Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Một số đặc điểm tầm vóc – thể lực, sinh lí của học sinh một số trường trung học cơ sở tại huyện tam nông, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC – TỰ NHIÊN
-----------------------

LÊ THỊ NGUYỆT

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TẦM VÓC – THỂ LỰC, SINH LÍ
CỦA HỌC SINH MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC
HỌC CƠ SỞ TẠI HUYỆN TAM NƠNG, TỈNH PHÚ THỌ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Sư phạm Sinh học

.

Phú Thọ, 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC – TỰ NHIÊN

-----------------------

LÊ THỊ NGUYỆT

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TẦM VÓC – THỂ LỰC, SINH LÍ
CỦA HỌC SINH MỘT SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC
HỌC CƠ SỞ TẠI HUYỆN TAM NƠNG, TỈNH PHÚ THỌ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Sư phạm Sinh học



NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. Nguyễn Thị Thanh Hương

Phú Thọ, 2018


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Trẻ em hơm nay, thế giới ngày mai”.
Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của tồn xã hội.
Bởi vậy mà việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em ngày càng được xã hội
quan tâm. Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ đã thơng qua nhiều văn
kiện về chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em từng bước nâng cao tình trạng thể
lực, sức khỏe của người Việt nói chung và trẻ em nói riêng. Lứa tuổi học sinh
THCS là giai đoạn phát triển thuận lợi nhất về chiều cao thân thể và tố chất
thể lực nhưng lại rất ít được xã hội và gia đình chăm sóc đồng bộ, dẫn đến
nhịp độ phát triển chậm sau 11 tuổi ở trẻ em Việt Nam [15]. Do đó, việc
nghiên cứu đặc điểm tầm vóc – thể lực lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là
một khâu quan trọng và cần được tiến hành có hiệu quả trong việc thực hiện
mục tiêu phát triển tầm vóc – thể lực người Việt.
Tam Nông là một huyện miền núi, nằm ở phía Tây Nam tỉnh Phú Thọ,
có diện tích tự nhiên là 15.596,92 ha, với dân số trên 82.000 người. Tồn
huyện có 20 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 19 xã và 1 thị trấn: Hồng
Đà, Thượng Nông, Dậu Dương, Dị Nậu, Thọ Văn, Hương Nộn, Cổ Tiết, Văn
Lương, Tam Cường, Thanh Uyên, Hương Nha, Hiền Quan, Vực Trường, Tứ
Mỹ, Xuân Quang, Hùng Đô, Phương Thịnh, Quang Húc, Tề Lễ. Trên địa bàn
huyện gồm rất nhiều trường THCS tiêu biểu như: trường THCS Nguyễn
Quang Bích, THCS Hưng Hóa, THCS Hương Nộn, THCS Cổ Tiết,... Cho đến

nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu nào về vấn đề này trên địa bàn huyện
Tam Nơng được cơng bố, vì vậy việc nghiên cứu là cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số
đặc điểm tầm vóc – thể lực, sinh lí của học sinh một số trường Trung học
cơ sở tại huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ”.


2

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp thêm các thông tin phản ánh
sự phát triển về tầm vóc – thể lực, chỉ số chức năng tuần hồn, dậy thì của HS
tại huyện Tam Nơng, tỉnh Phú Thọ.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Góp phần xây dựng những cơ sở để nhà trường, gia đình và xã hội có
thể đề ra các biện pháp nhằm phát triển tầm vóc – thể lực và sinh lí của HS.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định được một số chỉ tiêu về tầm vóc – thể lực, sinh lí của học sinh
THCS, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao tầm vóc cho học sinh.


3

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của một số chỉ tiêu trong nghiên cứu
1.1.1 Các đặc điểm phát triển ở trẻ em lứa tuổi 11 – 15 tuổi
Giai đoạn này cơ thể đang diễn ra quá trình cải tổ hình thái sinh lý một
cách mạnh mẽ và mang tính chất khơng cân đối.

Về chiều cao: đây là thời kỳ nhẩy vọt về tầm vóc, xương tay chân dài ra
nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển chậm. Điều này làm cho hoạt
động của trẻ trở nên lóng ngóng vụng về.
Về hệ cơ: chứa nhiều nước, chưa phát triển hết nên các em chóng mệt
và khơng có khả năng làm việc cao. Ở cuối giai đoạn này, khối lượng cơ và
lực cơ phát triển mạnh đặc biệt là ở các em trai.
Về hệ xương: xương sống và xương tứ chi phát triển mạnh nhưng xương
lồng ngực phát triển chậm vì thế làm cho các em có vẻ gầy cịm, khơng cân đối.
Về hoạt động tim mạch: sự phát triển của hệ thống tim mạch cũng
khơng cân đối. Thể tích của tim tăng rất nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ
hơn, nhưng kích thước của mạch máu lại phát triển chậm. Do đó có một số rối
loạn tạm thời của hệ tuần hoàn, tăng huyết áp, tim đập nhanh, gây nhức đầu
chóng mặt mệt mỏi khi làm việc.
Sự trưởng thành về mặt sinh dục: đây là yếu tố quan trọng của sự phát
triển thể chất, trong giai đoạn này gây nhiều ảnh hưởng đến tâm lý các em.
Đặc điểm giới tính bộc lộ rõ nét và tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động (ở các
em nữ xuất hiện hiện tượng kinh nguyệt, ở các em nam xuất hiện hiện tượng
xuất tinh lần đầu). Sự dậy thì đã kích thích ở lứa tuổi này mối quan tâm đến
người khác giới làm nẩy sinh những rung cảm, xúc cảm giới tính mới lạ. Tuy
nhiên những phát triển trong cơ thể trẻ lúc này diễn ra chưa đồng bộ và với
diện mạo “to cao” bên ngoài như vậy, các em vẫn chưa là người lớn thực thụ
về tất cả các chức năng trong cơ thể.


