Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.02 KB, 76 trang )

Chuyên đề thực tập
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trên đà phát triển, tình hình kinh tế trong những năm vừa
qua có rất nhiều sự chuyển biến tốt đẹp. Năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Để theo kịp với nền kinh
tế thế giới và khu vực thì vấn đề đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng là rất quan trọng,
nó sẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm gần đây, hoạt động đấu thầu xây dựng ở nước ta trong lĩnh
vực xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển hơn bao giờ hết, các công ty xây dựng phải
cạnh tranh trong một môi trường vô cùng khắc nghiệt. Số lượng các doanh nghiệp
xây dựng gia tăng ngày càng nhiều, cả trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, hệ
thống pháp luật về đấu thầu ở nước ta vẫn chưa được hoàn chỉnh, các vấn đề bất cập
xoay quanh nó vẫn còn rất nan giải, các doanh nghiệp phải điều chỉnh hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mình để thích ứng và tồn tại.
Qua một thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty cổ phần tư vấn thiết kế công
nghệ xây dựng và với những kiến thức đã học đã cho em thấy vai trò của công tác
đấu thầu xây dựng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty là vô cùng quan
trọng, vì vậy em đã quyết định chọn đề tài: “Nâng cao khả năng cạnh tranh trong
đấu thầu xây dựng của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng” là
đề tài nghiên cứu của mình.
Nội dung đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Những lí luận chung về khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng
cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp.
Chương 2. Phân tích thực trạng khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng
cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ
xây dựng.
Chương 3: Những biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu
xây dựng của công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng.
Do trình độ và thời gian có hạn nên đề tài nghiên cứu của em không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo cũng
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A


1
Chuyên đề thực tập
như sự góp ý của các cán bộ trong công ty cổ phần đầu tư thiết kế công nghệ xây
dựng để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả nhân viên trong
công ty cổ phần tư vấn thiết kế công nghệ xây dựng đã giúp đỡ, chỉ bảo em hoàn
thành đề tài nghiên cứu này. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Hoàng
Minh Đường đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập vừa qua,
giúp em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
2
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 1. NHỮNG LÍ LUẬN CHUNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG
ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CỦA DOANH NGHIỆP.
1.1 TỔNG QUAN VỀ ĐẤU THẦU XÂY DỰNG.
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến đấu thầu.
Theo điều 3 tại chương I của quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định
số 88 / 1999 / NĐ – CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ đã nêu rõ nội dung
của một số thuật ngữ về đấu thầu:
- Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của Bên mời
thầu.
- Đấu thầu trong nước là cuộc đấu thầu chỉ có các nhà thầu trong nước tham
dự.
- Đấu thầu quốc tế là cuộc đấu thầu có các nhà thầu trong và ngoài nước tham
dự.
- Xét thầu là quá trình Bên mời thầu xem xét, phân tích, đánh giá xếp hạng các
hồ sơ dự thầu để lựa chọn nhà thầu trúng thầu.
- Dự án là tập hợp những đề xuất để thực hiện một phần hay toàn bộ công
việc, mục tiêu, hoặc yêu cầu nào đó. Dự án bao gồm dự án đầu tư và dự án không có

tính chất đầu tư.
- Bên mời thầu là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp của
chủ dự án, chủ đầu tư được giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu.
- Nhà thầu là tổ chức cá nhân trong nước hoặc nước ngoài có năng lực pháp
luật dân sự, đối với cá nhân còn phải có năng lực hành vi dân sự để kí kết và thực
hiện hợp đồng. Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của nhà thầu
trong nước được xét theo pháp luật Việt Nam, đối với nhà thầu nước ngoài được xét
theo pháp luật của nước nơi nhà thầu mang quốc tịch. Nhà thầu phải đảm bảo sự độc
lập về tài chính của mình.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
3
Chuyên đề thực tập
Nhà thầu là nhà xây dựng trong đấu thầu xây lắp; là nhà cung cấp trong đấu
thầu mua sắm hàng hóa; là nhà tư vấn( có thể là một cá nhân) trong đấu thầu tuyển
chọn tư vấn; là nhà đầu tư trong đấu thầu lựa chọn đối tác đầu tư.
Nhà thầu có thể tham gia dự thầu độc lập( gọi là nhà thầu độc lập) hoặc liên
doanh với các nhà thầu khác( gọi là nhà thầu liên doanh). Trường hợp liên doanh phải
có văn bản thỏa thuận giữa các thành viên tham gia liên doanh về trách nhiệm chung
và riêng đối với công việc thuộc gói thầu và phải có người đứng đầu của liên doanh.
- Gói thầu là toàn bộ dự án hoặc một phần công việc của dự án được phân chia
theo tính chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện một dự án, có quy mô hợp lý và bảo
đảm tính đồng bộ của dự án.
- Hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu do Bên mời thầu lập, bao gồm các yêu cầu
cho một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu và Bên
mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu phải được người có thẩm quyền
hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi phát hành.
- Hồ sơ dự thầu là các tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu của hồ sơ mời
thầu.
- Mở thầu là thời điểm tổ chức mở các hồ sơ dự thầu được quy định trong hồ
sơ mời thầu.

- Đóng thầu là thời điểm kết thúc việc nộp hồ sơ dự thầu được quyết định
trong hồ sơ mời thầu.
- Kết quả đấu thầu là nội dung phê duyệt của người có thẩm quyền hoặc cấp
có thẩm quyền về tên nhà thầu trúng thầu, giá trúng thầu và loại hợp đồng.
- Thương thảo hoàn thiện hợp đồng là quá trình tiếp tục thương thảo hoàn
chỉnh nội dung chi tiết của hợp đồng với nhà thầu trúng thầu để kí kết.
1.1.2. Các hình thức và phương thức đấu thầu xây dựng.
Theo điều 4- Quy chế đấu thầu thuộc nghị định số 88/1999/ NĐ- CP thì đấu
thầu xây dựng cũng như các loại đấu thầu khác được thực hiện theo hai hình thức chủ
yếu đó là:
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
4
Chuyên đề thực tập
- Đấu thầu rộng rãi : Là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu
tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu
trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo trên tờ thông tin về đấu thầu
và trang Web về đấu thầu của Nhà nước và của Bộ, ngành địa phương tối thiểu 10
ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu áp
dụng trong đấu thầu.
- Đấu thầu hạn chế: Là hình thức đấu thầu mà Bên mời thầu mời một số nhà
thầu ( tối thiểu là 5) có đủ kinh nghiệm và năng lực tham dự. Trong trường hợp thực
tế chỉ có ít hơn 5, Bên mời thầu phải báo cáo chủ dự án trình người có thẩm quyền
xem xét, quyết định. Chủ dự án quyết định danh sách nhà thầu tham dự trên cơ sở
đánh giá của Bên mời thầu về kinh nghiệm và năng lực các nhà thầu, song phải đảm
bảo khách quan công bằng và đúng đối tượng. Hình thức này chỉ được xem xét áp
dụng khi có một trong các điều kiện sau:
* Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu.
* Do nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế.
* Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế.
Theo điều 5- Quy chế đấu thầu thuộc nghị định số 88/ 1999/ NĐ- CP thì có ba

