Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận cao học tư tưởng hồ chí minh về bạo lực cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.06 KB, 30 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Nhân dân Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam tự hào vì đã sinh ra chủ tịch Hồ
Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Và
chính Người đã làm rạng rỡ non sông Tổ quốc Việt Nam yêu quý của chúng ta.
Trong quá trình khá dài nhận thức của Đảng ta về chủ tịch Hồ Chí
Minh, về tư tưởng Hồ Chí Minh đã ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Đặc biệt là
từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt nam tới
nay việc sưu tầm, hệ thống hóa và xuất bản các tư liệu gốc về tư tưởng Hồ
Chí Minh đã được nhiều cá nhân và tổ chức tiến hành nghiêm túc và mạnh
mẽ. Từ thời điểm đó đến nay việc nghiên cứu tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã được triển khai sâu rộng, hào hứng và sơi nổi. Đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu khoa học mang tính sâu rộng về tư tưởng Hồ Chí Minh
ra đời. Một số đề tài nghiên cứu khoa học từ cấp cơ sở đến cơng trình nghiên
cứu cấp Nhà nước đã thu được những kết quả to lớn. Và đây chính là điều
kiện thuận lợi cho việc học tập và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên việc đi sâu nghiên cứu một vấn đề cơ bản trong hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh về qn sự thì chưa thấy cơng trình nào nghiên cứu sâu
sắc. Để góp phần tìm hiểu sâu hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự tác giả
đã chọn đề tài nghiên cứu: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng”,
một mảng đề tài nhỏ trong hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
vấn đề quân sự làm tiểu luận kết thúc môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh về qn
sự của mình. Tuy nhiên do kiến thức Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề quân sự
chỉ là kiến thức cơ bản, tài liệu tham khảo còn rất hạn chế, thời gian nghiên cứu
đối với đề tài không nhiều cho nên tác giả chỉ nghiên cứu những nội dung cơ bản
nhất có liên quan đến lĩnh vực tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng.
Kết cấu của tiểu luận tác giả đề tài đã chia thành những phần cơ bản
sau đây:

1



Phần mở đầu: Đây là phần tác giả giới thiệu sơ lược chung về tiểu luận nội dung và kết cấu đề tài.
Phần nội dung: Tác giả chia phần nội dung thành ba chương chính:
- Chương 1: Tác giả trình bày nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về bạo lực cách mạng.
- Chương 2: Nội dung cơ bản của Tư tưởng bạo lực cách mạng của chủ
tịch Hồ Chí Minh được tác giả trình bày một cách hết sức khái quát trong đề
tài. Đó là những quan điểm về tính tất yếu phải sử dụng bạo lực cách mạng,
về bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân, về việc sử dụng kết hợp các
hình thức đấu tranh và tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng thống
nhất chặt chẽ với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo trong tư tưởng của Người.
- Chương 3: Tác giả trình bày phần ý nghĩ của tư tưởng Hồ Chí Minh
về bạo lực cách mạng và việc vận dụng tư tưởng đó trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Phần kết luận: Tổng kết lại nội dung đã nghiên cứu và đưa ra một số
đề xuất nảy sinh trong quá trình nghiên cứu đối với việc vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Cuối cùng là phần mục lục và danh mục tài liệu tham khảo.
Vì phạm vi nghiên cứu chỉ gói gọn trong một tiểu luận kết thúc mơn,
tác giả chưa có kiến thức sâu rộng về vấn đề nghiên cứu nên không thể tránh
khỏi những thiếu sót, hạn chế trong q trình nghiên cưứ đề tài. Rất mong sự
đóng góp ý kiến từ phía Thầy cô và các bạn sinh viên để tiểu luận được hoàn
thành một cách hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn.

2
Bác Hồ với chiến dịch Biên giới Tây Bắc


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

VỀ BẠO LỰC CÁCH MẠNG
1.1. Nguồn gốc lý luận
Cũng như hệ thống các quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn
đề khác, tư tưởng bạo lực cách mạng Hồ Chí Minh có nguồn gốc cơ bản từ
chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng Lênin đã
khẳng định vấn đề của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Chủ nghĩa
mác- lênin cho rằng chỉ có dung bạo lực cách mạng quần chúng để đập tan
bạo lực phản cách mạng của giai cấp thống trị thì mới giành được chính
quyền về tay nhân dân. Trong toàn bộ học thuyết của Mác – Ăngghen, Lênin
cho rằng vấn đề bạo lực cách mạng là vấn đề quan trọng hàng đầu trong các
cuộc đấu tranh cách mạng. Lênin đã kế thừa quan điểm của Mác và Ăngghen
về tư tưởng bạo lực cách mạng, Người đã khẳng định rằng: “Nhà nước tư sản
bị thay thế bằng Nhà nước vô sản không thể bằng con đường tự tiêu vong mà
có thể theo quy luật chung bằng cuộc cách mạng bạo lực mà thôi” 1. Trong
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập, chủ nghĩa Mác - Lênin đã
cho rằng: cần phải sử dụng nhiều hình thức đấu tranh cách mạng và các dân
tộc không được tự cho phép mình dừng lại ở cuộc đấu tranh, hình thức đấu
tranh duy nhất nào. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng:
“Một dân tộc muốn giành độc lập cho mình khơng được giới hạn dưới những
hình thức chiến tranh thơng thường. Nhất là một dân tộc nhỏ, yếu muốn
thắng lợi càng không được giới hạn mình trong những hình thức chiến tranh
thơng thường”. Năm 1848, sau khi cải tổ Đồng minh những người cộng sản,
Mác và Ăngghen đã tuyên bố công khai sử dụng bạo lực cách mạng để đánh
đổ giai cấp thống trị hai ông cho rằng: “Giai cấp vô sản không thể giành
được quyền thống trị nếu không tiến hành bạo lực cách mạng” hay Lênin đã
1

Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, T39, tr. 27.