4

Bên cạnh đó, sự thay đổi trong nhân cách cũng diễn ra cùng với động
cơ học tập, nhu cầu trong giao tiếp bạn bè, việc lĩnh hội các chuẩn mực và giá
trị môi trường của thiếu niên. Trong quan hệ với cha mẹ, xuất hiện các dấu
hiệu từ phản ứng, muốn thoát khỏi sự áp đặt quan điểm của người lớn về các

vấn đề khác nhau đến việc bỏ trốn khỏi nhà. Liên quan tới việc hình thành
tính tích cực nhân cách trong giai đoạn này là việc đẩy nhanh tính chất mạnh
mẽ trong hình thành các đặc điểm nhân cách ở trẻ. Chính sự đẩy nhanh tốc độ
cả về cơ thể lẫn nhân cách là bước chuyển từ trạng thái trẻ em sang người lớn.
Sự phụ thuộc vào cha mẹ và người lớn dần phải được thay thế định hướng
cho trẻ hướng tới tương lai của chính bản thân nó. Sự chuyển dịch này đưa ra
yêu cầu khá cao không chỉ đối với hệ thần kinh trung ương, mà cả hệ thống
giá trị, chuẩn mực, niềm tin vốn đã được hình thành trước đó ở trẻ [5,13]. Dậy
thì cùng với sự tác động của môi trường trong giai đoạn này có ảnh hưởng rất
lớn tới sự phát triển nhân cách của các em HS.
1.1.2. Cơ sở khoa học của một số chỉ số đánh giá thể lực
Thể lực là một chỉ tiêu dùng để đánh giá sức khoẻ, tầm vóc, sự tăng
trưởng, phát triển và khả năng học tập, lao động của con người [5,13]. Để
đánh giá sự phát triển thể lực, người ta thường dùng các chỉ số về hình thái
như chiều cao, cân nặng, vịng ngực, vịng đầu, …
Chiều cao: Chiều cao là 1 trong những chỉ số phát triển thể chất và sức
khỏe quan trọng nhất. Sự tăng kích thước của chiều cao phụ thuộc vào sự phát
triển của xương trong quá trình tăng trưởng [5]. Ngồi ra, chiều cao cịn phụ
thuộc vào khối lượng của toàn thân và của các cơ quan riêng rẽ. Việc tăng chiều
cao qua từng độ tuổi diễn ra không đều nhưng khơng gián đoạn. Sự khơng đồng
đều trong q trình tăng chiều cao thể hiện ở sự tăng trưởng các phần của cơ
thể, trong sự biến đổi tỷ lệ giữa các phần đó, nghĩa là của các kích thước.
Cùng với chiều cao, cân nặng cũng được coi là một chỉ số quan trọng
để đánh giá sự phát triển của cơ thể. Cân nặng biểu thị mức độ và tỷ lệ giữa
hấp thụ với tiêu hao năng lượng của con người. So với chiều cao, cân nặng


5

của cơ thể ít phụ thuộc vào yếu tố di truyền hơn mà có liên quan chủ yếu tới

điều kiện dinh dưỡng [5].
Vịng ngực: Mỗi lứa tuổi có một tỷ lệ cân đối giữa chiều cao và đường
kính ngang ngực. Sự phát triển của vòng ngực liên quan mật thiết đến sự phát
triển của trọng lượng cơ thể. Các tác giả rút ra từ nghiên cứu của mình là có
sự tương quan giữa vòng ngực và cân nặng [13].
Sự phát triển và tăng trưởng thể lực được đánh giá chủ yếu vào ba chỉ
số cơ bản: cân nặng, chiều cao và vịng ngực. Tuy nhiên, thể lực là một thơng
số tổng hợp nên khơng thể đánh giá tình trạng thể lực một cách riêng rẽ mà
phải dựa vào mối tương quan giữa các chỉ tiêu giải phẫu – sinh lí. Các nhà
khoa học châu Âu đã dựa vào mối tương quan này để xây dựng thêm một số
chỉ tiêu hình thái thể lực tổng hợp. Mới đầu các tác giả hợp nhất hai chỉ số
thành một chỉ số như Broca, Quetelet, GRV, Skeslie,... Sau đó là những chỉ số
được hợp nhất từ 3 chỉ số trở lên như chỉ số Pignet, Vervack, Pimo, chỉ số
QVC,... Việc hợp nhất nhiều chỉ số vào một chỉ số chung đã làm cho việc
đánh giá thể lực được chính xác hơn và có cơ sở khoa học riêng của nó.
1.1.3. Cơ sở khoa học của một số chỉ tiêu sinh lí tuần hồn trong nghiên cứu
Tim co bóp nhịp nhàng đẩy máu trong động mạch, máu chảy trong
động mạch chịu hai 2 lực tác dụng [13]:
Lực đẩy máu của tim
Lực cản của thành mạch
Vì lực đẩy máu của tim thắng được lực cản của thành mạch nên máu
được chảy trong động mạch với một áp suất nhất định và gọi là huyết áp được
biểu thị bằng 2 trị số: trị số tối đa và trị số tối thiểu.
Huyết áp tối đa là huyết áp đo được trong thời kì tâm thu, phụ thuộc vào
lực co bóp và thể tích tâm thu. Trị số bình thường 90 – 110 mmHg, trên mức
140 mmHg được coi là tăng huyết áp, dưới 90 mmHg được coi là hạ huyết áp.
Huyết áp tối thiểu là áp suất đo được trong thời kì tâm trương nên được
coi là huyết áp tâm trương. Huyết áp tâm trương phụ thuộc vào trương lực