phương thức đấu thầu:
- Đấu thầu một túi hồ sơ: Là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu
trong một túi hồ sơ. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng
hóa và xây lắp.
- Đấu thầu hai túi hồ sơ: Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật
và đề xuất về giá trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề
xuất kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật
từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về giá để đánh giá. Phương thức này
chỉ được áp dụng đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn.
- Đấu thầu hai giai đoạn: Phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau:
* Các gói thầu mua sắm hàng hóa và xây lắp có giá trị từ 500 tỷ đồng trở lên.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
5
Chuyên đề thực tập
* Các gói thầu mua sắm hàng hóa có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn
bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp.
* Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khóa trao tay.
o Giai đoạn 1: Các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu sơ bộ gồm đề xuất về mặt kỹ
thuật và phương án tài chính ( chưa có giá ) để Bên mời thầu xem xét và
thảo luận cụ thể với từng nhà thầu nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu
chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thức của
mình.
o Giai đoạn 2: Bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ
nhất nộp hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung
hoàn chỉnh trên cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính
với đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự thầu.
1.1.3 Một số tính chất và nguyên tắc của đấu thầu xây dựng.
- Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có rất nhiều công ty xây dựng với quy
mô và năng lực khác nhau. Vì thế để công trình xây dựng đạt được hiệu quả kinh tế
cũng như đảm bảo tính kỹ thuật thì nhà nước đã ban hành quy chế về đấu thầu với

một số tính chất sau:
* Tính bình đẳng:
Trong đấu thầu tính bình đẳng thể hiện ở điểm là mọi nhà thầu đều được tham
gia dự thầu một cách công bằng, tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Những nhà thầu tham gia đều có quyền được Bên mời thầu cung cấp đầy đủ các
thông tin cần thiết về gói thầu. Tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá được áp dụng
chung cho tất cả mọi nhà thầu. Thực hiện tính bình đẳng trong đấu thầu xây dựng
mang lại hiệu quả kinh tế và chất lượng công trình cho nhà đầu tư, nhà dự thầu và
Bên mời thầu.
* Tính thống nhất: Thể hiện ở chỗ là khi đã hết hạn nộp hồ sơ dự thầu thì
không được thay đổi bất kỳ một yếu tố nào trong hồ sơ tham gia dự thầu vì theo quy
định tất cả những đề xuất về mặt kỹ thuật cũng như về mặt tài chính đều đã được
niêm phong. Tính thống nhất còn thể hiện ở chỗ là mọi hồ sơ của nhà thầu từ nhà
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
6
Chuyên đề thực tập
thầu đầu tiên đến nhà thầu cuối cùng đều được đánh giá theo một tiêu chuẩn thống
nhất. Nhà thầu không thay đổi những quy định liên quan tới gói thầu, nếu có sự thay
đổi phải thông báo cho các nhà thầu biết trước khi hết hạn nộp hồ sơ dự thầu. Ngoài
ra việc đấu thầu phải tiến hành theo một lộ trình thống nhất, các bên tham gia đấu
thầu phải tuân theo mọi thủ tục và theo các quy định định sẵn của nhà thầu. Làm tốt
công tác này sẽ giúp đảm bảo tiến độ và kết quả của đấu thầu.
* Tính bảo mật cao: Mọi thông tin về các đề xuất tài chính và kỹ thuật của nhà
thầu phải được nhà mời thầu bảo đảm giữ bí mật, không được tiết lộ ra bên ngoài hay
sao chép trước thời điểm mở thầu. Thang điểm đánh giá hồ sơ dự thầu cũng phải
được bảo đảm bí mật tuyệt đối.
* Tính khách quan: Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu đòi hỏi phải có sự
đánh giá khách quan của Bên mời thầu. Các tiêu chí đánh giá phải được nêu rõ trong
tài liệu đấu thầu và có thang điểm đi kèm. Thông thường Bên mời thầu ngoài việc
xem xét về yếu tố giá cả và kỹ thuật còn phải xem xét các yếu tố khác như hồ sơ

năng lực kinh nghiệm của công ty, năng lực nhân sự, phương thức thanh toán và các
điều khoản bảo hành.
- Một số nguyên tắc của đấu thầu xây dựng:
* Nguyên tắc cạnh tranh công bằng với các điều kiện như nhau: Với mỗi cuộc
đấu thầu đều có sự tham gia của một số nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu do nhà
mời thầu đưa ra, tạo ra một môi trường cạnh tranh giữa các nhà thầu. Nhà mời thầu
phải cung cấp đầy đủ các thông tin và các tài liệu đấu thầu là như nhau cho các nhà
thầu, không được có sự thiên lệch về bất cứ bên nào.
* Nguyên tắc công khai và cung cấp đầy đủ dữ liệu : Theo nguyên tắc này tất
cả các giai đoạn từ gọi thầu đến mở thầu Nhà mời thầu phải thực hiện công khai, trừ
những công trình có tính chất đặc biệt thuộc về bí mật quốc gia. Ngoài ra Nhà mời
thầu còn phải có trách nhiệm cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến gói thầu như
về quy mô, yêu cầu chất lượng, khối lượng công trình. Thực hiện tốt công tác này sẽ
giúp cho quá trình lập hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính của nhà thầu
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
7
Chuyên đề thực tập
sẽ chính xác, quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu lựa chọn nhà thầu vì thế mà đúng đắn
hơn.
* Nguyên tắc đánh giá khách quan: Hội đồng xét thầu phải tiến hành đánh giá
đầy đủ các bộ hồ sơ dự thầu và theo cùng một tiêu chuẩn, thang điểm đã được xây
dựng từ trước. Trong quá trình đánh giá không được có bất cứ một sự ưu tiên thiên vị
dành cho một nhà thầu nào đó.
* Nguyên tắc ba bên : Một số gói thầu có yêu cầu kỹ thuật cao thì đòi hỏi có
sự có mặt của ba bên đó là nhà mời thầu, nhà thầu, các nhà chuyên gia tư vấn. Các
chuyên gia tư vấn có vai trò như nhà trọng tài đảm bảo cho quá trình đánh giá hồ sơ,
lựa chọn nhà thầu được diễn ra khách quan, đem lại sự công bằng cho các nhà thầu
tham gia dự thầu. Những sự vi phạm của nhà mời thầu trong quá trình đánh giá cũng
như sự mua chuộc của nhà thầu, sự móc ngoặc liên kết giữa các nhà thầu đều bị xử
phạt.

