Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

TiÓu luËn Đề tài:Tư tưởng Hồ Chí Minh về Dân chủ trong Chính trịvà sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.85 KB, 54 trang )

TiĨu ln
Đề tài:

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Dân chủ trong Chính trị
và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay


MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta khẳng định cùng với chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng
và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm nhiều nội dung,
trong đó có vấn đề dân chủ và xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã đưa ra một hệ thống các quan điểm về dân chủ, từ quan điểm lý luận
đến sự thể hiện trong thực tế trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội…Trong các nội dung tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh thì vấn đề dân chủ
trong chính trị chiếm một vị trí quan trọng, được xem là nội dung cơ bản của
tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh. Đặt biệt, trong giai đoạn đổi mới đất nước
hiện nay, việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao quyền làm chủ của
nhân dân trong các hoạt động chính trị càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc. Thực tế cho thấy, nếu dân chủ trong chính trị được thực thi đầy đủ và
nghiêm túc thì nó sẽ là động lực to lớn cho việc thực thi dân chủ ở tất cả các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Song, không phải bao giờ dân chủ trong
chính trị cũng được phát huy, phát triển một cách kịp thời, tương xứng. Bởi
vì, sự phát triển của dân chủ trong chính trị nhiều khi cịn phụ thuộc vào trình
độ dân trí của các tầng lớp xã hội và đặc biệt là phụ thuộc vào trình độ lý luận


và lập trường, thái độ của chính đảng cầm quyền.
Khởi xướng và càng đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, Đảng ta càng nhận
thức sâu sắc hơn tầm quan trọng của dân chủ nói chung, dân chủ trong chính
trị nói riêng và ý nghĩa to lớn của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhằm bảo đảm dân chủ và phát huy quyền làm chủ chính trị của nhân
dân lao động. Để từng bước thực thi nhiệm vụ chính trị trọng đại này, Đảng
chủ trương thực hiện dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhất là dân chủ hóa chính trị - lĩnh vực trọng yếu của sự phát triển. Rõ ràng,
dân chủ chính trị đã thúc đẩy đổi mới và phát triển với tư cách một động lực.
Xuất phát từ lý do trên, em chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ trong chính trị và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”
làm tiểu luận thu hoạch kết thú học phần.
3


2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ hệ thống nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính
trị, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng tiếp tục vận dụng tư tưởng dân chủ
trong chính trị của Hồ Chí Minh vào giai đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta.
3. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp mang tính chất liên
ngành, trong đó chủ yếu là kết hợp phương pháp lịch sử với phương pháp
lơgíc; sử dụng và kết hợp với các phương pháp khác như: phương pháp thống
kê, phương pháp phân tích, đánh giá, phương pháp tổng hợp…

4


Chương 1


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
TRONG CHÍNH TRỊ
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính
trị.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị là nội dung quan trọng
nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Do đó, cơ sở hình thành của nó
khơng nằm ngồi các yếu tố hình thành nên tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.
1.1.1. Giá trị văn hố dân tộc
Chủ nghĩa u nước, chủ nghĩa nhân văn Việt Nam với những giá trị về
dân chủ của cha ông ta nhằm cố kết cộng đồng, đồn kết dân tộc trong tiến
trình lịch sử dựng nước và giữ nước, trong lao động sản xuất, sáng tạo, bảo
tồn và phát triển dân tộc là cơ sở đầu tiên hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ trong chính trị.
Yếu tố dân chủ trong giá trị văn hoá dân tộc Việt Nam, thực chất và
chủ yếu là dân chủ của những người tiểu nông đấu tranh cho chủ nghĩa bình
quân về quyền lợi. Đồng thời, ở Việt Nam tồn tại khá sớm hình thức dân chủ
công xã dựa trên sự bảo tồn quan hệ công xã nông thôn, lấy quan hệ láng
giềng làm sợi dây ràng buộc tập thể, chỗ dựa tinh thần là bầu khơng khí hồ
đồng, bệ đỡ kinh tế là chế độ công điền, công thổ của làng.
Bên cạnh tư tưởng dân chủ của nông dân, ở Việt Nam cũng tồn tại một
số biện pháp và hình thức thân dân của các vương triều tiến bộ trong điều
kiện phân hoá giai cấp chưa gay gắt, nhất là trước yêu cầu bức thiết của
nhiệm vụ giữ nước. Nhà Lý, nhà Trần được xây dựng trên một thiết chế tập
quyền thân dân “lấy dân làm gốc”, lo giữ lịng dân bằng nhiều hình thức dân
chủ. Nhà Lý cho đặt chuông kêu oan, nhà Trần mở Hội nghị Diên Hồng để
cùng các bô lão cả nước bàn kế đánh giặc. Trần Quốc Tuấn chủ trương
“khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Trong thế kỷ XV, Nguyễn
Trãi đã ví dân như nước, nước có thể chở thuyền và lật thuyền. Chính vì thế
các vương triều tiến bộ phải lo giữ lịng dân và phải áp dụng một số hình
thức dân chủ với nhân dân, trong đó có dân chủ về chính trị. Đó là những

yếu tố thân dân, trọng dân gắn liền với sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc.
5


Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, một phong trào dân tộc rộng lớn bao
giờ cũng chứa đựng những yếu tố dân chủ nhất định. Trong tiến trình đi lên
của dân tộc, vấn đề giải phóng dân tộc ln phải gắn liền với vấn đề giải
phóng con người theo sự phát triển của lịch sử dân tộc. Đây chính là nguồn
động lực cơ bản, cực kỳ mạnh mẽ, mà nhờ đó, dân tộc ta ln duy trì được
sự sinh tồn, phục hưng và phát triển của mình trước áp lực khổng lồ và hung
tàn của các thế lực xâm lăng.
Rõ ràng, các yếu tố dân chủ trong truyền thống Việt Nam đang ở một
mức độ nhất định so với trình độ dân chủ của thời đại. Song, cũng chứng
minh được, ở người Việt Nam đã từng có tập quán dân chủ. Người Việt Nam
không xa lạ với ý tưởng về một xã hội công bằng, bác ái, tự do nhưng họ lại
rất ngỡ ngàng với những phương thức bảo đảm quyền dân chủ. Hồ Chí Minh
đã hiểu được bản chất dân chủ truyền thống Việt Nam, để phát huy tập quán
dân chủ và dân chủ truyền thống như một động lực, đồng thời đã biết khắc
phục những yếu kém, khuyết điểm trong dân chủ truyền thống bằng sự kế
thừa có chọn lọc, kết hợp với tiếp thu những tinh hoa của thời đại trong q
trình dân chủ hố chính trị và dân chủ hoá đất nước.
Những yếu tố về dân chủ nói chung trong lịch sử dân tộc Việt Nam và
các giá trị của nó, dù cịn giản đơn, chưa trở thành một học thuyết, nhưng
cũng chính là một cơ sở văn hoá vững chắc, thuận lợi để Hồ Chí Minh tiếp
thu, vận dụng sáng tạo để hình thành nên tư tưởng dân chủ chính trị của mình.
1.1.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại
* Tinh hoa văn hoá phương Đơng
Sự hấp thụ văn hố phương Đơng, mà đại diện là Nho giáo và Phật giáo,
đã được bản địa hoá ở Việt Nam và có sự giao thoa với nhau, sớm hình thành
ở Hồ Chí Minh một nhân cách văn hoá, một tư duy của nhà dân chủ thiết tha

với độc lập, tự do của dân tộc và cuộc sống bình n của nhân dân. Hồ Chí
Minh cịn tiếp tục kế thừa kiến thức văn hố Đơng phương của mình ngay
chính ở trung tâm, nơi khởi nguồn của Nho giáo, đó là Trung Quốc. Đặc biệt,
Người đã chứng kiến việc Khổng giáo và Khổng Tử bị phê phán gay gắt ở
Trung Quốc. Trong bầu khơng khí đó, Hồ Chí Minh có nhận xét riêng của

6


mình. Người đã nhận xét rằng: “Khơng Tử vĩ đại, khởi xướng thuyết đại đồng
và truyền bá sự bình đẳng về tài sản”1.
Nếu khơng am hiểu Nho giáo, Hồ Chí Minh khơng thế tìm thấy sự tiến
bộ, tinh t của học thuyết đang bị phê phán, để khẳng định một vấn đề lớn
hơn, đó là: “lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng
vào châu Á, đễ dàng hơn là ở châu Âu”2. Hồ Chí Minh đánh giá: “Khổng giáo
không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và
phép ứng xử. Và trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm về thế giới đại
đồng”3.
Những triết lý Phật giáo đã được Việt Nam hố theo hướng tích cực, trở
nên rất gắn bó với dân, với đất nước, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng
dân chủ Hồ Chí Minh. Quan niệm về lịng từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn,
thương người như thể thương thân… của Phật giáo ít nhiều phản ánh một tinh
thần bình đẳng, dân chủ nhất định, đã hồ vào văn hố của dân tộc và làm sâu
sắc thêm tinh thần dân chủ trong văn hoá Việt Nam. Thiền phái Trúc Lâm Việt
Nam do Trần Nhân Tông sáng lập vào thế kỷ XIII với chủ trương sống gắn bó
với dân, với nước, tham gia vào cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc là
một minh chứng tiêu biểu.
Chủ nghĩa Tam Dân của Tơn Trung Sơn cũng có những tác động nhất
định đến Hồ Chí Minh với chủ trương dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân
sinh hạnh phúc. Hồ Chí Minh khơng ngần ngại khẳng định chủ nghĩa Tơn