6

mạch máu trung bình đo được từ 50 – 70 mmHg. Nếu vượt quá 90 mmHg
được coi là tăng huyết áp, dưới 50 mmHg được coi là hạ huyết áp.
Huyết áp phụ thuộc vào lứa tuổi. Trẻ mới sinh huyết áp tối đa là 40
mmHg, sau vài ngày là 70 mmHg, 1 tháng tuổi là 80 mmHg, 15 – 50 tuổi là
105 – 120 mmHg và 60 tuổi là 135 – 140 mmHg. Càng về già huyết áp càng
cao theo mức độ xơ hóa động mạch.
1.1.4. Cơ sở khoa học của một số chỉ tiêu sinh lí dậy thì trong nghiên cứu
Sự tăng trưởng bình thường của một cơ thể chỉ có được khi cơ thể đó
khỏe mạnh. Mọi sự biến động về sức khỏe đều ảnh hưởng rõ nét lên sự tăng
trưởng bình thường của tuổi dậy thì.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu và phân tích thành 2 nhóm yếu tố ảnh
hưởng đó là: yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Sự hiểu biết về tác động
của từng nhóm yếu tố sẽ giúp cho chúng ta có thể tạo được những điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển về thể chất và tinh thần của tuổi dậy thì.
Các yếu tố bên trong đóng vai trị tạo đà cho sự phát triển cho cơ thể ở
tuổi dậy thì, nó bao gồm các tuyến nội tiết, các yếu tố bẩm sinh, di truyền,
chủng tộc, giới tính.
Cùng với các yếu tố bên trong cơ thể, các yếu tố bên ngồi như dinh
dưỡng, mơi trường sinh thái, mơi trường xã hội cũng có tác động khơng nhỏ
đến sự phát triển thể lực của trẻ ở thời kì dậy thì.
1.2. Tình hình nghiên cứu
1.2.1. Một số cơng trình nghiên cứu về tầm vóc – thể lực
* Trên thế giới
Cơng trình đầu tiên trên thế giới nghiên cứu sự tăng trưởng một cách
hoàn chỉnh ở các lứa tuổi từ 1 đến 25 theo phương pháp cắt ngang là luận án
tiến sĩ của Christian Friedrich Jampert – người Đức [18]. Cũng thời gian này
Philibert Guerneau de Montbeilard thực hiện nghiên cứu dọc trên con trai mình
từ 1759 đến năm 1777, phương pháp này đã được áp dụng cho đến nay [17].

Năm 1942, D’Arcy Thomson đưa khái niệm về tốc độ tăng trưởng vào
nghiên cứu [16]


7

Năm 1977, Hiệp hội các nhà tăng trưởng học đã được thành lập, đánh
dấu một bước phát triển mới cho việc nghiên cứu vấn đền này trên thế giới.
Năm 2007 WHO công bố chuẩn tăng trưởng của trẻ em học đường và người
trưởng thành, là một mốc quan trọng trong các nghiên cứu ứng dụng các chỉ
số hình thái để đánh giá tình trạng dinh dưỡng và phát triển thể lực của con
người [19], [20].
Vòng ngực là chỉ số thể lực được nghiên cứu từ những năm 20 của thế
kỉ XIX đến cuối thế kỷ XIX vòng ngực trở thành một chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá thể lực sau chiều cao và cân nặng.
Phương pháp đánh giá thể lực bằng chỉ số (BMI, Kaup, Crora QVC,
Pignet,…) ra đời từ đầu thế kỉ XX.
Cùng với việc đánh giá thể lực bằng chỉ số, một loạt các dụng cụ đo đạc
khác như thước dây, cân,… đã được tiêu chuẩn hóa quốc tế trên những đề
xuất của Martin.
Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, lĩnh vực nhân trắc học
ngày càng phát triển, các nhà khoa học đã sử dụng thống kê sinh học, các
công nghệ phần mềm tin học trong việc tính tốn phân tích, xử lý số liệu.
* Ở Việt Nam
Nghiên cứu các chỉ số sinh học ở trẻ em đã bắt đầu từ những năm 30
của thế kỉ XX tại Ban nhân trắc học thuộc viện Viễn đông Bác Cổ.
Năm 1975, cuốn sách “Hằng số sinh học người Việt Nam” đã ra đời
sau Hội nghị Hằng số sinh học người Việt Nam những năm 1967 – 1972 [12].
Cuốn sách đã cơng bố một cách có hệ thống các chỉ số hình thái học do các
tác giả nghiên cứu trong vòng hơn 10 năm (1960 – 1972), đặc biệt các chỉ số

hình thái – thể lực của trẻ em từ 1 – 15 tuổi được công bố một cách khá chi
tiết và đầy đủ. Các kết quả của các cơng trình nghiên cứu có giá trị định vị về
mặt thời gian và được dùng làm tài liệu so sánh cho các cơng trình kế tiếp và
hiện nay, về các đặc điểm hình thái, kích thước của trẻ em lứa tuổi 1 đến 16,
có 30 chỉ số được trình bày như chiều cao, cân nặng, vịng ngực,… và Skelie,
Pimo, Vervack, QVC, Pignet, BMI,…