3



khẳng định: “Trong thời kỳ Chủ nghĩa đế quốc sử dụng bạo lực cách mạng
phổ biến” .
Chúng ta có thể khẳng định chủ nghĩa Mác – lênin đóng một vai trò hết
sức quan trọng về mặt lý luận đối với việc hình thành tư tưởng qn sự Hồ Chí
Minh, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng. Là một người
đi từ chủ nghĩa yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản, đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường yêu nước đúng đắn đó là
con đường cách mạng vơ sản. Người cũng đã tìm thấy phương thức tất yếu để
đánh đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân
dân đó là phương pháp cách mạng bạo lực. Mác đã từng khẳng định khi phân
tích về tính tất yếu phải sử dụng bạo lực cách mạng: “Bạo lực cách mạng là bà
đỡ của một xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới” 1. Tiếp đó là quan điểm của nổi tiếng của
Ănghen trong tác phẩm “Chống

Đuyrinh”, ông đã khẳng định: “Bạo lực là công cụ mà sự

vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức
chính trị đã hóa đá và chết cứng” 2. Bên cạnh chủ nghĩa Mác - Lênin, những
quan điểm về chiến tranh nhân dân, về sử dụng bạo lực cách mạng của những
bậc anh hùng dân tộc cũng là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc hình
thành tư tưởng bạo lực cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bạo lực cách
mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là bạo lực theo ý nghĩa cứng nhắc
mà bạo lực cách mạng thống nhất với tư tưởng nhân văn, đạo đức của Người.
Đây chính là quan điểm xuất phát từ việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo những
tinh hoa văn hóa, truyền thống, kinh nghiệm đánh đuổi giặc ngoại xâm của dân
tộc. Nguyễn Trãi đã từng viết trong bài “Cáo Bình Ngơ” tuy là phác họa trận
đánh oai hùng của dân tộc, dùng bạo lực cách mạng để đánh thắng lại các thế
lực để đàn áp dân ta nhưng ông vẫn nêu:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
1
2

Mác - Ăngghen tồn tập, Nxb Sự thật, H. 1993, T23, tr. 1043.
Mác - Ăngghen toàn tập, Nxb Sự thật, H. 1993, T20, tr. 259.

4


Hay trong bài thơ thần “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt cũng
đã nêu rõ việc tất yếu phải dùng bạo lực cách mạng bạo lực để chống lại lũ
giặc ngoại xâm sang xâm chiếm đất nước ta.
“Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời”
Rõ ràng chỉ dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách
mạng và mới có thể đi đến giành thắng lợi cuối cùng. Những quan điểm, tư
tưởng của các bậc tiền bối cũng là nhân tố không kém phần quan trọng trong
việc hình thành nên tồn bộ quan điểm, tư tưởng bạo lực cách mạng của chủ
tịch Hồ Chí Minh. Và quan điểm về bạo lực cách mạng của Người phát triển
lên đỉnh cao thông qua lý luận của Người về khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam,
về chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và những
quan điểm bước đầu về xây dựng nền quốc phịng tồn dân.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thực dân Pháp đã hoàn
thành việc đặt ách thống trị của chúng trên đất nước ta. Để tiến hành khai thác
thuộc địa dưới chiêu bài “Khai hóa văn minh” chúng đã thi hành chính sách
áp bức bóc lột vơ cùng tàn bạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng vạch rõ bản
chất của chủ nghĩa thực dân, chỉ rõ bản chất của nó đã là bạo lực của kẻ mạnh

đối với kẻ yếu. Người đã từ viết: “Lịch sử người Âu xâm chiếm Châu Phi,
cũng như bất cứ lịch sử xâm chiếm thực dân nào thì dầu đến cuối đều được
viết bằng máu của Người dân bản xứ” 1. Từ thực tiễn lịch sử đất nước đó, để
lật đổ ách thống trị của Đế quốc thực dân giành chính quyền về tay nhân dân,
cần phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng.
Bên cạnh đó, sự phát triển của các phong trào đấu tranh của nhân dân
Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX đã chứng minh
không thể ảo tưởng khi trơng chờ sự “khai hóa văn minh” của thực dân Pháp.
Sự khai hóa văn minh ấy chỉ là cái vỏ bao bên ngoài cho thủ đoạn khai thác,
1

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 1995, T1, tr. 326.

5


bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đối với tồn thể dân tộc Việt Nam. Điều đó
cũng đồng nghĩa với việc càng không thể cầu xin sự “ban ơn” và “cải cách” của
kẻ thù như lịch sử đấu tranh của các sĩ phu yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX đã chứng minh những thất bại của nó. Hàng loạt những thất bại của các
phong trào yêu nước ở Việt Nam diễn ra từ khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược
Việt Nam đến đầu thế kỷ XX đã chỉ ra một tất yếu lịch sử là độc lập tự do chỉ
có thể giành bằng cuộc chiến đấu với sự trấn áp, bóc lột của kẻ thù, và chỉ có
thể bằng con đường chiến tranh bạo lực. Chúng ta cũng cần phải nhìn nhận lại
lịch sử bằng con đường bạo lực cũng đã được nhiều phong trào yêu nước thời
kỳ này vận dụng như phong trào Cần Vương, cuộc khởi nghĩa Phan Đình
Phùng, khởi nghĩa nơng dân Yên Thế…Tuy nhiên các phong trào này chưa có
đường lối đúng đắn, chưa có phương pháp tổ chức xây dựng lực lượng và cách
thức sử dụng bạo lực cách mạng cho phù hợp nên cũng đã thất bại.
Mặt khác, trong suốt quá trình hoạt động thực tiễn của mình Hồ Chí

Minh đã thấy được muốn giành được độc lập cho dân tộc khơng có con đường
nào khác hơn là dung bạo lực cách mạng. Năm 1919, tại thủ đô tráng lệ Paris
của nước Pháp, Người đã cùng một số những người Việt Nam yêu nước khác
viết bản yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam gửi đến Hội nghị Véc xay.
Nội dung yêu sách phản ảnh nguyện vong của nhân dân An Nam thông qua
những đề nghị cải cách hịa bình. u sách tuy khơng được chấp nhận nhưng
nó đã đánh dấu mốc hết sức quan trọng trong sự phát triển tư duy Nguyễn ái
Quốc về cách mạng và đấu tranh cách mạng. Sự thật việc không để mắt đến
yêu sách 8 điểm càng chứng minh bộ mặt thật của bọn đế quốc thực dân và
con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc không thể diễn ra theo phương
pháp cải cách hịa bình được. Đến năm 1920, tiếp xúc với Sơ thảo lần thứ
nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Nguyễn Ái Quốc
đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đã từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa
cộng sản và khẳng định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc đó là con
đường cách mạng vơ sản, khẳng định phương thức đấu tranh cách mạng đúng
6


đắn đó là phương thức dung bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách
mạng giành chính quyền về tay nhân dân. Và sau khi trở thành đảng viên
Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn ái Quốc có điều kiện nghiên cứu sâu hơn, thực
tiễn đó Người đã phân tích và rút ra những bài học từ kinh nghiệm đấu tranh
của của nhân dân các xứ thuộc địa như: Đa-Hô Mây, Thổ Nhĩ Kỳ…nghiên
cứu phong trào đấu tranh của công nhân ở các nước chính quốc, và đặc biệt
Người chỉ rõ con đường để các dân tộc bị áp bức được giải phóng triệt để, dó
là con đường cách mạng tháng Mười Nga.
Như vậy, việc sử dụng bạo luận cách mạng trong cuộc đấu tranh giành
chính quyền về tay nhân dân trong diễn biến lịch sử đã chứng minh là vấn đề
khơng thể thiếu. Đây là một u cầu có tính nguyên tắc trong sự nghiệp cách
mạng đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Đi từ lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với thực tiễn các phong trào đấu
tranh trong nước cũng như các nước trên thế giới đã hình thành tư tưởng về sử
dụng bạo lực cách mạng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của chủ
tịch Hồ Chí Minh.

