung tâm
đờng trục
các bu cục trực
thuộc Công ty tại
các tỉnh/ tp
khối cơ quan :
- phòng chiến lợc kinh doanh
- phòng bán hàng
- phòng chăm sóc khách hàng
- phòng kế hoạch đầu t
- phòng nghiệp vụ đào tạo
- phòng tổ chức lao động
- phòng tài chính
- phòng chính trị hành chính
- Phòng tin học
- ban kiểm soát nội bộ
Giám đốc Công ty
Chương II _THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG
TY BƯU CHÍNH VIETTEL
I. Đặc điểm ngành BC
1. Tổng quan về các sản phẩm dịch vụ BC
khu vùc 1
Hµ Néi
khu vùc 2
®µ n½ng
khu vùc 3
tp. hcm
khu vùc 4
cÇn th¬
Là dịch vụ nhận gửi, chuyển phát thư, báo chí, ấn phẩm, tiền, vật phẩm,
hàng hoá và các sản phẩm vật chất khác thông qua mạng lưới BC công cộng do
doanh nghiệp cung cấp. Dịch vụ BC bao gồm dịch vụ cơ bản và dịch vụ cộng
thêm:
- Dịch vụ cơ bản là dịch vụ truyền thống mà doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ đã cung cấp một cách có hệ thống ở trong nước hoặc nước ngoài theo quy
định của Liên minh BC thế giới, dịch vụ cơ bản bao gồm: dịch vụ bưu phẩm,
bưu kiện đến 50kg, dịch vụ phát hành báo chí và ấn phẩm định kì, dịch vụ
chuyển tiền.
- Dịch vụ BC cộng thêm là dịch vụ cung cấp thêm vào dịch vụ BC cơ bản
đáp ứng nhu cầu cao hơn về chất lượng của người sử dụng: dịch vụ chuyển phát
nhanh, dịch vụ bưu phẩm không địa chỉ, BC uỷ thác, dịch vụ bưu kiện nặng (có
khối lượng trên 50 kg) , datapost, các dịch vụ khác về tài chính .
2. Ngành BC
2.1 Vai trò của BC
- Xã hội càng phát triển, những nhu cầu mới và nhu cầu cao cũng xuất hiện.
Các dịch vụ bưu điện có thể thay thế một số dạng giao tiếp khác, thường có hiệu
quả hơn trong việc sử dụng thời gian, năng lượng, vật liệu, do vậy, có ảnh hưởng
tốt đến môi trường. Lợi ích của các dịch vụ BC thể hiện rất rõ trong công nghiệp
và thương mại, nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế. Bưu chính đã trở
thành một bộ phận không thể tách rời trong đời sống sinh hoạt của con người
trong xã hội phát triển.
- Các dịch vụ bưu điện có thể giúp con người bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài
sản, mặt khác, mạng lưới bưu điện phát triển rộng khắp, phổ cập đến mọi người
đảm bảo nguồn thông tin liên tục dễ dàng, có được những thông tin khẩn cấp,
kịp thời về thiên tai, địch hoạ, phòng chống dịch bệnh, bảo vệ mùa màng. Giúp
cho mọi người giảm sự đi lại do đó, tiết kiệm được thời gian, chi phí, góp phần
giảm mật độ giao thông.
2.2. Các đặc thù kinh tế của ngành BC
BC là một ngành sản xuất dịch vụ thuộc kết cấu của nền KTQD và nó
cũng có những đặc thù riêng của mình. Các đặc thù này không thể tự thân vận
động được. Những người làm công tác quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh
trong ngành phải nghiên cứu và đánh giá các đặc điểm này, vận dụng chúng khi
giải quyết các vấn đề khác nhau dể đảm bảo hoạt động phát triển BC đạt kết quả
cao.
Các đặc thù của ngành đó là:
Tính vô hình của sản phẩm BC
Quá trình sản xuất bưu điện mang tính dây chuyền
Quá trình sản xuất không tách rời quá trình tiêu thụ
2.2.1 Tính vô hình của sản phẩm BC
Sản phẩm BC không phải là sản phẩm vật chất chế tạo mới, nó được thể
hiện dưới dạng các dịch vụ - đó là hiệu qủa có ích của quá trình đưa tin tức từ
người gửi đến người nhận sản phẩm BC để tạo ra sản phẩm bưu chính cần có sự
tham gia của các yếu tố sản xuất như: lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao
động bưu chính.
Các cơ sở làm nhiệm vụ dịch chuyển các tin tức này từ vị trí người gửi
đến vị trí người nhận.