8

Năm 1980 – 1990, Thẩm Thị Hoàng Điệp [4] tiến hành nghiên cứu
dọc trên 101 học sinh Hà Nội từ 6 đến 17 tuổi với 31 chỉ tiêu sinh học và rút
ra nhận xét: chiều cao phát triển mạnh nhất lúc 11 – 12 tuổi ở nữ và 13 – 15
tuổi ở nam, cân nặng phát triển mạnh nhất ở nữ lúc 13 tuổi và ở nam lúc 15
tuổi, có sự gia tăng về chiều cao và cân nặng ở lứa tuổi học sinh.
Cần phải kể đến cơng trình của Đào Huy Khuê [6] năm 1991 về đặc
điểm hình thái thể lực và tăng trưởng của trẻ em thị xã Hà Đông từ 6 – 17 tuổi.
Tác giả nhận định: hầu hết các thơng số hình thái tăng dần theo tuổi nhưng
nhịp độ tăng trưởng không đều. Từ 6 – 9 tuổi các kích thước cơ thể ở nam và
nữ khơng có sự khác biệt rõ rệt. Từ 10 – 15 tuổi kích thước ở nữ thường vượt
nam và đến 16 – 17 tuổi nam lại vượt lên trước nữ. Ông cũng rút ra nhận xét
là: có sự gia tăng chiều cao người Việt Nam so với các thập kỉ trước.
Năm 1998, Nguyễn Quang Mai và Nguyễn Thị Lan [8] nghiên cứu
trên học sinh 12 – 18 tuổi dân tộc ít người tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thu
được kết quả cho thấy chiều cao và cân nặng của học sinh dân tộc ít người
tăng dần theo tuổi. Chiều cao tăng nhanh nhất ở độ tuổi 12 – 14 ở nữ và 14 –
15 tuổi ở nam. Còn cân nặng ở nam tăng nhanh nhất ở tuổi 15 – 16. So với
chiều cao và cân nặng trong “HSSH 1975” thì kết quả thu được trong nghiên
cứu này cao hơn nhưng lại thấp hơn kết quả nghiên cứu trên học sinh Hà Nội
và Thái Bình.

Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu về các chỉ tiêu tầm vóc – thể lực
trẻ em Việt Nam lứa tuổi 6 – 17 là tương đối nhiều.
1.2.2. Một số cơng trình nghiên cứu về sinh lý tuần hoàn
* Trên thế giới
Năm 1979, Edmun HS nghiên cứu ở trẻ em Mỹ đưa ra nhận xét nhịp
tim giảm dần theo từng lứa tuổi.
Năm 1982, Waldo. E. Nelson, khi nghiên cứu ở trẻ em Anh đã đưa ra
kết luận: tần số tim ở trẻ sơ sinh dao động nhiều (trung bình 120 – 140
nhịp/phút), nhịp tim giảm dần theo lứa tuổi. Từ 12 tuổi trở lên nhịp tim ở nữ


9

lớn hơn ở nam: nhịp tim của nam 12 tuổi là 85 nhịp/phút và nữ là 90
nhịp/phút, nam 16 tuổi là 75 nhịp/phút và nữ là 80 nhịp/phút.
Năm 1973, Wilson nghiên cứu sự thay đổi của huyết áp ở tuổi học
đường và kết luận huyết áp tăng theo độ tuổi.
Năm 1982, Waldo. E. Nelson nghiên cứu trên trẻ em từ 4 – 16 tuổi và
ông đưa ra kết luận: huyết áp tối đa ở trẻ 4 tuổi là 85 mmHg, huyết áp tối
thiểu là 60 mmHg. Đến 10 tuổi huyết áp tối đa là 100 mmHg, huyết áp tối
thiểu là 65 mmHg. Khi 15 tuổi huyết áp tối đa là 115 mmHg, huyết áp tối
thiểu là 72 mmHg.
Từ cuối thế kỉ XX, Kortkov đã đề xuất phương pháp đo huyết áp
gián tiếp và cách xác định trị số huyết áp tối đa, huyết áp tối thiểu [1, 2].
* Ở Việt Nam
Ở Việt Nam đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tuần hoàn. Theo số
liệu của HSSH [12], huyết áp động mạch, nhịp tim con người thay đổi phụ
thuộc độ tuổi, giới tính, tình trạng sức khỏe, mơi trường,…
Vào thập kỷ 90, Bác sĩ Trần Đỗ Trinh [11] đã nghiên cứu đề tài “Trị
số huyết áp động mạch người Việt Nam” trên đối tượng từ 15 tuổi trở lên ở 20

tỉnh nước ta. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy huyết áp tăng dần theo tuổi với
mức tăng chậm nhất ở nhóm tuổi 15 – 19 và huyết áp của nam giới cao hơn so
với huyết áp của nữ giới.
Năm 1993, Nghiêm Xuân Thăng [10] tiến hành nghiên cứu dân cư hai
vùng Nghệ An và Hà Tĩnh tuổi từ 12 – 15 và 18 đến 25, kết quả nghiên cứu
cho thấy tần số tim và huyết áp động mạch ở bất cứ độ tuổi nào cũng chịu ảnh
hưởng của khí hậu.
Ngoài ra các nghiên cứu của Nguyễn Quang Mai và cộng sự [8] cũng
cho kết luận tương tự về tần số mạch và huyết áp động mạch.
Theo nhận xét của Đồn n năm 1993 sau 12 tuổi có sự khác biệt về
nhịp tim theo giới, có thể nói rằng tuổi 12 là mốc bắt đầu thể hiện sự phân biệt
giới tính về nhịp tim, nữ có nhịp tim nhanh hơn nam.