7


Chương 2
NỘI DUNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ BẠO LỰC CÁCH MẠNG
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu phải sử dụng bạo lực
cách mạng
Tư tưởng bạo lực cách mạng là nền móng, là cơ sở, là điểm xuất phát
của tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh cách mạng là “Phá cái cũ đổi ra cái
mới, phá cái xấu đổi tốt …sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm, làm xã hội
mới cũng rất khó… nhưng biết cách làm thì chắc chắn làm được”1. Như vậy
có thể thấy đấu tranh cách mạng là sự nghiệp vô cùng gian khổ, khó khăn. Hồ
Chí Minh cũng cho rằng người làm cách mạng phải có lý luận cách mạng dẫn
đường, khơng có lý luận cách mạng dẫn đường cũng như “đi tàu mà khơng có
kim chỉ nam”, đồng thời người làm cách mạng phải có phương thức đấu tranh
cho phù hợp mới giành được thắng lợi. Vấn đề tính tất yếu của bạo lực cách
mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn
trong suốt cuộc đời hoạt động của Người. Nó khẳng định tính đúng đắn trong
tư tưởng quân sự về bạo lực cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bạo lực cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh ln đặt trong mối
quan hệ của chính quyền. Đó là tất cả các hoạt động có tổ chức để giành lại
chính quyền. Đó là hoạt động đi ngược lại pháp luật của giai cấp thống trị
đương thời. Đi từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của các dân tộc trên thế giới,

của kinh nghiệm chiến tranh giành độc lập của các dân tộc. Hồ Chí Minh đã
đưa ra quan điểm phải sử dụng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản
cách mạng , đó là tính quy luật, tính tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, giành lại chính quyền. Đây là quan điểm khác hồn tồn
với tư tưởng sùng bái bạo lực, đam mê bạo lực.
1

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 1995, T2, tr. 263, 267.

8


Ra đi tìm đường cứu nước, nghiên cứu sâu sắc kỹ lưỡng, chủ nghĩa thực
dân ở Đông Dương cũng như ở nhiều nước á, Phi, Mỹ La tinh… Hồ Chí Minh
đã khẳng định từ rất sớm: “Chế độ thực dân, tự thân nó là một hành động bạo
lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu” 1. Mặc dầu bằng tất cả lịng khoan dung, sự
kiên trì, nhẫn nại, thậm chí sẵn sàng chịu thiệt thòi và nhẫn nhục để giành được
độc lập, tự do cho tổ quốc mà không hoặc ít dùng đến bạo lực nhưng rõ ràng
đều thất bại bởi lẽ kẻ thù luôn dùng bạo lực để gắp tâm bóc lột ngày càng tàn
bạo hơn, trắng trợn hơn đối với dân tộc ta. Và Người đã từng viết: “chúng ta
muốn hịa bình, chúng ta phải nhân nhượng nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần
nữa”.
Với những chính sách cai trị thuộc địa của bọn đế quốc thực dân hay đó
chính là sự thống trị thuộc địa bằng bạo lực của chủ nghĩa thực dân đã là một
tiền đề tất yếu sẽ dẫn tới những cuộc bùng nổ cách mạng của các nước thuộc địa,
lấy bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của các thế lực xâm
chiếm thuộc địa. Lịch sử dân tộc Việt Nam hang mấy ngàn năm đã chứng minh
ý chí quật cường, anh dũng của nhân dân ta trong các cuộc đấu tranh chống xâm
lược giành lại quyền độc lập, tự do cho nhân dân ta. Với những thực tiễn đó, việc

phải sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng trong cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc đầu thế kỷ XX mà Hồ Chí Minh đã đề xướng là một điều tất yếu. Bởi
vì Người đã từng nói: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu làm nô lệ”. Bạo lực buộc phải dùng như một tất yếu lịch sử không thể thiếu
được để chống kẻ thù xâm lược giành và giữ độc lập tự do. Vì đây là sức mạnh
tổng hợp của tồn dân “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh đuổi thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm
dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc…”2.
1
2

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 1995, T1, tr. 65.
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 2001, T4, tr. 480.

9


Chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc đã sử dụng tối đa bộ máy bạo
lực phản cách mạng với nhà tù, máy chém., bom đạn, chất độc hóa học, vũ
khí hóa học, vũ khí hiện đại…chà đạp lên khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc
và hịa bình của dân tộc ta. Chỉ bằng con đường bạo lực cách mạng, con
đường vũ trang chống bạo lực, phản cách mạng và vũ trang xâm lược của kẻ
thù, nhân dân ta, dân tộc ta mới tồn tại và phát triển được như ngày nay. Và sự
thật chính thực dân Pháp đem quân xâm lược nước ta, quân đội Mỹ đã vượt
đại dương bắn giết đồng bào ta ở hai miền Nam Bắc. Quân dân ta phải buộc
tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Tất cả sự thật đó bác bỏ luận
điệu cho rằng nhân dân ta, Đảng ta, Hồ Chủ Tịch “sùng bái bạo lực”, “hiếu
chiến” khi sử dụng bạo lực cách mạng.
Người cho rằng chỉ có kiên quyết dùng bạo lực cách mạng của quần

chúng, kiên quyết đấu tranh đến cùng, đánh thắng hoàn toàn bọ đế quốc thì
dân tộc ta mới được độc lập, nước nhà mới được thống nhất, nhân dân ta mới
được hưởng tự ho, ấm no, hạnh phúc thật sự. Tư tưởng bạo lực cách mạng,
nền móng của tồn bộ học thuyết của Mác và Ănghen – như Lênin đã từng
nói và cũng chính là tư tưởng bất di bất dịch của Đảng ta. Nó cũng chính là
điểm xuất phát của tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh. Và chính lịch sử cũng đã
chứng minh tư tưởng bạo lực cách mạng quần chúng của Hồ Chí Minh là
hồn tồn đúng. Nhân dân ta đã vùng lên chiến đấu trong những ngày oanh
liệt của Cách mạng Tháng Tám rồi lại đến cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài gần
chín năm chống thực dân Pháp, và hơn mười năm chống Đế quốc Mỹ vừa
qua. Chưa tiêu diệt được lực lượng của kẻ thù, chưa đè bẹp được ý chí xâm
lược của chúng thì chúng ta chưa đi đến thắng lợi hoàn toàn được. Cần sử
dụng sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, sử dụng cách mạng bạo lực quần chúng
đánh mạnh, đánh chắc thì mới có thể giành được thắng lợi hoàn toàn trận
chiến với kẻ thù, mới có được hịa bình thật sự.
Tính tất yếu của tư tưởng bạo lực cách mạng Hồ Chí Minh cịn được
thể hiện qua những gì mà Người đã nhận thấy trong thực tiễn đấu tranh cách
10