Trung Sơn có những chính sách thích hợp với điều kiện nước ta. Tiêu chí
“Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là sự
gặp gỡ với tinh thần dân chủ đó dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
* Tinh hoa văn hóa phương Tây
Từ thế kỷ XIX, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa của các nước phương Tây
đã du nhập mạnh mẽ vào châu Á, kéo theo sự truyền bá của những tư tưởng
dân chủ tư sản, gắn liền với tên tuổi của Mơngtexkiơ, Vơnte, Rútxơ…

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, t.1, tr. 35.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, t.1, tr. 35.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000, t.1, tr. 477.
1
2

7


Môngtexkiơ (1689 - 1755) đã viết tác phẩm nổi tiếng “Tinh thần pháp
luật”, được công bố năm 1748. Trong tác phẩm đó, ơng viết rằng, xã hội lồi
người phát triển có quy luật khách quan, khơng phải tuỳ theo ý muốn của
thượng đế. Tổ chức xã hội phụ thuộc vào chính quyền nhà nước và có ba
loại hình chính quyền nhà nước phổ biến: chế độ chuyên chế, chế độ qn
chủ lập hiến và chế độ cộng hồ. Ơng đề ra việc phân quyền và hạn chế
quyền hành trong chính quyền nhà nước để bảo đảm cho quyền tự do của
con người. Ông khẳng định rằng, phải triệt để phân lập ba quyền: lập pháp,
hành pháp và tư pháp và ba quyền này phải được độc lập với nhau (tức là
tam quyền phân lập). Dù có thừa nhận sự cần thiết của một nền quân chủ tư
sản, song ông vẫn coi bình đẳng đúng nghĩa của nó là bình đẳng trong chính
trị và lịng u nước đồng nghĩa với lịng u sự bình đẳng.

Với Rútxơ (1712-1778), trong tác phẩm “Khế ước xã hội” (1762) đã trình
bày chi tiết mơ hình của một chính quyền nhân dân. Nhân dân bao gồm hầu hết
những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất của xã hội. Vì vậy, nền dân
chủ theo tư tưởng của Rútxô là dân chủ của đa số, là dân chủ thực sự của nhân
dân. Dù quan điểm của ơng cịn chưa hồn chỉnh, nhưng ơng là một nhà tư
tưởng cách mạng dân chủ xuất sắc nhất.
Hồ Chí Minh, khi mới mười ba tuổi đã chịu sức hấp dẫn của nền văn hố
phương Tây và bắt đầu tìm hiểu những giá trị của dân chủ như: Tự do - Bình
đẳng - Bác ái. Những khái niệm và giá trị mới đó của văn hố dân chủ phương
Tây xuất hiện ở Việt Nam, mà lần đầu tiên Hồ Chí Minh được tiếp xúc, đã thôi
thúc, cuốn hút và trở thành một trong những động cơ thúc đẩy Người hướng
về quê hương đã sản sinh ra những giá trị mới đó để tìm con đường cứu nước,
cứu dân. Hồ Chí Minh nói rằng: “Vào trạc tuổi mười ba, lần đầu tiên tơi được
nghe những từ Pháp Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Đối với chúng tôi, người da
trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế và từ thủa ấy, tôi rất
muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn dấu sau
những từ ấy”1.

Bài “Thăm một chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc”, báo Огонёк (Ngọn lửa nhỏ), 12 –
1923.
1

8


Trong cuộc hành trình gian khổ đi khắp thế giới để tìm đường cứu nước,
cứu dân, Hồ Chí Minh đã tới nước Mỹ, sống và lao động ở Niu Yoóc. Tác
động của cuộc đấu tranh giành độc lập và những giá trị về quyền con người
mà nhân dân Hoa Kỳ viết lên bằng xương máu của mình qua cuộc đấu tranh
anh dũng đó, cũng như thực tế cuộc sống ở đây đã tác động mạnh mẽ hai