10

Năm 2002, nghiên cứu của Trần Thị Loan [7] cho thấy tần số tim của
trẻ em giảm dần từ 6 – 17 tuổi, huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu của học
sinh tăng dần theo tuổi và không có sự khác biệt về chỉ số huyết áp so với các
đối tượng trẻ em trong nghiên cứu của các tác giả khác.
Tóm lại nhịp tim và huyết áp động mạch là những thông số đã được
nghiên cứu nhiều nhưng chưa đầy đủ và hoàn chỉnh theo các giai đoạn phát
triển cơ thể.
1.2.3. Một số cơng trình nghiên cứu về sinh lí dậy thì
Ở Việt Nam những cơng trình nghiên cứu tồn diện về tuổi dậy thì của trẻ
em cịn hạn chế. Đa phần các cơng trình nghiên cứu của các tác giả mới chỉ dừng
lại ở việc khảo sát một số biểu hiện dễ thấy nhất ở tuổi dậy thì.
Trong dự án nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam bình
thường thập kỉ 90 thế kỉ XX, Cao Quốc Việt nghiên cứu về tuổi dậy thì ở trẻ em
và các yếu tố ảnh hưởng. Tác giả đưa ra nhận xét, tuổi dậy thì của các em nữ

thường đến sớm hơn so với các em nam khoảng 1 đến 2 năm.
Năm 1996, Phan Thị Sang [9] đã nghiên cứu một số chỉ số sinh lí, sinh dục –
kích thước nhân trắc với việc có kinh nguyệt ở nữ sinh thành phố Huế đã cho thấy,
chiều cao đứng và cân nặng của nhóm nữ sinh có kinh nguyệt vượt trội hơn so với
các em chưa có kinh nguyệt cùng lứa tuổi. Một số kết quả nghiên cứu khác của tác
giả cho thấy, tuổi có kinh lần đầu trung bình của các cơ gái ở Huế trong thập kỉ 90
là 13,6. Tác giả nhận định rằng, tuổi có kinh lần đầu của nữ sinh ngày càng xuất
hiện sớm hơn so với trước.
Năm 1998, khi nghiên cứu sinh lí tuổi dậy thì của học sinh trung học phổ
thơng các dân tộc ít người ở tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, Nguyễn Quang Mai
và Nguyễn Thị Loan [8] đã đưa ra kết luận: tuổi có kinh nguyệt lần đầu của nữ
là 14,3 và tuổi xuất tinh lần đầu của nam là 15,4.
Năm 2006, Đỗ Hồng Cường [3] kết luận độ tuổi dậy thì ở nam và nữ khi
nghiên cứu trên đối tượng học sinh trung học cơ sở các dân tộc ở tỉnh Hịa Bình.
Cơ thể của trẻ em ở giai đoạn dậy thì diễn ra hàng loạt những biến đổi về
sinh lí và tâm lí. Giai đoạn này chịu sự chi phối của những yếu tố bên
trong và các yếu tố bên ngồi cơ thể như mơi trường sống, khí hậu,...


11

Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu
Là học sinh 11 – 15 tuổi tại một số trường Trung học cơ sở tại huyện Tam
Nông, tỉnh Phú Thọ.
Đối tượng được lựa chọn để nghiên cứu là những học sinh khỏe mạnh bình
thường, khơng dị tật.
2.1.2. Phân bố ĐTNC
Tổng số đối tượng nghiên cứu là 662 học sinh trong đó có 322 HS nữ

và 340 HS nam. Phân bố các ĐTNC theo tuổi, theo giới tính và KV sống thể
hiện trong bảng 2.1
Bảng 2.1. Phân bố ĐTNC theo tuổi, giới tính và KV sống
STT

ĐTNC

Tuổi
Thị trấn

Nơng thơn

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Chung

1

11

31

30


33

37

131

2

12

35

28

35

35

133

3

13

30

30

39


31

130

4

14

30

32

43

30

135

5

15

32

30

32

39


133

6

Tổng

158

150

182

172

662

- Trường THCS Hưng Hóa, Thị trấn Hưng Hóa
- Trường THCS Hương Nộn, xã Hương Nộn
- Trường THCS Nguyễn Quang Bích, xã Hương Nộn
- Trường THCS Cổ Tiết, xã Cổ Tiết
- Trường THCS Tề Lễ, xã Tề Lễ
- Trường THCS Quang Húc, xã Quang Húc
- Trường THCS Hiền Quan, xã Hiền Quan


12

2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu cơ sở lí thuyết của đề tài, các cơng trình nghiên cứu có liên

quan tới lĩnh vực đề tài.
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
2.2.2.1. Phương pháp điều tra
Sử dụng phiếu điều tra nhân trắc thu thập các thông tin cá nhân của đối
tượng nghiên cứu.
2.2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số
a. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số thể lực
Chiều cao được đo ở tư thế đứng thẳng trên nền phẳng, hai gót chân sát
vào nhau, mắt nhìn thẳng, đồng thời đảm bảo 4 điểm (chẩm, lưng, bụng, gút)
nằm trên một đường thẳng. Tư thế đứng thẳng được xác định khi đi mắt và
lỗ tai ngồi cùng ở trên đường thẳng nằm ngang, song song với mặt bàn cân.
Đo bằng thước dây khơng co dãn có độ chính xác đến 0,1 cm do Trung tâm
thiết bị trường học – Bộ Giáo dục và Đào tạo sản xuất.
Cân nặng được xác định bằng cân đồng hồ có vạch chia đến 0,1 kg. Khi
đo đối tượng chỉ mặc quần áo mỏng, không mang dày, dép và đặc biệt phải
đứng yên (không cử động) ở giữa bàn cân.
Vịng ngực trung bình được đo ở tư thế thẳng đứng, đo bằng thước dây
quấn quanh ngực qua mũi ức, dưới núm vú sao cho mặt phẳng của thước dây
tạo ra song song với mặt đất. Đo bằng thước dây khơng co dãn có độ chính
xác đến 0,1 cm do Trung tâm thiết bị trường học – Bộ Giáo dục và Đào tạo
sản xuất. Khi đo, học sinh chỉ mặc áo mỏng.
Chỉ số pignet được tính theo cơng thức sau:
Pignet = Chiều cao (cm) – [Cân nặng (kg) + Vịng ngực trung bình (cm)]
Chỉ số pignet được đánh giá dựa theo thang phân loại của Nguyễn
Quang Quyền và Đỗ Như Cương.