mạng của dân tộc Việt Nam. Sau khi thực dân Pháp đã đặt xong ách thống trị
của chúng trên đất nước ta, những chính sách áp bức, bóc lột vơ cùng tàn bạo
đối với dân tộc ta điều đó đã thể hiện rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, chỉ
ra bản thân nó đã là bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Mọi biện pháp đấu
tranh bằng xu thế hịa bình mà chủ tịch Hồ Chí Minh và những sĩ phu yêu
nước đã sử dụng trước đó đã khơng thể đem lại độc lập hồn tồn cho dân tộc
ta. Và do đó Người khẳng định rằng để lật đổ ách thống trị của đế quốc thực
dân giành chính quyền về tay nhân dân cần phải sử dụng bạo lực cách mạng
chống lại bạo lực phản cách mạng. Đây là một tất yếu mà lịch sử đã chứng
minh cần sử dụng bạo lực cách mạng để giành và giữ chính quyền cách mạng.

Vì vậy trong đấu tranh cách mạng phải luôn nắm vững quan điểm cách mạng
bạo lực và theo quy luật phổ biến chung phải sử dụng bạo lực cách mạng mới
giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống xâm lợc và áp bức. Như
Lênin đã từng khẳng định: “Nhà nước tư sản bị thay thế bằng Nhà nước vô
sản không thể bằng con đường tự tiêu vong mà mà có thể theo quy luật chung
bằng cuộc cách mạng bạo lực thơi”.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực của quần chúng nhân dân

Bác Hồ nói chuyện với bộ đội ở Đền
11
Hùng


Theo Hồ Chí Minh thì tất cả các cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
trước đây dù rất anh dũng, ngoan cường nhưng do thiếu một đường lối chính trị
đúng đắn, thiếu một tổ chức rắn rỏi lãnh đạo nên đều thất bại. Trong tác phẩm
Con đường giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Con đường giải phóng
của dân tộc Việt Nam là con đường khởi nghĩa vũ trang. Đó là một cuộc khởi
nghĩa giải phóng dân tộc do tồn dân tiến hành, lấy cơng nhân và nơng dân
làm lực lượng chủ yếu”1. Cuộc khởi nghĩa vũ trang ấy là do nhân dân vùng dậy
dung vũ khí đuổi quân cướp nước. Đó là cuộc đấu tranh to tát về chính trị và
quân sự, là việc quan trọng làm đúng thì thành cơng, sai thì thất bại.
Vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin:
Cách mạng thật sự là sự nghiệp của quần chúng, kế thừa truyền thống mấy
nghìn năm của dân tộc - truyền thống “cả nước đánh giặc”, “trăm họ nhà
binh”, “toàn dân đánh giặc”…; kế thừa truyền thống thân dân, coi trọng sức
mạnh của toàn dân, tư tưởng khoan thư sức dân của các vua nhà Trần, “chở
thuyền cũng là dân lật thuyền cũng là dân” của Nguyễn Trãi…Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định rằng: “Cách mạng là công việc chung của quần
chúng”, “ trên bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân, trên thế giới khơng

có gì mạnh bằng lực lượng toàn dân”. Từ điều kiện thực tiễn lịch sử của dân
tộc ta, Người chỉ rõ: “dân khí mạnh thì khơng qn lính nào, súng ống nào
chống lại nổi”2. chúng ta có thể thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách
mạng khẳng định sức mạnh của bạo lực cách mạng là ở nơi quần chúng nhân
dân, phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, khơi nguồn sức mạnh trong đại
đồn kết tồn dân, có dân thì có tất cả. Nguyên lý đó đã trở thành niềm tin,
nếp suy nghĩ, nó đã trở thành chân lý phản ánh đặc trưng bản chất bạo lực
cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khẳng định bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng nhân dân, Hồ
Chí Minh cịn chỉ rõ làm thế nào để tổ chức tập hợp toàn dân, xây dựng khối đại
1
2

Tại liệu lưu trữ tại Viện lịch sử qn sự.
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 1995, T2, tr. 267.

12


đồn kết tồn dân, lấy liên minh cơng nơng làm nền tảng dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Bác dạy rằng: “Cuộc kháng chiến của dân ta là cuộc kháng
chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân”1. Hay “ba
mươi mốt triệu đồng bào ta phải là ba mươi mốt triệu chiến sĩ diệt Mỹ”. Hồ Chí
Minh cho rằng để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, sử dụng bạo lực của
quần chúng nhân dân để chống lại thế lực bạo lực phản cách mạng của kẻ thù thì
Đảng lãnh đạo phải có đường lối đúng, có đội ngũ gương mẫu, phải động viên
được nhân dân. Sử dụng bạo lực của quần chúng nhân dân nghĩa là phải toàn dân
kháng chiến, toàn diện kháng chiến, thể hiện quyết tâm của cả một dân tộc, đồn
kết, dựa vào sức mạnh là chính để giành độc lập tự do. Chúng ta chỉ có thể sử
dụng sức mạnh của toàn dân, toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến khi

mà cuộc chiến tranh đó là chính nghĩa “Ta chỉ giữ gìn non sơng, đất nước của
ta. Chỉ chiến đấu cho quyền thống nhất và độc lập của tổ quốc” và Bác cũng đã
nói: “Vì chiến lược của ta đúng, địch muốn dùng cách đánh mau, thắng mau.
Nếu chiến tranh kéo dài, hao tổn binh tướng chúng sẽ thất bại. Vậy chúng ta
dung chiến lược trường kỳ kháng chiến, để phát triển lực lượng, tăng thêm kinh
nghiệm. Ta dung chiến lược du kích để làm cho địch hao mịn, cho đến ngày ta
sẽ tổng phản cơng, để qt sạch lũ chúng. Thế địch như lửa, thế ta như nước.
Nước nhất định thắng lửa. Hơn nữa trong cuộc trường kỳ kháng chiến, mỗi công
dân là một chiến sĩ. Mỗi làng là một chiến hào. Hai mươi triệu đồng bào Việt
Nam quyết đánh tan mấy chục vạn thực dân phản động”2.
Một vấn đề có tính ngun tắc trong quan điểm phát huy sức mạnh tồn
dân của chủ tịch Hồ Chí Minh là phải động viên tổ chức toàn dân, “phải giáo
dục chủ nghĩa cho dân hiểu”, “phải bầy sách lược cho toàn dân làm”, phải
động viên toàn dân, phải tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân
thành các đạo quân chính trị ngày càng hùng hậu. Từ các đạo quân chính trị
của quần chúng qua đấu tranh cách mạng, khi yêu cầu đòi hỏi sẽ tổ chức ra
các lực lượng vũ trang cách mạng. Sự kết hợp của lực lượng chính trị với lực
1
2

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 2001, T3, tr. 507.
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 2001, T5, tr. 151.