* Nguyên tắc bảo đảm và bảo lãnh: Theo nguyên tắc này thì các nhà thầu phải
thực hiện một trong các biện pháp đặt cọc, kí quỹ hoặc nộp thư bảo lãnh để bảo đảm
trách nhiệm dự thầu của nhà thầu, hoặc để bảo đảm trách nhiệm thực hiện hợp đồng
của nhà thầu trúng thầu trong một thời gian xác định theo yêu cầu của hồ sơ mời
thầu. Nguyên tắc này giúp bảo đảm lợi ích của cả Bên mời thầu và nhà thầu, nó thể
hiện tính chất nghiêm túc của quá trình thực hiện đấu thầu.
1.1.4 Vai trò của đấu thầu xây dựng.
- Đối với nhà nước: Đấu thầu giúp Nhà nước nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn vốn, hạn chế lãng phí thất thoát vốn chống tiêu cực vào các công trình xây
dựng, đóng góp vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng của nhà nước. Nhà nước thông qua
đấu thầu có thể lựa chọn được nhà thầu có khả năng hoàn thành công trình với
phương án kinh tế hợp lý. Hiện nay theo con số mà Uỷ ban kinh tế và Ngân sách
Quốc hội là khoảng 50% vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam bị rút ruột thất
thoát. Có đến 80% các gói thầu thuộc các lãnh vực khác nhau được giới chức thực
hiện hiện theo hình thức chỉ định thầu hoặc đấu thầu hạn chế, ngoài ra còn tình trạng
thông thầu, gian lận cố ý tính sai giảm giá gói thầu để trúng thầu sau đó xin điều
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
8
Chuyên đề thực tập
chỉnh gói thầu. Vì vậy việc áp dụng luật mới trong đấu thầu xây dựng là rất cần thiết
để giảm thiểu tình trạng thất thoát vốn nhà nước, các công trình bị rút ruột.
- Đối với doanh nghiệp: Đấu thầu xây dựng tạo lập một môi trường cạnh tranh
công bằng minh bạch mà ở đó nhà thầu nào có năng lực thì nhà thầu đó chiếm vị trí
thượng phong, không còn tình trạng thông thầu, tình trạng khép kín trong đấu thầu
xây dựng, tình trạng cấu kết thông đầu giữa bên mời thầu với nhà thầu, cố tình sắp
đặt để cha mẹ đẻ, cha mẹ vợ hoặc chồng, anh chị em ruột, người thân tham gia các
gói thầu mà bản thân làm bên mời thầu hoặc là thành viên tổ chuyên gia đấu thầu,
thành viên tổ chuyên gia thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu. Đấu thầu giúp chủ đầu
tư có thể lựa chọn được nhà thầu có năng lực đáp ứng được yêu cầu của mình về kỹ
thuật, chất lượng công trình được đảm bảo, thực hiện công trình theo đúng tiến độ,

hiệu quả kinh tế cao.
Đấu thầu xây dựng là hình thức đảm bảo sự công bằng minh bạch cho tất cả
các nhà thầu tham gia. Chính vì thế nó thúc đẩy các nhà thầu ứng dụng khoa học
công nghệ hiện đại, khoa học quản lý hiện đại trong quá trình sản xuất và quản trị,
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản trị và đội ngũ nhân viên trong doanh nghiệp.
Thông qua đấu thầu các nhà thầu có thể lựa chọn những gói thầu phù hợp với khả
năng của doanh nghiệp mình, đảm bảo chất lượng công trình tăng niềm tin, uy tín với
chủ đầu tư và các đối tác trong tương lai.
1.2 NỘI DUNG CỦA CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH
TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ
KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG.
1.2.1 Khái niệm về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh trong đấu thầu
xây dựng.
Thuật ngữ cạnh tranh xuất hiện từ nửa sau thế kỷ XVIII, xuất phát từ “ tự do
kinh tế ” mà Adam Smith đã phát hiện. Nhờ cạnh tranh mà xã hội loài người ngày
càng phát triển về mọi mặt. Cạnh tranh kích thích lòng tự hào, ý chí vươn lên ham
muốn làm giàu, ham muốn khám phá cái mới, nhờ đó mà thúc đẩy khoa học kỹ thuật
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
9
Chuyên đề thực tập
phát triển, thúc đẩy sự phát triển của mọi ngành nghề lĩnh vực, mọi doanh nghiệp
không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn phát triển ra phạm vi toàn cầu.
Có khá nhiều quan niệm về cạnh tranh tồn tại từ trước nửa đầu thế kỷ XX đến
nay của nhiều học giả kinh tế nổi tiếng trên thế giới nhưng tựu chung lại thì cạnh
tranh chính là sự ganh đua, sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí
hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ
khoa- kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu
quả cao nhất.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường như nước ta hiện nay, nhà nước chỉ
đóng vai trò quản lý vĩ mô, mọi thành phần kinh tế đều hoạt động và vận hành theo

cơ chế của thị trường: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh. Trong
đó quy luật cạnh tranh là quy luật tất yếu, là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị
trường, nếu doanh nghiệp muốn tồn tại, phát triển thì doanh nghiệp phải tìm mọi cách
để hoàn thiện, nâng cao tiềm lực doanh nghiệp về mọi mặt.
Trong cạnh tranh nảy sinh ra những người có khả năng cạnh tranh mạnh,
người có khả năng cạnh tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản
phẩm có khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh tranh
hay sức cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được
lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh
tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Trong đấu
thầu xây dựng thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chính là thị phần của doanh
nghiệp xây dựng, doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động đấu thầu, năng lực tài chính của
doanh nghiệp, nguồn nhân lực có trình độ cao có kinh nghiệm, phương pháp quản lý,
bảo vệ môi trường, uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp. Những yếu tố trên tạo
cho doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh có nghĩa là tạo cho doanh nghiệp có khả năng
triển khai các hoạt động với hiệu suất cao hơn đối thủ cạnh tranh, tạo ra giá trị khác
biệt cho khách hàng dựa trên những sự khác biệt hóa trong các yếu tố của chất lượng
hoặc chi phí thấp hoặc cả hai.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
10
Chuyên đề thực tập
Cạnh tranh trong thị trường xây dựng rất khắc nghiệt nó tồn tại ba loại hình
cạnh tranh chủ yếu: cạnh tranh giữa các nhà thầu, cạnh tranh giữa chủ đầu tư và nhà
thầu, cạnh tranh giữa nhà thầu và người cung cấp các yếu tố đầu vào. Nhưng khắc
nghiệt nhất vẫn là sự cạnh tranh giữa các nhà thầu. Thông qua đấu thầu xây dựng,
nhà thầu nào có năng lực cạnh tranh, có lợi thế hơn hẳn so với các nhà thầu khác sẽ
dành phần thắng.
Vậy ta hiểu cạnh tranh giữa các nhà thầu trong đấu thầu xây dựng là như thế
nào? Đó là quá trình doanh nghiệp tìm kiếm thông tin về đấu thầu, tìm kiếm thị