13

Bảng 2.2. Phân loại thể lực theo chỉ số pignet

STT

Chỉ số pignet

Loại

1

< 23,0

Cực khỏe

2

23,0 – 28,9

Rất khỏe

3

29,0 – 34,9

Khỏe

4

35,0 – 41,0

Trung bình


5

41,1 – 47,0

Yếu

6

47,1 – 53,0

Rất yếu

7

> 53,0

Cực yếu

Chỉ số BMI được tính theo cơng thức sau:
BMI = Cân nặng (kg) / [Chiều cao đứng (m) ]2
Chỉ số BMI được đánh giá theo bảng phân loại của Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) và dành riêng cho người châu Á (IDI & WPRO).
Bảng 2.3. Phân loại của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và dành riêng cho
người châu Á (IDI & WPRO)
Phân loại

WHO BMI (kg/ m2 )

IDI & WPRO BMI (kg/ m2 )


Cân nặng thấp (gầy)

< 18,5

< 18,5

Bình thường

18,5 – 24,9

18,5 – 22,9

Thừa cân

25

23

Tiền béo phì

25 – 29,9

23 – 24,9

Béo phì độ I

30 – 34,9

25 – 29,9


Béo phì độ II

35 – 39,9

30

Béo phì độ III

40

40

b. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số chức năng của một số hệ cơ quan
Nhịp tim, huyết áp được đo vào đầu buổi học sau khi đối tượng đã nghỉ
ngơi ít nhất 15 phút và dùng huyết áp kế điện tử để đo. Khi đo, đối tượng ngồi
ở tư thế thoải mái.


14

Sinh lí dậy thì tuổi dậy thì đầu tiên ở nam và nữ, chu kì kinh nguyệt, số
ngày chảy máu trong chu kì kinh nguyệt thu được thơng qua phiếu điều tra.
Tiến hành đo đạc, các chỉ số thu được sẽ được ghi vào phiếu điều tra.
2.2.2.3. Phương pháp phân tích và xử lí số liệu
a. Phương pháp tính tuổi
Tuổi của đối tượng nghiên cứu được tính như sau:
Số năm tuổi = số năm  6 tháng
b. Phương pháp xử lí số liệu
Việc xử lí số liệu được tiến hành theo hai bước:
- Bước 1:

+ Kiểm tra các phiếu trả lời của đối tượng nghiên cứu về sinh lí dậy thì.
Những phiếu nào khơng đáp ứng được u cầu nghiêm ngặt của test cần được
loại bỏ và yêu cầu đối tượng làm lại.
+ Đối chiếu với tiêu chuẩn đánh giá của các loại test được sử dụng để
chấm điểm các phiếu trả lời của từng đối tượng.
+ Lập bảng thống kê số liệu theo các chỉ số nghiên cứu.
- Bước 2:
Sử dụng phương pháp thống kê trong toán học và số liệu được xử lí
bằng phần mềm Excel.
Số liệu được kiểm định “T-test” theo phương pháp Student – Fisher.
Các mẫu nghiên cứu đều có n  30 nên các đại lượng được tính theo các cơng
thức sau:
n

+ Giá trị trung bình: X 

 Xi
i 1

n

Trong đó:

X - giá trị trung bình
Xi – giá trị thứ i của đại lượng X
n – số mẫu nghiên cứu.


15


+ Độ lệch chuẩn SD =

1 n
(X i  X) 2

n i1

Trong đó:

X - Giá trị trung bình
X i : Giá trị thứ i của đại lượng X

n – Số cá thể ở mẫu nghiên cứu
Sự sai khác của hai giá trị trung bình của hai mẫu nghiên cứu khác
nhau ở mức ý nghĩa ∝ và được kiểm định bằng hàm “T-test” theo phương
pháp Student – Fisher:

Z

XY
2
SD2x SD y

n
m

Trong đó:

X , Y - Các giá trị trung bình;
M, n – Số cá thể ở mẫu nghiên cứu;

∝ - Mức ý nghĩa;
SD – Độ lệch chuẩn của giá trị X.Y


16

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả nghiên cứu về tầm vóc – thể lực của ĐTNC
3.1.1. Kết quả nghiên cứu chiều cao đứng trung bình của ĐTNC
Kết quả nghiên cứu chiều cao đứng của 662 HS của 7 trường thuộc 2 KV
thị trấn và nông thơn thể hiện ở bảng 3.1 và hình 3.1
Số liệu trên bảng 3.1 cho thấy chiều cao của HS tăng dần theo độ tuổi
và mức tăng hàng năm không đều giữa nam và nữ, giữa thị trấn và nông thôn.
HS tại KV thị trấn có chiều cao lớn hơn so với chiều cao của HS tại KV nông
thôn. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05) ở độ tuổi 13, 14 đối với
các em nam và 14 đối với các em nữ.
Mức tăng chiều cao trung bình năm của HS KV thị trấn cao hơn so với
KV nông thôn, cụ thể: chiều cao HS nam ở KV thị trấn tăng trung bình 3,83
cm/năm, ở KV nơng thơn là 3,55 cm/năm, đối với các em nữ ở KV thị trấn có
mức tăng chiều cao trung bình là 3,83 cm/năm, ở KV nông thôn là 3,41
cm/năm. Sự sai khác này không đáng kể do các em ở KV thị trấn có điều kiện
tập luyện thể dục thể thao và chế độ dinh dưỡng cao hơn, tuy nhiên ở KV
nông thôn những vấn đề trên cũng ngày càng được chú trọng.
Trong cùng một độ tuổi ở cùng KV sống, chiều cao của các em nam và
các em nữ có sự khác biệt. Ở tuổi dậy thì, hoocmon tăng trưởng và hoocmon
sinh dục tiết ra mạnh nhất làm cho hệ xương của các em phát triển mạnh, đặc
biệt là xương ống dài ra rất nhanh nên chiều cao của các em cũng tăng nhanh.