chiều tới nhận thức của Người. Thành quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc được ghi nhận qua Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ với những giá trị về
quyền con người của nhân dân Hoa Kỳ đã in đậm vào tâm trí của Hồ Chí
Minh mà sau này Người thừa nhận nó như một điều bất hủ và ghi nhận vào
Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Rời nước Mỹ, trong khoảng 4 năm (1913-1917) sống trong điều kiện của
nền quân chủ lập hiến ở nước Anh, lao động và tham gia vào các hoạt động
đấu tranh của giai cấp công nhân ở thủ đô Luân Đôn, Hồ Chí Minh lại trực
tiếp hiểu biết thêm một hình thức dân chủ nữa của nhân loại. Sự hiểu biết nổi
bật của Hồ Chí Minh về nền dân chủ tư sản Anh đã được sử dụng một cách
hiệu quả vào năm 1931 khi Người nhờ Luật sư Lôgiơbi biện hộ để thoát khỏi
bàn tay thực dân Anh và Pháp.
Năm 1917, Hồ Chí Minh đến hoạt động ở Pari, nơi được xem là trung
tâm văn hoá của châu Âu, nới đã sản sinh ra lý tưởng Tự do - Bình đẳng - Bác
ái và được tiếp xúc trực tiếp với những tác phẩm của các lý luận gia dân chủ
của Pháp như Môngtéxkiơ (Tinh thần pháp luật), Rútxô (Khế ước xã hội). Tại
đây, ngoài các lý thuyết về dân chủ, những tác động thực tiễn của nền dân chủ
dưới chế độ Cộng hồ Pháp với Tun ngơn Nhân quyền và Dân quyền đã
làm gia tăng thêm những hiểu biết của Hồ Chí Minh về dân chủ với hình thức
dân chủ tư sản nữa.
Như vậy, ngay từ đầu, khi đi ra nước ngoài tìm con đường cứu nước, cứu
dân, trước Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận trực tiếp
ba hình thức dân chủ tư sản hiện đại của nhân loại từ chính q hương của nó.
Hơn thế nữa, Người không chỉ sống và chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ
tư sản và các hình thức tồn tại của nó mà cịn thực hành dân chủ ở chính q
hương của các hình thức này với những hoạt động chính trị sử dụng ngay
thành quả của nền dân chủ tư sản phương Tây. Đứng trong hàng ngũ đấu
9



tranh của giai cấp công nhân ở các nước, tham gia hội họp, làm báo, sinh hoạt
trong Câu lạc bộ Faubour, Hội liên minh nhân quyền và tham gia trong các tổ
chức chính trị (Đảng Xã hội Pháp)… Hồ Chí Minh đã học tập, đã trải nghiệm
qua các môi trường thực hành về dân chủ chính trị. Hoạt động chính trị trong
các chế độ tư sản điển hình ở Mỹ, Anh, Pháp, tham gia vào sinh hoạt dân chủ
trong các tổ chức chính trị… đã góp phần khơng nhỏ tới việc hình thành tư
tưởng, phong cách dân chủ trong chính trị của Người, tới sự lựa chọn mơ hình
dân chủ chính trị cho Việt Nam.
1.1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Đây là cơ sở lý luận chủ yếu tạo nên và hồn thiện tư tưởng dân chủ nói
chung và tư tưởng về dân chủ trong chính trị nói riêng của Hồ Chí Minh.
Bằng hành trang là chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam, với những
giá trị dân chủ truyền thống, tiếp thu những giá trị của tư tưởng dân chủ mà
nhân loại đạt được và trải nghiệm thực tế qua các hình thức dân chủ tư sản
điển hình nhất ở các nước phương Tây, Hồ Chí Minh, sau hàng chục năm tìm
tịi, đã có sự lựa chọn đúng đắn và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí
Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin trước hết và trên hết là vì mục tiêu giải
phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, tiến tới xây dựng một xã hội mà theo
tinh thần của C. Mác và Ph. Ăngghen trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản (năm 1848) là: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Theo Người, chủ nghĩa Mác - Lênin đã giải quyết được vấn đề cứu nước
gắn liền với cứu dân, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, giải
phóng con người, làm cho tồn thể nhân dân được sống trong một xã hội dân
chủ thực sự. Hồ Chí Minh khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới
đem lại những giá trị đích thực của lý tưởng dân chủ mà nhân loại đã từng mơ
ước.
Tháng 7 năm 1920, sau khi đọc tác phẩm của V.I. Lênin “Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”, Hồ Chí
Minh đã lựa chọn Quốc tế III. Ngày 29-12-1920, tại Đại hội Tua (lần thứ

XVIII) của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III

10


và nói rõ ngun nhân là vì: “Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc
địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những
điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tơi hiểu”1.
Ngày 30-12-1920, Hồ Chí Minh tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp. Sự kiện này đã chấm dứt giai đoạn Hồ Chí Minh lựa chọn con đường
giải phóng và tìm thấy một con đường cứu nước đúng đắn. Người đã lựa chọn
con đường chủ nghĩa cộng sản để xây dựng một xã hội thực sự dân chủ cho
đất nước mà trước hết là đem lại quyền làm chủ làm chủ về chính trị cho nhân
dân lao động Việt Nam, quyền làm chủ Tổ quốc mình.
Cách mạng Tháng Mười Nga và quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước Nga đã chỉ ra cho Hồ Chí Minh nhận thức được những đặc
điểm mới về nội dung dân chủ trong chính trị như:
Tồn thể nhân dân lao động là chủ thể của nền dân chủ, “sự thức tỉnh và
sự tham gia tích cực của họ vào công việc của Nhà nước thay cho các quan
lại” là điều kiện số một của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan đại biểu nhân dân (Xôviết) do phổ thông đầu phiếu bầu ra
là cơ quan đại diện quyền lực nhân dân, vừa lập pháp, vừa hành pháp, tức là
thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công chứ không phân lập. Nhân dân
trực tiếp bầu những đại biểu của mình, trực tiếp kiểm tra và có quyền bãi
miễn tư cách đại biểu.
Chế độ tập trung dân chủ kết hợp với quyền tự trị, tự quyết rộng rãi của
các địa phương.
Lực lượng lãnh đạo là Đảng của giai cấp cơng nhân và có các tổ chức
quần chúng làm chỗ dựa cho nền dân chủ. Các tổ chức này cùng với Nhà
nước hợp thành chuyên chính vơ sản.