trường sau đó tiến hành lựa chọn các gói thầu phù hợp với năng lực doanh nghiệp,
đưa ra các giải pháp về tài chính và kỹ thuật các biện pháp thi công để tham gia đấu
thầu. Nếu trúng thầu thì tiến hành kí kết và thực hiện hợp đồng cho tới khi bàn giao
công trình cho chủ đầu tư. Như vậy muốn dành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh gay
go này thì doanh nghiệp phải có thực lực về mọi mặt, không ngừng phát huy điểm
mạnh, phải tạo ra được sự khác biệt đối với các doanh nghiệp khác.
1.2.2 Phương thức cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh trong
đấu thầu xây dựng của các doanh nghiệp.
Trong đấu thầu xây dựng các nhà mời thầu thường căn cứ vào một số tiêu chí
để đánh giá, lựa chọn nhà thầu trúng thầu:
- Giá bỏ thầu
- Biện pháp kỹ thuật, chất lượng công trình.
- Tiến độ thi công
- Năng lực và kinh nghiệm nhà thầu.
- Biện pháp tổ chức thi công, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh môi trường.
Nhưng trong đó nhà mời thầu thường quan tâm tới bốn yếu tố đó là: giá bỏ
thầu, biện pháp kỹ thuật chất lượng công trình, tiến độ thi công, biện pháp tổ chức thi
công bảo đảm an toàn lao động và vệ sinh môi trường. Chính vì thế các doanh nghiệp
xây dựng thường chú ý tới bốn yếu tố này để nâng cao khả năng thắng thầu của
doanh nghiệp mình.
1.2.2.1 Cạnh tranh bằng giá dự thầu
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
11
Chuyên đề thực tập
Trong quá trình tham gia dự thầu, doanh nghiệp xây dựng thường chú ý tới
phương thức dùng giá để cạnh tranh với các nhà thầu khác bởi vì giá dự thầu là một
trong những yếu tố quyết định tới khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Để đưa ra
được một mức giá bỏ thầu hợp lý doanh nghiệp xây dựng phải tiến hành tìm hiểu thị
trường, tìm hiểu các thông tin liên quan đến dự án, tiến hành đánh giá các yếu tố môi
trường xung quanh. Việc xác định giá bỏ thầu là phức tạp vì nó phụ thuộc vào nhiều

yếu tố như trình độ của người làm công tác xây dựng giá bỏ thầu, trình độ tổ chức quản
lý công ty, kỹ thuật và tiến độ thi công, khả năng áp dụng công nghệ tiên tiến.
Chính sách về giá được áp dụng trong giá bỏ thầu cũng phụ thuộc vào từng
giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng như mục tiêu mà công ty theo đuổi, năng
lực công ty, địa điểm thực hiện dự án, phong tục tập quán của địa phương nơi triển
khai dự án, quy mô và đặc điểm của dự án. Doanh nghiệp muốn tăng khả năng cạnh
tranh về giá thì phải áp dụng chính sách về giá một cách linh hoạt.
1.2.2.2 Cạnh tranh bằng chất lượng công trình.
Chúng ta có thể nói rằng chất lượng công trình là minh chứng cụ thể và rõ
ràng nhất cho uy tín và năng lực của doanh nghiệp. Thông qua đó nó gây được ấn
tượng tốt cho chủ đầu tư, tạo khả năng thắng thầu cho doanh nghiệp.
Chất lượng công trình được đánh giá dựa trên các đặc trưng kinh tế kỹ thuật,
các chỉ tiêu mà nhà đầu tư đưa ra như tính năng, công dụng, độ bền, tính thẩm mỹ.
Chất lượng công trình không đảm bảo sẽ gây thiệt hại không những về mặt kinh tế
mà còn có thể cả về con người. Chính vì vậy mà doanh nghiệp xây dựng không
ngừng nâng cao chất lượng công trình kể cả những công trình được tổ chức đấu thầu
xây dựng và những công trình đã và đang xây dựng, vừa tạo ra một hình ảnh tốt vừa
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và đảm bảo
thực hiện được các mục tiêu đề ra.
1.2.2.3 Cạnh tranh bằng tiến độ thi công
Tiến độ thi công được thể hiện ở việc bố trí tổng thể công tác thi công công
trình của doanh nghiệp xây dựng, nó ảnh hưởng tới sự cam kết đối với chất lượng, an
toàn lao động và thời điểm bàn giao công trình cho chủ đầu tư. Cũng thông qua tiến
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
12
Chuyên đề thực tập
độ thi công của các nhà thầu xây dựng chủ đầu tư có thể nghiên cứu tìm hiểu các vấn
đề như trình độ quản lý, kỹ thuật thi công, máy móc thiết bị của nhà thầu xây dựng,
nhân lực của nhà thầu. Nếu nhà thầu xây dựng đảm bảo thực hiện đúng tiến độ thi
công, có giải pháp thi công sắp xếp công việc, bố trí thời gian thi công các hạng mục

công trình hợp lý thì sẽ có được lợi thế cạnh tranh, khả năng thắng thầu sẽ cao.
1.2.2.4 Cạnh tranh bằng biện pháp tổ chức thi công, bảo đảm an toàn cho
người lao động và giữ gìn vệ sinh môi trường.
Nếu các nhà thầu tham gia đấu thầu xây dựng mà có cùng số điểm khi đánh giá
trên các tiêu chí: giá dự thầu, chất lượng công trình, tiến độ thi công thì việc lựa chọn
nhà thầu thắng thầu sẽ được căn cứ trên tiêu chí biện pháp tổ chức thi công, bảo đảm
an toàn cho người lao động và giữ gìn vệ sinh môi trường. Hiện nay khoa học công
nghệ rất phát triển, được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực
xây dựng vì vậy mà doanh nghiệp xây dựng cần phải có giải pháp phân công bố trí
nhân lực hợp lí sao cho có một biện pháp tổ chức thi công hợp lí tận dụng tối đa máy
móc thiết bị, đảm bảo an toàn cho người lao động tham gia thi công và giữ gìn vệ sinh
môi trường để tạo thêm ưu thế cạnh tranh so với nhà thầu khác.
1.2.3 Những tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
xây dựng
1.2.3.1 Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Năng lực tài chính là yếu tố rất quan trọng để xem xét tiềm lực của doanh
nghiệp mạnh, yếu như thế nào.
- Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp:
* Hệ số khả năng thanh toán hiện hành = Tổng tài sản lưu động / tổng nợ ngắn
hạn.
Nếu hệ số này quá cao tức là doanh nghiệp đã đầu tư vào tài sản lưu động quá
nhiều, không mang lại hiệu quả lâu dài.
* Hệ số khả năng thanh toán tức thời = Tổng vốn tiền mặt/ Tổng nợ ngắn hạn.
Nếu hệ số này cao doanh nghiệp có khả năng lớn nhưng nếu quá cao thì không
mang lại hiệu quả vì tiền mặt không sinh lời.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
13
Chuyên đề thực tập
- Nhóm chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nguồn vốn và vốn :
* Tỷ lệ nợ = Tổng nợ phải trả / Tổng vốn (%)