17


Bảng 3.1. Chiều cao đứng trung bình của ĐTNC theo tuổi, giới tính và KV sống
Đơn vị: cm
KV

Tuổi

Nữ (2)

Nam (1)
n

SD

11

31 141,18 7,44

12
Thị
trấn

Tăng n

SD

Tăng

2


3,75

2- 4

p(1-2)

p(2-4)

0,7

>0,05 >0,05

35 143,77 6,55 2,59 28 140,71 6,23 3,28 3,06

-0,1

>0,05 <0,05

13

30 149,30 5,44 5,53

-0,89 <0,05 <0,05

14

30 151,11 5,38 1,81 32 150,13 4,15 5,26

15


32 156,48 5,64 5,37 30 152,76 4,53 2,63 3,72

Tuổi

30 137,43 6,15

1-

30 144,87 5,28 4,16 4,43

Nữ (4)

Nam (3)
Tăng n

3-

Tăng

1

<0,05 >0,05

2,39

>0,05 >0,05

1-

3


p(3-4)

p(1-3)

n

SD

11

33 140

4,3

37 136,73 4,66

3,27

1,18

>0,05 >0,05

Nông 12
thôn
13

35 143

4,57 3,0


35 140,81 4,03 4,08

2,19

0,77

>0,05 >0,05

39 145,82 4,67 2,82

39 145,76 4,47 4,95

0,06

3,48

<0,05 >0,05

14

43 149,72 4,8

43 149,13 3,36 3,37

0,59

1,39

<0,05 >0,05


15

32 154,20 5,33 4,48

32 150,37 3,08 1,24

3,83

2,28

>0,05 >0,05

3,9

SD

0,98

4


18
Cm
160
155
150
Nam thị trấn

145


Nam nơng thơn
Nữ thị trấn

140

Nữ nơng thơn

135
130

Tuổi

125
11

12

13

14

15

Hình 3.1. Biểu đồ thể hiện chiều cao đứng của ĐTNC theo tuổi, giới tính và KV
Cm
7
6
5
Nam thị trấn


4

Nam nơng thơn

Nữ thị trấn

3

Nữ nơng thơn

2
1
0

12

13

14

15

15

Tuổi

Hình 3.2. Biểu đồ biểu diễn tốc độ tăng chiều cao đứng của HS



19

Kết quả về chiều cao của ĐTNC được so sánh kết quả với các nghiên
cứu của các tác giả khác được trình bày qua bảng 3.2.
Bảng 3.2. So sánh chiều cao đứng trung bình của ĐTNC với nghiên cứu của
các tác giả khác

GT Tuổi

Nguyễn Thị Thu Hiền
(2013)
Thị trấn

Nam

Nữ

Lê Thị Thúy
(2015)

Lê Thị Nguyệt
(2017)

Nông thôn Thị trấn Nông thôn Thị trấn Nông thôn

11

138,2

137,39


138,62

137,88

141,18

140

12

139,22

138,61

140,74

139,85

143,77

143

13

143,64

140,11

142,57


141,96

149,30

145,82

14

148,86

145,27

147,72

145,64

151,11

149,72

15

155,32

153,32

155,68

153,55


156,48

154,20

11

138,32

136,37

138,5

137,29

137,43

136,73

12

139,14

137,48

140,92

139,46

140,71


140,81

13

145,83

145,09

143,47

143,29

144,87

145,76

14

147,84

146,14

150,39

147,58

150,13

149,13


15

152,18

149,62

153,25

150,83

152,76

150,37

Như vậy kết quả về chiều cao của HS nam tại KV nghiên cứu gần
ngang bằng với kết quả của Nguyễn Thị Hiền trên địa bàn Hà Nội và Lê Thị
Thúy tại Cẩm Khê – Phú Thọ, đối với HS nữ thì chiều cao đứng cao hơn so
với các tác giả. Sự khác nhau này có thể do điều kiện kinh tế xã hội ở các
vùng địa lí khác nhau (ở thành phố thường cao hơn vùng nông thôn) cũng như
do thời gian nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên tất cả các nghiên cứu đều cho
thấy chiều cao tăng dần theo tuổi, đặc biệt ở tuổi dậy thì.


20

3.1.2. Kết quả nghiên cứu cân nặng trung bình của ĐTNC
Cân nặng gồm 2 phần: Phần cố định và phần khơng có định. Sự tăng cân
do tăng sự tích lũy về mỡ và nước (phần không cố định), kết quả nghiên cứu
của HS lứa tuổi 11 – 15 tuổi thuộc 2 KV thị trấn và nông thôn được thể hiện ở