Đối tượng chun chính của nó là tất cả những phần tử, lực lượng thù
địch với chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một
nền dân chủ toàn diện, trực tiếp cụ thể về dân chủ chính trị. Sau khi hồn
thiện, nó sẽ đạt tới trình độ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản (V.I. Lênin).

1

Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Thông tin lý luận, H. 1992. t.1, tr. 105.
11


Rõ ràng, về tư tưởng, Hồ Chí Minh chú ý đến giá trị dân chủ cao nhất
và trước hết của mỗi con người trong những quốc gia nô lệ là sự giải phóng
của Tổ quốc và cùng với sự giải phóng này là sự giải phóng triệt để con
người. Với Hồ Chí Minh, khơng có giải phóng dân tộc thì khơng thể nói tới
bất kỳ một giá trị dân chủ nào cho con người, nhưng giải phóng dân tộc
phải đi tới giải phóng con người một cách triệt để.

1.2. Nội dung quan điểm Hồ Chí Minh về dân chủ trong
chính trị.
Quan điểm Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị cho thấy rằng, quyền
lực của nhân dân được khẳng định bằng Hiến pháp và pháp luật, được bảo
đảm trong việc tổ chức ra nhà nước dân chủ mới của dân, do dân và vì dân,
bảo vệ lợi ích của nhân dân. Quan điểm đó thể hiện ở những vấn đề cơ bản
sau đây:
1.2.1. Khẳng định quyền lực của nhân dân.
Khẳng định địa vị của nhân dân và thể hiện nó trong thực tiễn là lửa thử
vàng để nhận biết một nền dân chủ, một thiết chế dân chủ đích thực hay giả
dối.

Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ”1.
Quan điểm địa vị cao nhất là dân được Người giải thích ngắn gọn vì dân
là chủ. Theo Hồ Chí Minh, địa vị là chủ được quyết định bởi mọi quyền hành
và lực lượng là của dân, mọi công việc là do dân và do đó thành quả của nền
dân chủ với địa vị cao nhất là nhân dân thì mọi lợi ích là dân chứ khơng phải
là của một thiểu số nào.
Vị thế chính trị là chủ với hành động của người làm chủ không phải ở
trên những khẩu hiệu mà phải được thực hiện đầy đủ trong thực tiễn.
Ngay từ năm 1941, khi xây dựng Chương trình của Mặt trận Việt Minh,
Hồ Chí Minh đã thiết kế chế độ dân chủ cộng hoà cho nước ta sau khi cuộc
cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. Một chương trình cách mạng
nhằm thực hiện những mục tiêu dân chủ đã thức tỉnh vai trò làm chủ đất nước
của mỗi người dân, làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng do nhân dân tiến
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H.. 2000, t.6, tr.515.
12


hành. Qua Tun ngơn độc lập, Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước toàn thế giới
về sự ra đời của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ - với
mục tiêu phấn đấu cũng chính là tiêu chí chung của tồn thể nhân dân Việt
Nam: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Như vậy, vị thế chính trị - quyền làm chủ
của nhân dân được khẳng định qua Tun ngơn độc lập do Hồ Chí Minh soạn
thảo, trong đó các giá trị về dân chủ gắn liền với độc lập, tự do của Tổ quốc,
gắn liền với bình đẳng và cơng bằng xã hội… Những nội dung thể hiện các
giá trị về dân chủ đó lại được khẳng định bằng một bản Hiến pháp năm 1946
thấm đậm tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.
Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền

lực của nhân dân trong điều kiện lịch sử hết sức khó khăn lúc đó. Lời nói đầu
của Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai
đoạn hiện nay là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết
quốc gia trên nền tảng dân chủ”.1
Trên cơ sở đó, Quốc hội Việt Nam có nhiệm vụ xây dựng Hiến pháp theo
ba ngun tắc sau:
- Đồn kết tồn dân, khơng phân biệt giống nịi, gái, trai, giai cấp, tơn
giáo.
- Bảo đảm các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của dân.
Những nguyên tắc trong xây dựng Hiến pháp được tuân thủ và khẳng định
ở Chương I (Chính thể), ở Điều 1 của Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
mới do Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo. Nước Việt Nam là một nước
Dân chủ cộng hoà.
Cũng ngay trong Chương I, Điều 1 của Hiến pháp năm 1946, có sự khẳng
định một cách rõ ràng quyền lực của nhân dân: “Tất cả quyền bính trong nước là
của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo”2.
Chương II của Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định những nghĩa vụ và
quyền lợi của công dân. Ngồi sự bình đẳng về nghĩa vụ trong việc bảo vệ Tổ
quốc, Hiến pháp nêu rõ: “Tất cả mọi công dân Việt Nam đều ngang quyền về
1
2