Tỷ lệ này càng thấp doanh nghiệp càng ít phụ thuộc vào bên ngoài, các khoản
nợ càng đảm bảo thanh toán. Vì vậy tỉ lệ này cần duy trì ở mức trung bình của ngành
là hợp lý.
* Tỷ lệ vốn cố định = Vốn cố định / Tổng tài sản (%)
* Tỷ lệ vốn lưu động = Vốn lưu động / Tổng tài sản (%)
- Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả: đây là nhóm chỉ tiêu quan trọng đánh giá
kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ, là căn cứ để đưa ra các quyết định trong
tương lai.
* Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Lợi nhuận / Doanh thu (%).
Chỉ số này càng cao càng tốt, nó chứng tỏ giá thành sản phẩm thấp, hiệu quả
kinh doanh cao.
* Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư = Lợi nhuận / Tổng vốn đầu tư (%)
* Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có = Lợi nhuận / Tổng vốn chủ sở hữu (%)
1.2.3.2 Tổ chức của doanh nghiệp và phân công trách nhiệm.
Các nhà kinh tế học nước ngoài cho rằng một tổ chức mạnh quyết định tới
70% đến 80% thành công của doanh nghiệp trong mọi hoạt động. Điều này cho
chúng ta thấy vai trò quan trọng của tổ chức đến mức nào.
Ta có thể phân nhóm các tiêu chí trong tiêu trí này như sau:
- Hoạt động theo pháp luật của nhà nước.
- Hoạt động theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng.
- Phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của mọi bộ phận, mọi thành viên.
- Có chính sách, chiến lược, mục đích, mục tiêu hoạt động cụ thể.
- Có tổ chức gọn nhẹ tránh cồng kềnh.
1.2.3.3 Trình độ và năng lực điều hành của đội ngũ lãnh đạo.
Thành ngữ Việt Nam có câu: “ Một người lo bằng kho người làm ”, qua đó ta
hiểu rằng vai trò quan trọng như thế nào của đội ngũ lãnh đạo- những người dẫn
đường chỉ lối cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Người lãnh đạo là người dẫn
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
14
Chuyên đề thực tập

đường chỉ lối, vạch ra phương hướng, chiến lược, điều khiển và kiểm soát mọi hoạt
động của doanh nghiệp vì vậy đòi hỏi đội ngũ này phải có trình độ cao có khả năng
điều hành quản lý doanh nghiệp.
1.2.3.4 Đội ngũ công nhân viên lành nghề.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì tỷ lệ công
nhân viên lành nghề là đòi hỏi vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp tới chất
lượng sản phẩm và theo đó ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tỷ
lệ công nhân viên lành nghề là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp đạt được mục tiêu
đề ra, chi phí thấp, năng suất lao động cao. Một doanh nghiệp có tỷ lệ này cao sẽ có
lợi thế cạnh tranh và có năng lực cạnh tranh cao.
1.2.3.5 Giá trị vô hình của doanh nghiệp.
Giá trị vô hình là tiêu chí mang tính tổng hợp, nó là cả một quá trình cố gắng
nỗ lực phấn đấu hết mình của công ty mới có được, được xã hội và cộng đồng doanh
nghiệp trong và ngoài nước biết đến.
Giá trị vô hình của doanh nghiệp gồm hai bộ phận cấu thành. Một là uy tín,
hình ảnh danh tiếng của doanh nghiệp và được phản ánh chủ yếu ở “văn hóa doanh
nghiệp”. Văn hóa doanh nghiệp tạo ra các quy tắc ứng xử cho doanh nghiệp mà
không phải tạo ra tác dụng chỉ đạo, nó không chỉ có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp
mình thực hiện được phương thức kinh doanh “ lấy con người làm trung tâm”, mà
còn làm cho năng lực phát triển sản phẩm và năng lực đoàn kết hiệp đồng tập thể của
doanh nghiệp trở nên phồn vinh, tăng thêm sự gắn bó của nhân viên với doanh
nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hai là giá trị của tài sản nhãn hiệu,
với những nhãn hiệu lâu đời có uy tín cao thì giá trị càng cao. Muốn có được thương
hiệu doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo khác biệt về
sản phẩm và phong cách cung cấp sản phẩm.
1.2.3.6 Chất lượng của môi trường sinh thái.
Chất lượng của môi trường sinh thái là vấn đề cấp bách hiện nay, khi mà sự ô
nhiễm môi trường ngày càng nặng, trái đất nóng lên, thiên tai lũ lụt, hạn hán xảy ra
liên miên. Để có năng lực cạnh tranh cao thì sản phẩm của doanh nghiệp làm ra
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A

15
Chuyên đề thực tập
không được gây ô nhiễm môi trường bao gồm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn
nước và ô nhiễm sự yên tĩnh. Việc đánh giá tiêu chí này rất phức tạp vì nó bao hàm
nhiều chỉ tiêu mà phạm vi ảnh hưởng của nó đôi khi khó xác định vì vậy để bảo vệ
môi trường sinh thái thì nó phụ thuộc vào chính sách và ý thức của doanh nghiệp.
1.2.3.7 Chất lượng của cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, máy móc thiết bị.
Do tính chất đặc thù của ngành xây dựng đòi hỏi phải sử dụng máy móc thiết
bị hiện đại, mang tính kỹ thuật cao do vậy mà doanh nghiệp muốn có được lợi thế
cạnh tranh thì cần trang bị đầy đủ máy móc thiết bị, các cơ sở vật chất hạ tầng cần
thiết cho doanh nghiệp mình. Hơn nữa chất lượng của cơ sở vật chất hạ tầng, máy
móc thiết bị ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng của sản phẩm do đó ảnh hưởng tới
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng.
1.2.3.8 Năng suất lao động của doanh nghiệp.
Năng suất lao động là chỉ tiêu tổng hợp của mọi yếu tố: công nghệ, cơ sở vật
chất kỹ thuật, con người, quản lý tổ chức…Năng suất của máy móc thiết bị, công
nghệ được đo bằng lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian. Năng suất lao
động được đo bằng lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng trên một đơn vị lao động.
Năng suất lao động của doanh nghiệp càng cao bao nhiêu thì năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp càng cao bấy nhiêu. Có được năng suất cao là nhờ tổ chức
sản xuất kinh doanh tốt, sử dụng tối ưu các nguồn lực và giảm tối đa các chi phí vì
thế năng suất lao động là yếu tố quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
1.2.3.9 Một số tiêu chí khác.
Ngoài các tiêu chí trên để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
người ta còn dựa vào một số tiêu chí như: Số công trình trúng thầu và giá trị trúng
thầu hoặc xác suất trúng thầu.
Giá trị trúng thầu của từng năm là tổng giá trị của tất cả các công trình mà mỗi
doanh nghiệp đã tham gia đấu thầu và trúng thầu trong năm đó.
Xác suất trúng thầu là số công trình trúng thầu so với số công trình doanh