13


lượng vũ trang cách mạng là một vấn đề có tính quy luật của bạo lực cách
mạng. Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh là bạo lực quần chúng
có tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng đã được Bác và Đảng ta vận dụng sáng
tạo trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập cho dân tộc. Với

những quan điểm đúng đắn đó, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu hút, tập hợp mọi
lực lượng, mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào sự nghiệp đấu tranh cách
mạng. Từ các nhân sĩ yêu nước trong giai cấp phong kiến đến các tầng lớp trí
thức, những người Việt nam yêu nước ở nước ngoài …tin theo cách mạng, tập
hợp quanh ngọn cờ đại nghĩa của Hồ Chí Minh hết lịng hết sức phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân. Quan điểm đó cịn là động lực to lớn giúp chủ tịch
Hồ Chí Minh và đảng có thể huy động mọi nguồn lực trong nhân dân tạo nên
sức mạnh to lớn của cả dân tộc để giành thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Dưới ánh sáng của việc tập hợp sức mạnh toàn dân trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù xâm lược bảo vệ tổ quốc sau hơn ba mươi năm tiến hành
chiến tranh cách mạng nhân dân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Đây là
một tư thưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo ra sức mạnh toàn dân, sử
dụng và phát huy sức mạnh tổng hợp nhằm đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Tư
tưởng bạo lực của quần chúng nhân dân của Hồ Chí Minh là sự vận dụng
đúng đắn nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam, là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ mới những truyền thống
và tri thức quân sự quý báu của dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp toàn dân
đứng lên tiến hành bạo lực của quần chúng nhân dân đánh thắng mọi kẻ thù
xâm lược giành lại nền độc lập toàn vẹn cho tổ quốc.
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc kết hợp các hình thức đấu
tranh
Quá trình đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc của nhân dân ta là
một q trình đấu tranh vơ cùng gian khổ, khó khăn. Vì mục tiêu đưa cách
mạng đến thắng lợi, người cách mạng khơng giới hạn ở bất kỳ hình thức nào,
14


bất kỳ phương pháp đấu tranh nào có thể. Đây là quá trình vận dụng sáng tạo,
linh hoạt nhiều hình thức biện pháp phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể

nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
bảo vệ Tổ quốc cần phải biết: “Tùy từng thời điểm mà quyết định những hình
thức đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị để giành thắng lợi” 1. Theo
Người, bạo lực cách mạng trong cách mạng đấu tranh giành độc lập dân tộc
của Việt Nam không chỉ là bạo lực quân sự, bạo lực vũ trang mà là sự kết hợp
chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, kinh tế, văn hóa, … Hồ
Chí Minh nhấn mạnh phải biết kết hợp đánh bằng quân sự với đánh bằng
chính trị ra sức địch vận, làm tan rã hàng ngũ quân địch. Và theo Người ngay
trong từng lĩnh vực cũng cần phải kết hợp sang tạo ra nhiều hình thức, biện
pháp cụ thể nhằm phát huy sức mạnh của lực lượng cách mạng, khắc phục
mọi hạn chế, khai thác các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa làm cho ta
càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. Trong chiến tranh, khi phải
chống lại kẻ địch mạnh hơn chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở quân dân
ta: “Địch có vũ khí tối tân thì ta đánh du kích, nó lấy vũ lực ta khơng sợ, nó
lấy chính trị ta khơng mắc mưu, nó lấy kinh tế phong tỏa thì ta lấy kinh tế
đánh nó, tăng gia sản xuất”2. Trong cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù có nhiều
âm mưu, thủ đoạn cũng phải dung nhiều phương pháp, cách thức để chống lại
chúng, Bác đã từng dạy rằng: “Muốn trị lửa phải dùng nước, địch muốn tốc
chiến tốc thắng ta phải lấy trường kỳ kháng chiến trị nó thì địch nhất định
thua ta nhất định thắng”3. Bạo lực cách mạng theo quan điểm Hồ Chí Minh
ln ln chú trọng khai thác và phát huy tối đa sức mạnh to lớn của quần
chúng thông qua việc tổ chức, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng
và đấu tranh quân sự của các lực lượng vũ trang và sự kết hợp khéo léo hai
hình thức đó sao cho phù hợp với điều kiện và hồn cảnh cụ thể.
1
2
3

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 1996, T12, tr. 304.

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 1996, T5, tr. 58.
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 1996, T4, tr. 485.

15


Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự phát triển của cách mạng Việt Nam đi từ
đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết
hợp khởi nghĩa với chiến tranh cách mạng. Khi nói đến hoạt động quân sự và
đấu tranh vũ trang Hồ Chí Minh ln gắn với chính trị. Người vạch rõ: quân sự
phải phục tùng chính trị, phải thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đã đề ra.
Người thường phê bình những thiên hướng chỉ thấy quân sự mà khơng thấy
chính trị, chỉ biết tác chiến mà khơng biết vận dụng quần chúng và xây dựng cơ
sở chính trị trong nhân dân. Người chỉ rõ: “Quân sự mà khơng có chính trị như
cây khơng có gốc, vơ dụng mà có hại”1. Người dạy rằng trong mối quan hệ
chính trị và quân sự bao giờ cũng là cơ sở để triển khai đấu tranh trên lĩnh vực
quân sự. Người khẳng định khơng lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị của
quần chúng thì qn sự và lực lượng vũ trang không thể giành được thắng lợi.
Tuy nhiên trong hoạt động thực tế các hình thức đấu tranh chính trị, đấu
tranh quân sự luôn kết hợp chặt chẽ với nhau tùy theo tình hình cụ thể mà
hình thức này hay hình thức kia có thể nổi lên. Nhưng nhìn chung trong chiến
tranh “quân sự là việc chủ chốt trong kháng chiến” 2 để thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ chính trị “Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi
chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn” 3. Lực lượng quân sự và
đấu tranh vũ trang giữ vai trò trực tiếp quyết định đối với những trận chiến
đấu trên chiến trường, trong đối đầu trực tiếp với các lực lượng tiến công của
địch, trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự của địch: Chính điều này có tác
động trở lại đối với những trận chiến đấu trên chiến trường, trong đối đầu trực
tiếp với các lực lượng tiến công của địch, trong việc tiêu diệt lực lượng quân
sự của địch. Chính điều này có tác động trở lại đối với việc xây dựng lực

lượng chính trị và lực lượng quân sự của cách mạng, định hướng cho việc kết
hợp các lực lượng và các hình thức đấu tranh giành thắng lợi.
1
2
3

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 1995, T6, tr. 318.
Hồ Chí Minh với lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, H. 1975, tr. 178.
Hồ Chí Minh với lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, H. 1975, tr. 178.