bảng 3.3.
- Khu vực thị trấn: Cân nặng của HS nam tăng thêm 15,62 kg, mỗi năm
tăng trung bình 3,90 kg/năm. Cân nặng của HS nữ tăng thêm 11,2 kg, mỗi
năm tăng trung bình 2,81 kg/năm. Trong đó, HS nam có cân nặng cao hơn HS
nữ và điều này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Khu vực nông thôn: Cân nặng của HS nam tăng thêm 14,81 kg, mỗi
năm tăng trung bình 3,70 kg/năm. Cân nặng của HS nữ tăng thêm 10,50 kg,
mỗi năm tăng trung bình 2,63 kg/năm. Trong đó, ở độ tuổi 12 cân nặng của
HS nữ thấp hơn HS nam và điều này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Cân nặng
của nam ở độ tuổi 12, 14 và 15 lớn hơn của nữ và có ý nghĩa thống kê ở độ
tuổi 11 (p<0,05).
Như vậy, ở giai đoạn 11 – 15 tuổi, tốc độ tăng cân nặng của HS nữ
chậm hơn so với HS nam và tốc độ này diễn ra khơng đều. Trong đó thời
điểm tăng nhảy vọt về cân nặng của nam từ 14 – 15 tuổi (tăng 3,64 kg/năm ở
KV thị trấn và 3,81 kg/năm ở KV nông thôn) và của nữ từ 12 – 13 tuổi (tăng
6,68 kg/năm ở KV thị trấn và 5,23 kg/năm ở KV nông thôn). Thời điểm tăng
nhảy vọt cân nặng ở nam muộn hơn ở nữ 1 năm là do ở nữ dậy thì sớm hơn
nam, chính yếu tố dậy thì đã chi phối đến tốc độ tăng trưởng cân nặng của
nam và nữ cùng KV.
So sánh cân nặng của HS ở hai KV thấy được cân nặng của các em nam
và nữ KV thị trấn lớn hơn các em KV nông thôn trong cùng độ tuổi. Cân nặng
của nam và nữ ở KV thị trấn lớn hơn các em nam và nữ KV nơng thơn một
cách có ý nghĩa (p<0,05). Nguyên nhân là do cân nặng ít chịu ảnh hưởng của
yếu tố di truyền so với chiều cao và phụ thuộc vào điều kiện sống cả về mặt
xã hội lẫn kinh tế. Chính vì vậy, chế độ dinh dưỡng cao hơn cũng như dậy thì
của các em KV thị trấn sớm hơn các em KV nông thôn, điều này đã ảnh
hưởng trực tiếp tới sự phát triển cân nặng.


21


Bảng 3.3. Cân nặng trung bình của ĐTNC theo tuổi, giới tính và KV sống

Đơn vị: kg
KV

Tuổi

N

SD

11

31

35,93

5,44

Thị

12

35

36,43

5,6


trấn

13

30

45,40

14

30

15

32

Tuổi
11

Nữ (2)

Nam (1)
Tăng

n

Tăng

2


2- 4

p(1-2)

p(2-4)

3,22

-2,24

>0,05

<0,05

30

32,71

4,22

0,5

28

33,07

3,85

0,36


3,27

-4

>0,05

<0,05

3,51

8,97

30

40,60

3,49

7,53

4,8

-1,3

>0,05

<0,05

46,91


3,63

1,51

32

43,95

2,73

3,35

2,96

-0,64

>0,05

<0,05

50,55

3,05

3,64

30

44,96


2,33

1,01

5,59

-0,49

>0,05

<0,05

p(3-4)

p(1-3)

Nữ (4)

Nam (3)
N
33

SD

1-

SD
34,07

4,08


Tăng

n

SD

Tăng

3-

4

1-

3

37

34,95

3,96

-0,88

1,86

<0,05

>0,05


Nông

12

35

38,93

3,63

4,86

35

37,07

3,41 2,12

1,86

-2,5

>0,05

<0,05

thôn

13


39

39,33

3,38

0,4

31

41,93

2,96 4,86

-2,6

6,07

<0,05

>0,05

14

43

43,53

3,60


4,2

30

44,59

1,94 2,66

-1,06

3,38

<0,05

>0,05

15

32

48,88

3,81

5,35

39

45,45


2,62 0,86

3,43

1,67

>0,05

>0,05


22
Kg
60

50

40
Nam thị trấn
Nam nơng thơn

30

Nữ thị trấn
Nữ nơng thơn

20

10


0
11

12

13

14

15

Tuổi

Hình 3.3. Biểu đồ thể hiện cân nặng trung bình của ĐTNC theo tuổi,
giới tính và KV sống
Kg
10

Nam
t hị
8

t r ấn

Nam

6

9


nơng
t hơn

4

Nữ
2

8

t hị
t r ấn

0
Nữ
12

13

14 15
nông
t hôn

7
Nam thị trấn
Nam nông thôn

6


5

Nữ thị trấn

4

Nữ nơng thơn

3
2
1
0

Tuổi
12

13

14

15

Hình 3.4. Biểu đồ biểu diễn tốc độ tăng cân nặng của HS


23

Bảng 3.4. So sánh cân nặng trung bình của ĐTNC với nghiên cứu
của các tác giả khác
Nguyễn Thị Thu

GT Tuổi

Hiền (2013)
Thị trấn

Nam

Nữ

Lê Thị Thúy (2015)

Nông
thôn

Lê Thị Nguyệt
(2017)

Thị trấn

Nông
thôn

Thị trấn

Nông
thôn

11

31,7


30,19

32,22

30,79

35,93

32,71

12

31,85

31,56

33,73

32,61

36,43

33,07

13

33,07

32,87


34,95

33,93

45,40

40,60

14

37,82

35,85

40,01

36,9

46,91

43,95

15

43,83

41,07

45,78


41,82

50,55

44,96

11

31,23

29,49

31,66

30,09

34,07

34,95

12

32,48

31,93

32,86

31,48


38,93

37,07

13

35,08

33,89

34,61

33,02

39,33

41,93

14

39,78

37,42

41,29

38,25

43,53


44,59

15

41,3

39,07

42,86

40,97

48,88

45,45

Cân nặng trung bình của ĐTNC ở KV thị trấn và KV nơng thơn trong
nghiên cứu của tơi có cân nặng cao hơn trong nghiên cứu của Nguyễn Thị
Hiền (2013) và Lê Thị Thúy (2015). Có thể do điều kiện sống, đặc biệt là chế
độ dinh dưỡng tốt hơn, phương pháp chăm sóc, ni dưỡng tốt nên cân nặng
của các em tăng lên một cách rõ rệt.


×