nghiệp tham gia đấu thầu.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
16
Chuyên đề thực tập
Qua hai chỉ tiêu trên chúng ta có thể đánh giá được tình hình công tác dự thầu
của doanh nghiệp cũng như thấy được tiềm lực của doanh nghiệp.
1.3 NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CỦA DOANH NGHIỆP.
1.3.1 Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
1.3.1.1 Người cung cấp các yếu tố đầu vào.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có sự phân công lao động và chuyên môn
hóa cao, doanh nghiệp không thể tự đảm nhiệm sản xuất mọi yếu tố đầu vào của quá
trình sản xuất vì thế để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên
tục và hiệu quả doanh nghiệp phải tìm mua các đầu vào từ bên ngoài có uy tín trên thị
trường. Nguồn đầu vào phải đáp ứng được yêu cầu giao hàng đúng hẹn, đúng chủng
loại và đảm bảo yêu cầu về chất lượng. Mặt khác doanh nghiệp phải thiết lập được mối
quan hệ tốt với người cung ứng, giúp đỡ nhau giải quyết khó khăn trong quá trình thực
hiện hợp đồng và tạo được niềm tin cho người cung ứng.
Việc mua các yếu tố đầu vào giữ vị trí quan trọng trong quá trình hình thành chất
lượng của sản phẩm, đồng thời là yếu tố cấu thành chất lượng sản phẩm và có ảnh
hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam các nguyên vật liệu, máy móc
thiết bị, công nghệ, các thiết thông tin chưa tự sản xuất được phải nhập nguồn từ
nước ngoài, việc kiểm tra đánh giá chất lượng của các sản phẩm đó còn nhiều hạn
chế, khó khăn chính vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng các công trình xây
dựng của doanh nghiệp. Do có khoảng cách địa lý quá xa doanh nghiệp xây dựng vì
thế mà còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm đối tác nước ngoài có uy tín để đảm
bảo chất lượng vật tư kỹ thuật, thời gian cung cấp sản phẩm theo tiến độ và việc xác
định giá cả của các mặt hàng cần mua.
Bên cạnh nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị doanh nghiệp còn

cần nguồn cung cấp về tài chính đó là các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương
mại. Những nhà cung cấp đầu vào này có ảnh hưởng nhất định tới doanh nghiệp họ
có thể tạo ra những áp lực làm ảnh hưởng tới khả năng thu lợi nhuận như việc tăng
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
17
Chuyên đề thực tập
giá thành, giảm chất lượng của những vật tư, máy móc thiết bị mà họ cưng ứng, cung
ứng không đúng thời gian hoặc tăng lãi suất cho vay. Đặc biệt khi những nhà cung
cấp này là những nhà cung cấp độc quyền một sản phẩm nào đó hay doanh nghiệp
không phải là khách hàng quan trọng của các nhà cung cấp; loại vật tư, máy móc thiết
bị mà nhà cung cấp cung ứng cho doanh nghiệp là yếu tố chủ đạo tạo lên chất lượng
sản phẩm. Do những tác động bất lợi như vậy nên doanh nghiệp xây dựng cần phải
biết biến những cái khó khăn thành những điểm mạnh như tạo mối quan hệ tốt lâu dài
với những nhà cung cấp uy tín; nguồn vật tư, máy móc thiết bị có chất lượng tốt của
nhà cung cấp có danh tiếng sẽ có được sự đánh giá tốt của chủ đầu tư.
1.3.1.2 Đối thủ cạnh tranh.
Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam có không ít
những cơ hội để tham gia thị trường thế giới như tiếp cận với các công nghệ mới, có
điều kiện nhập khẩu các thiết bị, nguyên vật liệu, dịch vụ có chất lượng cao, giá rẻ.
Tuy vậy môi trường cạnh tranh sẽ vô cùng khắc nghiệt, các doanh nghiệp xây dựng
cạnh tranh không chỉ với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong
nước mà còn với cả các doanh nghiệp nước ngoài họ không chỉ mạnh về cơ sở vật
chất, máy móc thiệt bị, công nghệ mà còn mạnh cả về vốn. Hiện nay các doanh
nghiệp Việt Nam tuy đã lớn mạnh về nhiều mặt nhưng nhìn chung khả năng cạnh
tranh còn rất nhiều yếu kém, các doanh nghiệp xây dựng hiện mới chỉ tiếp cận được
các công nghệ phổ thông của thế giới chứ chưa phải công nghệ đỉnh cao. Các công
trình xây dựng phổ thông đang được thi công theo phương thức thô sơ, nặng về thao
tác thủ công, công nghệ môi trường vẫn đang ở trình độ các nước vào thập kỷ 70 thế
kỷ trước, công nghệ hoàn thiện công trình đặc biệt là các chưng cư cao tầng còn
nhiều mặt yếu, công nghệ duy tu bảo dưỡng và sửa chữa nâng cấp công trình hạ tầng

chưa được chú ý đúng mức.
Môi trường cạnh tranh khốc liệt buộc doanh nghiệp phải xác định các xu
hướng của thị trường, quan trâm tới các vấn đề liên quan tới đối thủ cạnh tranh.
Muốn chiến thắng trên thương trường, doanh nghiệp không chỉ cần biết mình phải
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
18
Chuyên đề thực tập
làm gì mà còn cần phải biết đối thủ nghĩ gì, để từ đó có thể có những ảnh hưởng và đi
trước một bước trong các hoạt động.
Hiện nay thì các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam tham gia đấu thầu xây
dựng cạnh tranh với nhau chủ yếu bằng bốn phương thức: cạnh tranh về giá dự thầu,
cạnh tranh về chất lượng công trình, cạnh tranh về tiến độ thi công, cạnh tranh về
biện pháp tổ chức thi công, bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh môi trường. Trong đó
cạnh tranh bằng giá là sự cạnh tranh khốc liệt nhất, các doanh nghiệp trung bình, yếu
sẽ không đủ khả năng để có thể tham gia cuộc chơi này. Chính vì thế sẽ dẫn đến tình
trạng phá sản hay sát nhập hoặc mua đứt doanh nghiệp.
1.3.1.3 Chủ đầu tư và doanh nghiệp tư vấn giám sát
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay, nhà nước không còn giữ
vai trò độc quyền cung cấp các sản phẩm xây dựng. Thị trường xây dựng trong đó có
sự tham gia của nhiều người bán và nhiều người mua, việc lựa chọn khách hàng đối
tác làm ăn vì thế mà ngày càng trở lên dễ dàng và thuận tiện. Và việc nghiên cứu thị
trường, lựa chọn nhà đầu tư là vô cùng quan trọng nó quyết định tới sự tồn tại của
doanh nghiệp xây dựng.
Trong đấu thầu xây dựng thông qua sự đánh giá phân tích cho điểm của
doanh nghiệp tư vấn chủ đầu tư sẽ quyết định nhà thầu thắng thầu, nếu có sự công
minh và công bằng trong đánh giá, quyết định của chủ đầu tư và nhà tư vấn sẽ tạo ra
sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu. Những nhà thầu nào không đủ năng lực
sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi. Như vậy ta có thể thấy rằng khả năng thắng thầu của
doanh nghiệp phụ thuộc vào cả chủ đầu tư và doanh nghiệp tư vấn giám sát. Trình độ
và kinh nghiệm của nhà tư vấn giám sát ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thắng thầu