16


Ngồi đấu tranh chính trị và qn sự Hồ Chí Minh cịn quan tâm đến
các hình thức đấu tranh khác. Người cho rằng đấu tranh ngoại giao cũng là
một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, phối hợp chặt chẽ với mặt trận quân sự,
chính trị trong chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện đấu tranh trên
mặt trận ngoại giao hết sức sắc bén để thêm bạn bớt thù. Người coi trọng công
tác tuyên truyền đối ngoại, vạch rõ tính chất phản động, tội ác của kẻ thù,
khẳng định tính chất chính nghĩa và ý chí quyết tâm giành độc lập tự do của
nhân dân ta để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân trên thế giới.
Người đã khéo lợi dụng mâu thuẫn để phân hóa hàng ngũ kẻ thù, tập trung
mũi nhọn vào kẻ thù chính. Người chủ trương: “vừa đánh vừa đàm”, “đánh
là chủ yếu, đàm là hỗ trợ”. Trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, thực
hiện tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh mặt trận ngoại giao đã phát huy sức
mạnh của thời đại, hỗ trợ đắc lực cho mặt trận qn sự, chính trị giành thắng
lợi. Bên cạnh đó Người còn đề cập đến đấu tranh kinh tế, ra sức tăng gia sản
xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế của ta phá hoại kinh tế của địch.
Người kêu gọi hậu phương thi đua với tiền phương, coi ruộng rẫy là chiến
trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, tay cày tay súng, tay búa tay

súng, ra sức phát triển sản xuất để phục vụ kháng chiến. Về đấu tranh văn hóa
và tư tưởng, Người nói: “Chiến tranh về mặt văn hóa hay tư tưởng so với các
mặt khác cũng không kém phần quan trọng” 1. Phải phát huy truyền thống dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại, tẩy trừ ảnh hưởng của văn hóa thực
dân, thực hiện văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa. Coi văn
hóa là một mặt trận, mỗi văn nghệ sĩ là một chiến sĩ trên mặt ấy.
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ riêng trong vấn đề bạo lực
cách mạng cũng đã có sự kết hợp giữa các lực lượng và các hình thức đấu
tranh nhưng trong cuộc đấu tranh của kẻ thù để giành giữ chính quyền khơng
phải chỉ có đấu tranh chính trị với vũ trang mà cịn cả đấu tranh trên tất cả các
1

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 1995, T10, tr. 127.

17


lĩnh vực văn hóa kinh tế ngoại giao… Người đã từng dạy rằng trong đấu tranh
giành chính quyền việc đấu tranh chính trị là quan trọng tuy nhiên cũng cần
có những quả đấm của đấu tranh vũ trang. Việc kết hợp các lực lượng và các
hình thức đấu tranh là một vấn đề có nguyên tắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về bạo lực cách mạng. Thực tế thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ khi có
Đảng cộng sản lãnh đạo đã khẳng định và chứng minh điều đó.
2.4. Bạo lực cách mạng thống nhất chặt chẽ với chủ nghĩa nhân
văn, nhân đạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Kế thừa truyền thống của dân tộc là trọng nhân nghĩa u hịa bình trong
q trình đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chủ tịch Hồ Chí Minh
chú trọng sử dụng các hình thức đấu tranh ít đổ máu nhất. Tư tưởng bạo lực cách
mạng của Hồ Chí Minh thống nhất với tư tưởng nhân đạo của Người: “chúng ta
cần phải giữ gìn từng giọt máu của đồng bào”1. Tư tưởng của Người về cuộc

chiến đấu của nhân dân ta chống lại kẻ thù xâm lược thể hiện rất rõ tình yêu
thương đối với đồng bào của Người. Bác nói: “Tất cả thanh niên Việt Nam là
con cháu của tơi. Mất một thanh niên hình như tơi đứt một đoạn ruột” 2. Người
tiên đốn chính xác thời cơ và những bước ngoặt có thể xảy ra, vận dụng linh
hoạt và phối hợp tài tình các lực lượng và hình thức đấu tranh giành thắng lợi ở
những thời điểm quyết định, hạn chế đến mức thấp nhất tổn thất của lực lượng
cách mạng. Với việc vận dụng linh hoạt “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong chỉ đạo
hoạt động thực tiễn chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều bước đi tài trí, cơ mưu vận
dụng sáng tạo sách, lược đấu tranh, khi cần có thể thực hiện việc nhân nhượng
có nguyên tắc, loại bớt kẻ thù, tranh thủ thời gian củng cố, tăng cường lực lượng
cách mạng. Và người đã từng phát biểu: “Tơi muốn nói với nhân dân Mỹ rằng
cuộc chiến tranh xâm lược mà chính phủ Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam không
những chà đạp thô bạo lên các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam mà
còn đi ngược lại nguyện vọng lợi ích của nhân dân Mỹ. Cuộc chiến tranh xâm
1
2

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 2001, T4, tr. 457.
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 2001, T4, tr. 303.

18


lược đó cũng đã bơi nhọ thanh danh nước Mỹ, xứ sở của Oasinhtơn và Lincon.
Tơi muốn nói với nhân dân Mỹ ý chí của tồn dân Việt Nam kiên quyết chiến
đấu chống lại bọn xâm lược Mỹ cho đến thắng lợi hoàn toàn. Nhưng đối với
nhân dân Mỹ chúng ta tăng cường quan hệ hữu nghị”1. Trong cuộc chiến đấu
một mất một cịn của kẻ thù, Hồ Chí Minh khơng những đau xót trước những
mất mát, đau thương của nhân Việt Nam mà Người cịn tỏ ra thương xót đối với
sự hy sinh mất mát của những người Mỹ đã tham gia vào cuộc chiến tranh ở Việt