Hiến pháp Việt Nam, Nxb. CTQG, H., 2003, tr.7.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.4, tr. 440 – 441.
13


mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hố (Điều 6), đều bình đẳng trước

pháp luật, đều được tham gia chính quyền và cơng cuộc kiến quốc tuỳ theo tài
năng và đức hạnh của mình”.
Vấn đề là chủ, làm chủ của nhân dân, của các giai tầng còn được xác
định cụ thể và rõ ràng trong các Hiến pháp 1946 và 1959 bằng cách khẳng
định về quyền và nghĩa vụ của công dân (Chương II). Điều đặc biệt là trong
Hiến pháp đầu tiên của nước ta là chỗ, nền dân chủ của nước Việt Nam mới
bảo vệ cho “những người ngoại quốc đấu tranh cho dân chủ và tự do mà phải
trốn tránh được trú ngụ trên đất Việt Nam” (Điều 16). Tinh thần đó được ghi
vào Hiến pháp chỉ rõ nền dân chủ mới của nước ta không chỉ thực hiện và bảo
vệ quyền dân chủ ở Việt Nam mà cịn có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ cho
những người nước ngoài phấn đấu cho lý tưởng dân chủ”.
Hiến pháp năm 1946 cũng quy định những quyền cụ thể cho Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tồ án và chính quyền cấp tỉnh. Tồn bộ quyền lực
ở và chỉ ở nhân dân mà thơi. Điều đó thể hiện rõ khái niệm dân chủ theo tư
tưởng Hồ Chí Minh: “tất cả quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “địa vị
cao nhất là dân vì dân là chủ”.
Phát biểu tại phiên bế mạc Kỳ họp thứ hai Quốc hội khố I của nước Việt
Nam mới, sau khi thơng qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hồ, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Sau khi nước nhà mới giành tự do được
14 tháng, đã làm thành được bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà.
Bản Hiến pháp đó chưa hồn tồn nhưng nó đã làm nên theo một hồn cảnh
thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến
pháp đã tuyên bố với thế giới dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do”1.
Người viết: “Hiến pháp phải bảo đảm được quyền tự do, dân chủ cho
các tầng lớp nhân dân, trên cơ sở công nông liên minh và do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Nó phải thực sự bảo đảm nam nữ bình quyền và dân tộc bình
đẳng”2 và “Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do
dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”3.

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H., 2000, t.4, tr. 440 - 441.

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H., 2000, t.8. tr. 322.
3
.Hồ Chí Minh: Nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, H., 1985, tr. 85,89.
1
2

14


Tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân văn của
con người Việt Nam, thể hiện triết lý phương Đơng và cũng chính tư tưởng đó
tạo nên sức mạnh Việt Nam trong xây dựng đất nước nói chung cũng như
trong q trình hồn thiện nền dân chủ nước nhà khi Người viết: “Nghĩ cho
cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời
và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương
nhân loại khổ đau, bị áp bức”1.
Đó là sự thể hiện đặc biệt về dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong
lĩnh vực chính trị mà trước hết là sự khẳng định vị trí của nhân dân trong chế
độ dân chủ.
Hồ Chí Minh khơng những đã chỉ ra địa vị của nhân dân nói chung trong
Hiến pháp mà cịn xác định một cách rất cụ thể quyền dân chủ của từng giai
tầng trong xã hội. Đối với công nhân, Người khẳng định “Cơng nhân có
quyền thực sự trong xí nghiệp” và “từ làm chủ về tư liệu sản xuất, họ phải
được làm chủ trong việc quản lý, làm chủ trong việc phân phối sản phẩm lao
động”2.
Đối với lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân, Hồ Chí Minh
đã nêu lên một luận điểm rất quan trọng: “Bao giờ ở nơng thơn nơng dân thật
sự nắm chính quyền, nơng dân phải được giải phóng thì mới có dân chủ thực
sự”3.
Người đánh giá rất cao vai trò của tầng lớp trí thức trong tiến trình dân

chủ hố ở nước ta và cho rằng: “lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng
trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong cơng cuộc hồn thành dân chủ
mới để tiến đến chủ nghĩa xã hội” 4. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới vấn đề
giải phóng phụ nữ trong việc tham gia vào các công việc xã hội và đề cao vai
trò chủ nhân đất nước của thanh thiếu niên.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: nước ta là một quốc gia đa dân tộc, quyền làm chủ
của nhân dân phải thuộc về tất cả đồng bào các dân tộc và cho rằng, phải
“làm cho các dân tộc anh em dần dần tự quản lý lấy mọi cơng việc của mình,
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.12, tr.568.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.7, tr.25.
4
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.6, tr. 203.
2
3