của doanh nghiệp. Vì thế đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo của doanh nghiệp xây dựng phải
xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài với cả chủ đầu tư và các doanh nghiệp
tư vấn giám sát.
1.3.1.4 Các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường nhà nước đóng vai trò quản lý
vĩ mô, nhà nước ra các chính sách, điều luật và buộc các doanh nghiệp xây dựng phải
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
19
Chuyên đề thực tập
tuân theo. Các luật lệ quy định sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh và hợp tác bình đẳng
giữa mọi doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhất là khi Việt Nam tham gia tổ chức
thương mại thế giới thì việc xây dựng một môi trường pháp lý lành mạnh là rất cần
thiết, một mặt tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt khác
doanh nghiệp dựa vào đó để điều chỉnh hoạt động của mình. Việc chấp hành luật
pháp nghiêm minh của các cơ quan quản lý và của các doanh nghiệp sẽ đưa lại hiệu
quả kinh doanh tốt, ngược lại việc thực thi luật pháp không nghiêm minh, thiếu trong
sáng sẽ dẫn doanh nghiệp vào con đường bất chính hoặc doanh nghiệp không được
đánh giá đúng thực chất năng lực cạnh tranh.
Môi trường chính trị ổn định cũng là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp phát
triển hoạt động kinh doanh, mở rộng liên doanh liên kết ngược lại nếu môi trường
chính trị biến động sẽ gây rất nhiều bất lợi cho doanh nghiệp.
Hiện nay tình hình thị trường xây dựng có nhiều biến động, giá vật liệu xây dựng
tăng lên tục, giá nhân công cũng tăng đáng kể điều đó làm cho hàng loạt các công trình
xây dựng ngưng trệ vì giá dự toán với giá tại thời điểm thi công chênh lệch một khoản
khá lớn trong khi các nhà thầu xây dựng không nhận được tiền bù giá chênh lệch từ chủ
đầu tư. Vì vậy mà Bộ xây dựng cùng cơ quan chức năng có liên quan cần ban hành các
văn bản, thông tư hướng dẫn tính toán điều chỉnh trượt giá, điều chỉnh hợp đồng xây
dựng để đảm bảo tài chính cho các nhà thầu tiếp tục thi công, đẩy nhanh tiến độ thi công.
Nhà nước cũng cần đưa ra định mức và đơn giá xây dựng hợp lý với tình hình thực tế để
doanh nghiệp xây dựng có căn cứ để tính đúng, tính đủ dự toán xây dựng cũng như là

giá dự thầu công trình. Nếu không làm tốt công tác này sẽ gây khó khăn không nhỏ cho
công tác tính dự toán công trình của doanh nghiệp.
1.3.1.5 Năng lực cạnh tranh quốc gia.
Năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, năng lực
cạnh tranh của sản phẩm có mối liên hệ mật thiết với nhau. Một nền kinh tế có năng
lực cạnh tranh khi mọi tổ chức ( các cơ quan, doanh nghiệp, trường học, bệnh
viện…) có năng lực cạnh tranh. Ngoài ra năng lực cạnh tranh của quốc gia còn được
đánh giá theo các tiêu chí quan trọng khác như hoạt động của Chính phủ, thể chế luật
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
20
Chuyên đề thực tập
pháp của Nhà nước, nền tài chính quốc gia, trình độ nhân lực và công nghệ, cơ sở hạ
tầng, độ mở cửa của nền kinh tế. Một quốc gia có khả năng cạnh tranh tốt sẽ là chỗ
dựa cho các doanh nghiệp trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp xây dựng có thể
mở rộng phát triển thị trường ra các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Ngược
lại doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nó cũng đóng góp vào năng lực cạnh tranh
quốc gia.
1.3.2 Nhóm nhân tố nội tại của doanh nghiệp.
1.3.2.1 Năng lực tài chính.
Tài chính là một yếu tố quan trọng để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động
sản xuất kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh ngược lại cũng ảnh hưởng đến
hoạt động tài chính và theo đó ảnh hưởng tới công tác đấu thầu của doanh nghiệp xây
dựng.
Do tính chât đặc thù của ngành xây dựng yêu cầu vốn lớn để mua sắm tài sản cố
định, máy móc thiết bị, do vậy năng lực tài chính có ảnh hưởng quyết định tới các hoạt
động của công ty đặc biệt là công tác đấu thầu. Nếu công ty có khả năng tài chính cao
thì có thể tham dự đấu thầu nhiều công trình và những công trình có giá trị lớn trong
năm vì những công trình lớn yêu cầu tiền bảo lãnh dự thầu cao, tiền đầu tư vào máy
móc thiết bị thi công tốn kém đồng thời đảm bảo được khả năng thanh toán, giữ được
niềm tin với các nhà cung cấp, các tổ chức tài chính tín dụng và nhà đầu tư. Chính vì

vậy mà các doanh nghiệp xây dựng muốn tăng khả năng thắng thầu của doanh nghiệp
mình phải tạo được các mối quan hệ tốt với các tổ chức tín dụng, các ngân hàng
thương mại để đảm bảo có được nguồn tài chính đảm bảo.
Ta có thể thấy được năng lực tài chính của doanh nghiệp xây dựng ảnh hưởng
đến công tác đấu thầu của doanh nghiệp như thế nào:
- Trước tiên, một doanh nghiệp xây dựng tham gia đấu thầu xây dựng với
năng lực tài chính mạnh họ sẽ đưa ra quyết định giá bỏ thầu một cách hợp lý nhất để
tạo ra thế mạnh về giá tăng khả năng thắng thầu và hơn nữa năng lực tài chính là một
trong những chỉ tiêu để đánh giá cho điểm nhà thầu.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
21
Chuyên đề thực tập
- Thứ hai là với năng lực tài chính mạnh, doanh nghiệp xây dựng có khả năng
hoàn thành công trình theo đúng tiến độ và đảm bảo được chất lượng công trình, điều
này sẽ tạo được uy tín cho doanh nghiệp, gây được lòng tin cho chủ đầu tư và những
khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp.
1.3.2.2 Năng lực máy móc, thiết bị thi công
Máy móc, thiết bị thi công là bộ phận cấu thành chủ đạo, giữ vị trí quan trọng
nhất của tài sản cố định công ty, nó thể hiện trình độ kỹ thuật, công nghệ, nó liên
quan trực tiếp tới chất lượng công trình và tiến độ thi công công trình.
Năng lực máy móc thiết bị thi công thể hiện ở tính hiện đại hóa, tính đồng bộ,
tính đổi mới, tính hiệu quả của máy móc thiết bị.
Đi đôi với những công năng của máy móc thiết bị cũng cần phải có trình độ
của người sử dụng nó. Khi máy móc thiết bị của doanh nghiệp xây dựng là ứng dụng
công nghệ hiện đại, quá trình sử dụng phức tạp thì đòi hỏi người vận hành nó cũng
phải am hiểu nó và sử dụng đúng theo hướng dẫn. Vì vậy mà khi doanh nghiệp xây
dựng tiến hành đổi mới hay thay thế máy móc thiết bị cũ cũng cần phải tiến hành đào
tạo lại nhân lực sử dụng máy móc thiết bị đó.
Năng lực máy móc thiết bị cũng là một trong những tiêu chí mà chủ đầu tư
quan tâm tới khi đánh giá cho điểm những nhà thầu tham gia vì yếu tố năng lực máy