Nam. Người đã từng nói: “Tơi muốn nói thêm với những người bạn Mỹ rằng:
chẳng những chúng tơi đau xót vì đồng bào Miền Nam chúng tôi phải gian khổ,
phải hy sinh mà chúng tơi cũng thương xót cho các bà mẹ và những người vợ
Mỹ đã mất con, mất chồng trong cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Miền Nam Việt
Nam do bọn quân phiệt Mỹ tiến hành”2.
Trong suốt quá trình kháng chiến lâu dài chống xâm lược, Người luôn
mong muốn cho đất nước có cuộc sống hịa bình, khát vọng của Người là hịa
bình trong độc lập tự do, là cuộc sống n bình hạnh phúc cho nhân dân.
Người nói: “Nhân dân Việt Nam rất u chuộng hịa bình, một nền hịa bình
chân chính trong độc lập tự do thật sự, nhân dân Việt Nam quyết chiến đấu
đến cùng, không sợ hy sinh gian khổ để bảo vệ Tổ quốc và các quyền dân tộc
thiêng liêng của mình”3. Tư tưởng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh cịn
thể hiện rõ quan điểm sự mềm dẻo giữa ranh giới chiến tranh và hịa bình, về
sự hiểu biết lẫn nhau, gác lại quá khứ, hướng về tương lai. Nhìn lại lịch sử
dân tộc, chúng ta thấy năm 1965, lúc cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của
Mỹ đang tiếp tục leo thang và diễn ra quyết liệt, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tuyên bố: Chúng tôi sẵn sàng trải thảm đỏ và rắc hoa cho Mỹ rút. Nhưng nếu
Mỹ khơng rút thì phải đánh đuổi Mỹ đi… chúng tơi sẵn sàng nói chuyện với
kẻ xâm lược, nhưng trước hết kẻ xâm lược phải ngừng xâm lược…Mỹ phải
rút khỏi Việt Nam rồi Tổng thống Giơnxon đến đây nói chuyện cũng được
1
2
3

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 2001, T11, tr. 449.
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H. 2001, T9, tr. 205.
Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 1996, T12, tr. 489.

19



hoặc ông ta mời tôi đến Oasinton tôi cũng sẵn sàng! Nhưng trước hết Mỹ phải
để chúng tôi yên, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh.
Với truyền thống yêu chuộng hòa bình tốt đẹp của dân tộc Việt Nam có
từ bao đời nay. Hồ Chí Minh đã vận dụng hết sức linh hoạt trong mọi tình
huống. mong muốn hịa bình nhưng một khi đã khơng thể lựa chọn hịa bình
được thì chúng ta cũng quyết chiến đấu đến cùng vì nền độc lập của Tổ quốc,
vì sự tự do của đồng bào dân tộc. Khi ta đã nhân nhượng nhưng chúng ta càng
nhân nhượng thì địch càng lấn tới vì rõ ràng chúng đã có dã tâm cướp nước ta
một lần nữa do đó nhân dân ta buộc phải cầm súng chiến đấu. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã kêu gọi cả nước đứng lên đánh giặc với quyết tâm: “Hễ còn một
tên xâm lược trên đất nước ta thì ta cịn phải chiến đấu quét sạch nó đi” 1. Và
trong quá trình tổ chức lực lượng và các hình thức tiến hành bạo lực cách
mạng Hồ Chí Minh ln hướng nhân dân đến mục tiêu phát huy cao nhất sức
mạnh ở nhân dân để họ tự giải phóng mình. Trong suốt q trình cách mạng
Hồ Chí Minh ln ln quan tâm đến việc giáo dục tinh thần yêu nước và chủ
nghĩa anh hùng cách mạng cho chiến sĩ và nhân dân ta. Người đã từng cho
rằng việc dụng binh để chống giặc ngoại xâm cứu nước cứu dân đó là việc
làm nhân nghĩa. Hồ Chí Minh ln vận dụng đúng đắn mối quan hệ bạo lực
với hịa bình, mối quan hệ con người với con người trong chiến tranh. Hịa
bình là phương tiện bạo lực cách mạng là phương pháp. Thực tiễn lịch sử cho
thấy Hồ Chí Minh lúc nào cũng muốn dung biện pháp hịa bình để đạt mục
tiêu hịa bình trong độc lập tự do, tránh chiến tranh gây mất mát đau thương
cho đồng bào, cho quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó tư tưởng bạo lực cách
mạng của Hồ Chí Minh cịn thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong
chiến tranh. ở đây Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ chủ nghĩa nhân văn và nhân
đạo xuất phát từ tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh. Người đã đề ra,
chỉ đạo và thực hiện những chính sách hịa bình của Đảng và Nhà Nước ta.
Người từng nói: Tơi cũng ngậm ngùi thương xót những người pháp đã hy
1


Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H. 1996, T12, tr. 407.

20


sinh. Cũng với tư tưởng đó, Hồ Chí Minh nêu cao ý chí quyết tâm chiến đấu
gắn với khát vọng hịa bình trong độc lập tự do thật sự, phản ánh sâu sắc giá
trị nhân văn, nhân đạo, hịa bình trong tư tưởng bạo lực cách mạng của chủ
tịch Hồ Chí Minh. Người nêu cao tinh thần chủ động tấn công vào tinh thần
của nhân dân và quân đội đối phương bằng nhiều hình thức nhằm thủ tiêu suy
nghĩ xâm lược của kẻ thù. Bên cạnh đó cũng cần thống nhất quan điểm rằng
tư tưởng hịa bình của Hồ Chí Minh không hề đồng nghĩa với tư tưởng bất
bạo động của Phan Bội Châu vì điều này khơng đem lại mục đích của hịa
bình. Người đã từng nói về điều này: “ám sát tức là làm liều”.
Như vậy chúng ta có thể thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách
mạng còn mang một ý nghĩa nhân văn, nhân đạo hết sức sâu sắc. Người đã kế
thừa những giá trị tư tưởng, văn hóa “vĩnh cửu” của nhân loại, thấm đượm
chủ nghĩa nhân văn cao cả không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với
cả nhân loại – trong đó có kẻ thù . Tình u thương con người sự u chuộng
hịa bình và bên cạnh đó là cái quý báu của nền độc lập tự do cho dân tộc đã
tạo nên một nét hết sức độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách
mạng nhưng lại mang tính nhân văn, nhân đạo hết sức sâu sắc.

21


Chương 3
Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẠO LỰC CÁCH
MẠNG VÀ VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐÓ VÀO THỰC TIỄN

XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
3.1. Ý nghĩa tư tưởng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh
Dưới ánh sáng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quân và dân ta đã lập nên những chiến
công vang dội được cả loài người khâm phục và ca ngợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về bạo lực cách mạng và đặc biệt là những quan điểm chỉ đạo tiến hành một
cuộc cách mạng bạo lực như thế nào đã góp phần tại nên chiến cơng chói lọi cho
lịch sử dân tộc Việt Nam. Tư tưởng của Người về bạo lực cách mạng có ý nghĩa
to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn, là tài sản tinh thần, tư tưởng của Đảng và
của nhân dân ta. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng, Đảng
ta đã vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm của Người trong sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta không những trong cuộc chiến đấu với kẻ thù xâm
lược trong quá khứ mà còn cả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay.
Trước hết, Đảng ta khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực
cách mạng là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Lịch sử đã chứng minh Đảng ta ngày từ
khi mới ra đời đã vận dụng quan điểm bạo lực cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Đảng đã chăm lo tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng của quần
chúng, đưa quần chúng lên trận tuyến đấu tranh cách mạng. Xuất phát từ điều
kiện cụ thể của Việt Nam, trải qua các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc:
Xơ Viết Nghệ Tĩnh 1930 - 1931, các phong trào những năm 1936 - 1939 đến
Tổng khởi nghĩa 1945, Đảng ta đã thể hiện được sự vận dụng linh hoạt và sáng
tạo về xây dựng lực lượng chiến đấu và các hình thức đấu tranh cách mạng nên
đã giành được thắng lợi vẻ vang mà tiêu biểu là chiến thắng của cuộc Tổng

22


khởi nghĩa Cách mạng tháng 8/1945. Có thể thấy Đảng ta đã vận dụng đúng

đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng để đi đến một thắng lợi rực rỡ
của đường lối cách mạng đúng đắn và phương pháp cách mạng sáng tạo, đó là
sự kết hợp chặt chẽ các lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang để giành chính
quyền về tay nhân dân. Điều này cũng đã được đồng chí Trường Chinh đúc kết
ra kết luận là trong kháng chiến chống Pháp, bạo lực cách mạng của nhân dân
ta được thể hiện bằng sự kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị,
trong đó đấu tranh quân sự là chủ yếu. Với tinh thần đó trong suốt mấy mươi
năm gian khổ đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, Đảng đã phát huy cao độ sức
mạnh của toàn dân, xây dựng và sử dụng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm
nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Vận dụng sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về
bạo lực cách mạng, Đảng ta cùng tồn dân đã sáng tạo nhiều hình thức đấu
tranh, kết hợp chặt chẽ các lực lượng, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại đã làm thất bại bọn thực dân Pháp xâm lược, đánh dấu bước ngoặt mở
đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi tồn thế giới.
Bên cạnh đó, phương pháp bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh được
Đảng ta vận dụng và phát triển đến đỉnh cao, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa đấu tranh chính trị của quần chúng và đấu tranh quân sự của các lực
lượng vũ trang, giữa tiến công quân sự và đấu tranh ngoại giao, giữa đánh và
đàm, giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công. Và dấu son quan trọng
khẳng định ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh soi rọi con đường cách mạng của
dân tộc ta chính là kết thúc cuộc tổng tiến cơng mùa xn năm 1975 giải
phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng luôn được
Đảng ta vận dụng và tư tưởng đó thể hiện rõ nét trong tư tưởng của Người về
khởi nghĩa vũ trang nhân dân, về chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân. Đây là cơ sở để Đảng ta vận dụng trong chiến lược, sách
lược đấu tranh cách mạng và xây dựng lực lượng cách mạng. Thắng lợi của sự

23



nghiệp cách mạng mà Đảng ta lãnh đạo và tiến hành đấu tranh đã khẳng định
tính đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng.
Với những ý nghĩa khơng những mang tính lịch sử đối với dân tộc Việt
Nam mà tư tưởng bạo lực cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn góp phần
bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc tiến hành cuộc
cách mạng bạo lực ở một nước yếu, nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam chống lại
kẻ thù lớn mạnh, có tiềm lực kinh tế, chính trị hùng hậu. Cách tiến hành các hình
thức chiến tranh phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam và với điều kiện lực
lượng đấu tranh của Việt Nam đã tạo ra một bài học kinh nghiệm vơ cùng q
báu cho các nước có hồn cảnh tương tự Việt Nam noi theo. Và khơng những chỉ
có lịch sử và cả ngày nay, quan điểm của Người về bạo lực cách mạng vẫn tiếp
tục soi đường, là cơ sở nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng vào
thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Đối với lịch sử đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tư tưởng bạo lực
cách mạng của Hồ Chí Minh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Khơng những thế,
ngày nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, hệ thống quan điểm đó vẫn giữ nguyên giá trị.
Trước hết là việc vận dụng tư tưởng bạo lực cách mạng của Hồ Chí
Minh trong nhiệm vụ quốc phịng an ninh và bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay. Xu thế tồn cầu hóa đã làm cho một số khơng ít
người có quan điểm xem nhẹ đấu tranh giai cấp. Đây chính là kẽ hở cho các
thế lực thù địch tấn công vào mặt tư tưởng của những đối tượng này. Đảng ta
ln đứng trên nhìn nhận khách quan từ thực tiễn; tuy tình hình trên thế giới
và khu vực có nhiều thay đổi, các nước dần dần đi vào các hiệp ước, thỏa
thuận mang tính chất tồn cầu hóa. Nhưng điều đó khơng đồng nghĩa với việc
khơng cần đến bạo lực cách mạng, xu thế hịa bình vẫn không chỉ giải quyết
bằng con đường phi bạo lực. Đảng ta nhận định rằng kẻ thù vẫn tiếp tục sử

24


dụng sức mạnh của bạo lực và tăng cường bạo lực nhằm từng bước can thiệp
vào vấn đề hịa bình của các nước trong khu vực và trên thế giới. “Diễn biến
hịa bình” vẫn khơng phải là một xu thế tránh khỏi bạo lực và nguy cơ dẫn
đến bạo loạn lật đổ. Bên cạnh đó, với sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị
trường, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân của các thế lực thù địch càng khẳng
định hơn việc cần thiết phải quán triệt việc vận dụng sáng tạo tư tưởng bạo
lực cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Đảng ta. Củng cố vững
chắc hơn nữa nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc của nhân dân ta nhằm
chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Nắm vững quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: phải dựa vào dân, khơi
nguồn sức mạnh trong dân, Đảng đã đề ra chủ trương, chính sách nhằm khai thác
sức mạnh của cả dân tộc, của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ
rõ: “Thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc phải được đảm bảo bằng sức
mạnh tổng hợp của chế độ mới”1. Sức mạnh đó biểu hiện ở sự kết hợp giữa phát
triển kinh tế với xây dựng quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, kết hợp giữa
kinh tế, quốc phòng, an ninh, ngoại giao…, kết hợp kinh tế, quốc phịng, văn
hóa, kết hợp giữa phát huy nội lực với điều kiện quốc tế thuận lợi, tận dụng thời
cơ, đẩy nhanh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố và tăng cường tiềm
lực sức mạnh của đất nước. Sự kết hợp đó được thể hiện khái quát ở hai nhiệm
vụ chiến lược mà Đảng đã xác định: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ để xây dựng và
càng đẩy mạnh xây dựng thì càng phải tăng cường bảo vệ, chống mọi âm mưu
của các thế lực thù địch. Quá trình đó cũng là q trình kết hợp giữa phát huy
tinh thần tự lực tự cường với hợp tác mở cửa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để giành thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng. Quy luật đấu tranh
giành chính quyền khác với quy luật xây dựng xã hội mới. Quy luật chiến tranh

khác với quy luật phát triển kinh tế, văn hóa… trong xây dựng hịa bình. Do vậy,
1

Văn kiện Đại hội Đảng VI, Nxb Sự thật, H. 1987, tr. 10.

25


×