móc thiết bị sẽ quyết định biện pháp thi công công trình, bố trí sắp xếp con người và
thiết bị thi công hợp lý, rút ngắn tiến độ thi công và giảm chi phí xây dựng dẫn tới giá
bỏ thầu sẽ thấp hơn góp phần tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng.
1.3.2.3 Nhân lực của doanh nghiệp
Nhân lực là yếu tố đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng lớn tới các hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng. Chủ đầu tư thường đánh giá nguồn
nhân lực của doanh nghiệp qua đội ngũ lãnh đạo và đội ngũ công nhân viên của
doanh nghiệp xây dựng.
+ Cán bộ quản trị cấp cao: Là những con người đứng mũi chịu sào, chèo lái
giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Họ vạch ra phương hướng chiến lược, kế
hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn cũng như ngắn hạn của doanh nghiệp. Nếu đội
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
22
Chuyên đề thực tập
ngũ này có trình độ cao, có tầm nhìn chiến lược, có những phẩm chất tốt của một nhà
quản trị, dẫn dắt doanh nghiệp đi đúng hướng thì doanh nghiệp sẽ ngày càng mở
rộng và phát triển về phạm vi và quy mô, ngược lại sẽ dẫn công ty tới tình trạng suy
yếu có thể phá sản. Chủ đầu tư đánh giá rất cao năng lực của đội ngũ lãnh đạo, cũng
như những kinh nghiệm, khả năng tổ chức quản lý nhân viên, khả năng nhạy bén
trong kinh doanh, và đây cũng là một trong những điểm mạnh của doanh nghiệp để
tăng khả năng cạnh tranh.
+ Đội ngũ công nhân viên trong doanh nghiệp : Đây là lực lượng đông đảo
chiếm đa số của công ty. Quy mô của doanh nghiệp cũng thể hiện qua đội ngũ công
nhân viên này, nó cho phép doanh nghiệp có thể cùng lúc thực hiện nhiều công trình
cũng như tham gia đấu thầu nhiều công trình khi đội ngũ công nhân viên này đông
đảo. Mặc khác đội ngũ này đông đảo cũng tạo được sự tin tưởng cho chủ đầu tư về
năng lực lao động của công ty, góp phần tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng.
Một sự đoàn kết, đồng lòng của tập thể người lao động và sự nhất trí cao
trong đội ngũ lạnh đạo sẽ tạo lên một sức mạnh tổng hợp to lớn giúp doanh nghiệp

giải quyết bất kỳ vấn đề khó khăn nào.
1.3.2.4 Hoạt động Marketing
Hoạt động Marketing là cần thiết với bất kỳ doanh nghiệp xây dựng nào hiện
nay do môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường vô cùng khốc liệt. Môi
trường cạnh tranh mà ở đó cung lớn hơn cầu, khách hàng tự do lựa chọn nhà cung
cấp cho mình. Chính vì vậy mà việc sử dụng chiến lược marketing phù hợp sẽ giúp
cho doanh nghiệp có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường xây dựng.
Thông qua hoạt động marketing doanh nghiệp xây dựng có thể quảng bá hình
ảnh, thương hiệu của mình tới khách hàng, các đối tác làm ăn. Đồng thời thông qua
các hoạt động nghiên cứu thị trường doanh nghiệp xây dựng có được các nguồn
thông tin chính xác liên quan tới các gói thầu, thông tin về nguồn cung ứng. Từ đó
giúp cho việc lập hồ sơ dự thầu đạt kết quả cao nhất.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
23
Chuyên đề thực tập
Điểm khác biệt của doanh nghiệp xây dựng với các loại hình doanh nghiệp
khác trong hoạt động kinh doanh đó là doanh nghiệp không thể đưa các sản phẩm ra
thị trường cho khách hàng lựa chọn mà thông qua danh tiếng của doanh nghiệp mình
khách hàng sẽ tìm đến và cung cấp sản phẩm cho họ. Vì vậy mà việc quảng bá hình
ảnh thương hiệu của doanh nghiệp qua các phương tiện thông tin đại chúng như các
tạp chí chuyên ngành, báo đài, internet…là rất cần thiết nó sẽ giúp cho doanh nghiệp
xây dựng dành được nhiều gói thầu hơn.
1.3.2.5 Khả năng liên doanh liên kết của doanh nghiệp xây dựng
Liên doanh, liên kết trong xây dựng là sự kết hợp hai hay nhiều doanh nghiệp
xây dựng với nhau, tạo ra một sức mạnh tổng hợp về tài chính, nhân lực, kinh
nghiệm…Đối với những dự án quy mô lớn, một doanh nghiệp xây dựng đơn lẻ
không thể một mình đảm nhận công việc vì vậy cần phải có sự liên doanh liên kết với
các doanh nghiệp xây dựng khác để có đủ điều kiện tham gia và thực hiện.
Xu hướng tất yếu trong thị trường xây dựng hiện nay là tăng khả năng liên
doanh, liên kết để tham gia những công trình có quy mô lớn, yêu cầu kỹ thuật cao.

Nếu doanh nghiệp không thực hiện liên doanh liên kết tức là doanh nghiệp đã bỏ lỡ
cơ hội kinh doanh lớn, bỏ lỡ cơ hội đế phát triển mở rộng doanh nghiệp mình, mặt
khác doanh nghiệp sẽ bị loại trong quá trình đánh giá cho điểm lựa chọn nhà thầu
thắng thầu của bên mời thầu do không đủ điều kiện và năng lực tham gia. Thấy được
tầm quan trọng của việc liên doanh liên kết như vậy cho nên các doanh nghiệp cần
phải có chính sách, những hình thức liên doanh liên kết phù hợp.
1.3.2.6 Quan hệ của lãnh đạo doanh nghiệp.
Nhìn vào thực trạng công tác đấu thầu xây dựng hiện nay của Việt Nam ta có
thể nói rằng công tác đấu thầu xây dựng của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cấp, mang
nặng tính tình cảm, nhà nước vẫn chưa thực sự quản lý có hiệu quả công tác đấu
thầu. Với những công trình lớn doanh nghiệp tham gia đấu thầu, nếu lãnh đạo doanh
nghiệp có mối quan hệ tốt với chủ đầu tư hoặc nhà mời thầu thì khả năng thắng thầu
sẽ rất cao. Đối với những công trình quy mô nhỏ thì tình trạng chỉ định thầu là phổ
biến và doanh nghiệp sẽ dành được công trình nếu lãnh đạo doanh nghiệp quan hệ tốt
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
24
Chuyên đề thực tập
với chủ đầu tư, công ty sẽ tiết kiệm được các khoản chi phí liên quan đến công tác
đấu thầu.
Nhà nước đang dần dần hoàn chỉnh các điều luật về quản lý công tác đấu thầu
nhưng quá trình hoàn thiện này cũng phải mất thời gian tương đối dài vì vậy tuy đây
không phải là yếu tố tác động lớn đến kết quả đấu thầu nhưng lãnh đạo doanh nghiệp
cũng cần phải chú ý đến công tác này.
Đỗ Thị Kim Liên Thương mại 46A
25

×