15


để mau chóng phát triển kinh tế và văn hố của mình, để thực hiện các dân
tộc bình đẳng về mọi mặt”1.
Khẳng định vị trí là chủ và làm chủ của nhân dân trong Hiến pháp và
pháp luật là sự bảo đảm đầu tiên cho việc thực hành dân chủ trong lĩnh vực
chính trị ở một nước chưa trải qua nền dân chủ tư sản, quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội như nước ta; thể hiện quan điểm lý luận, lý tưởng chính trị, chuẩn mực
chính trị pháp quyền, là xây dựng mặt tinh thần của cả hệ thống chính trị nước
ta.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng một Hiến pháp dân
chủ, trong đó xác định rõ quyền làm chủ của nhân dân với những cơ chế để

thực hiện quyền lực đó của nhân dân trong thực tiễn là những quan điểm căn
bản cho xây dựng mặt vật chất của hệ thống chính trị dân chủ ở nước ta, thể
hiện trước hết qua việc xây dựng Nhà nước.
1.2.2. Xây dựng Nhà nước dân chủ
Bằng thực tiễn thiết lập nền dân chủ mới, Hồ Chí Minh đã cho thấy, hệ
thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân, về mặt vật chất, được cấu thành
từ các cơ quan của nhà nước, các tổ chức và đảng phái chính trị, trong đó vấn
đề căn bản là sự thiết lập Nhà nước của dân, do dân và vì dân và vận hành nó
trong thực tiễn. Nhà nước trụ cột của hệ thống chính trị dân chủ phải do chính
nhân dân xây dựng nên thơng qua bầu cử tự do và nhân dân có quyền và các
điều kiện cần thiết để giám sát, kiểm tra mọi hoạt động của Nhà nước.
Những tư tưởng của Người về xây dựng Nhà nước dân chủ thể hiện ở
vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân
Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, quyền bính thuộc về nhân dân
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành cơng, Hồ Chí Minh đã tiến
hành thực hiện ngay quyền làm chủ của nhân dân trong chính trị thông qua
tổ chức, xây dựng nhà nước dân chủ mới ở nước ta. Người đã sử dụng kết
hợp các hình thức: dân chủ đại diện với việc bầu ra Nghị viện (Quốc hội);
dân chủ trực tiếp với nhiều hình thức linh hoạt như chế độ toàn dân phúc
quyết (Hiến pháp năm 1946), sự kiểm điểm tự phê bình và tiếp thu phê bình
trước tồn dân đối với cán bộ chính quyền các cấp cơ sở trong từng thời
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.7, tr.543.
16


gian; chế độ nửa trực tiếp trong cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan
hành chính và cơ quan tư pháp trong thể chế bầu cử Hội đồng nhân dân các

cấp. Những định chế này là cơ sở để Hồ Chí Minh tổ chức bộ máy nhà nước
dân chủ ở nước ta.
Ngày 3-9-1945, trong phiên họp Chính phủ lâm thời, khi nêu những
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Người đã chỉ
rõ: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ
thực dân không kém phần chun chế, nên nước ta khơng có Hiến pháp. Nhân
dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến
pháp dân chủ. Tơi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng
tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” 1.
Tổng tuyển cử là một biểu thị thực hiện quyền dân chủ chính trị của nhân
dân, bảo đảm chế độ dân chủ, tự do. Chính sách bầu cử và ứng cử là vấn đề
cốt tử nhằm bảo đảm tính hợp hiến trong xây dựng bộ máy nhà nước. Chính
sách đó là tự do hay hạn chế, bình đẳng hay phân biệt, giả hay thật, áp đặt hay
tự do lựa chọn, là những chuẩn mực để xem bộ máy chính quyền có thực sự là
của dân hay khơng. Hồ Chí Minh đã chỉ ra tính chất của nhiệm vụ này: “Tổng
tuyển cử là dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có
đức để gánh vác cơng việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là người
muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là cơng dân thì đều có
quyền đi bầu cử. Khơng chia trai gái, giàu nghèo, tơn giáo, nịi giống, giai
cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó,
cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là dân chủ, đoàn kết. Do
Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ.
Chính phủ đó thực là Chính phủ của tồn dân”2.
Thơng qua Nhà nước do mình cử ra, quyền lực của nhân dân trở thành
quyền lực nhà nước với chủ thể của nhà nước là nhân dân. Do vậy, quyền lực
nhà nước có cội nguồn từ nhân dân, xuất phát từ nhân dân, nhân dân tạo lập
nên bộ máy nhà nước và uỷ quyền cho nhà nước thay mặt mình thực hiện
quyền lực. Tính chất dân chủ của Nhà nước ta được thể hiện thơng qua việc tổ
chức nó. Từ thành quả đó của chế độ dân chủ, Hồ Chí Minh khẳng định:
1

2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 4, tr. 133.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 4, tr. 133.
17


“Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần quốc dân liên hiệp, là một Chính phủ chú
trọng thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ nền độc lập và thống nhất
lãnh thổ cùng xây dựng nước Việt Nam mới. Chính phủ này là chính phủ tồn
quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia”1.
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, với sự kiện toàn dân tham gia
cuộc Tổng tuyển cử xây dựng cơ quan đại diện quyền lực cao nhất của mình
là Quốc hội và cử ra Chính phủ, quyền lực cao nhất đã thuộc về nhân dân. Tư
tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện rất cụ thể trong lĩnh vực chính trị thông qua
việc xây dựng nhà nước dân chủ mới ở nước ta.
Do đó, dân chủ trong chính trị là bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trong
bầu cử và ứng cử của nhân dân vào các cơ quan đại diện là nhà nước.
Như vậy, để có dân chủ chính trị, phải hình thành một thiết chế nhà nước
pháp quyền nhằm thực hiện và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
Xây dựng Nhà nước vì dân
Hồ Chí Minh đã nêu lên một loạt những luận điểm về xây dựng một nhà
nước dân chủ. Đó là các quan điểm về bản chất, về mục tiêu, về nội dung
chức trách và nhiệm vụ của nhà nước vì dân.
Người viết: “Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân
làm chủ” 2 vì “Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra” 3
và “Nhiệm vụ của Chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân, tổ chức, giáo
dục, động viên nhân dân xây dựng cuộc sống mới”4.
Không chỉ xác định vị trí là chủ của nhân dân đối với nhà nước, Hồ Chí
Minh cịn giải thích rất cụ thể mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân trong

nhiệm vụ phục vụ nhân dân: “Chính phủ Cộng hồ Dân chủ là gì ? Là đầy tớ
chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ
phải là đầy tớ. Làm việc ngày nay khơng phải để thăng quan phát tài. Nếu
Chính phủ làm hại đến nhân dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”5.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng khẳng định ngay trách nhiệm là chủ và
làm chủ: “Nhưng khi dân dùng đầy tớ làm việc cho mình thì phải giúp đỡ
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H., 2000, t. 4, tr. 430.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t. 6, tr. 365.
3
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t. 5, tr.698.
4
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t. 19, tr. 606.
5
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t. 5, tr. 60.
1
2

18


Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình Chính phủ, phê bình nhưng
khơng phải là chửi”1.
Theo Hồ Chí Minh, một trong những vấn đề chiến lược để giải quyết các
mâu thuẫn xã hội, tăng cường năng lực của nhà nước là phải phát triển quyền
dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân. Sự phát triển đó, một mặt, cho
phép nhà nước nắm được các mâu thuẫn đang hình thành để giải quyết, mặt
khác, tạo ra sự tác động thường xuyên làm cho nhà nước luôn ở trong tiến trình
tự điều chỉnh, làm cho nó ngày càng hoàn thiện hơn, thực hiện ngày càng tốt
hơn nhiệm vụ, chức trách của nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cùng song
hành với việc giải quyết các mâu thuẫn từ lúc phát sinh và sự hồn thiện Nhà

nước, thì sự “phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân” là
ngày càng phát huy tính tích cực, sức sáng tạo và chủ động tham gia của nhân
dân vào các cơng việc của đất nước. Chỉ có như vậy mới xây dựng được một
nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Hồ Chí Minh nói: “Có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa
cách mạng tiến lên”2.
Rõ ràng, khi nói tới việc nhà nước ta phải “phát huy dân chủ” và “phát
triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân”, Hồ Chí Minh đã
khơng chỉ nêu rõ nhiệm vụ của nhà nước dân chủ, nêu lên ý nghĩa của nhiệm
vụ đó mà cịn chỉ ra một phương thức tốt nhất nhằm bảo đảm cho nhà nước
không bị lạc hậu và xơ cứng trước sự phát triển dân trí và những yêu cầu ngày
càng cao của nhân dân trong việc tham gia vào các sinh hoạt mọi mặt của đất
nước. Đó cũng là giải pháp tốt nhất nhằm nâng cao tính năng động của nhà
nước xã hội chủ nghĩa, nó địi hỏi nhà nước phải luôn luôn chú ý tới sự phát
triển trên mọi lĩnh vực của đất nước và trên thế giới, mà trước hết là sự phát
triển dân chủ ở nước ta.
Tạo ra những điều kiện thực tế và ngày càng hoàn thiện hơn để nhân dân
thực hiện đầy đủ vai trị, trách nhiệm của mình là biện pháp thực hiện tốt nhất
để phát huy tính chủ động và tích cực chính trị trong nhân dân. Vì theo Hồ
Chí Minh, kháng chiến, kiến quốc, hay đổi mới, xây dựng đất nước đều là sự
nghiệp của dân và trách nhiệm của dân, mọi lực lượng và quyền hạn đều ở nơi
1
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t. 5, tr. 60.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H., 2000, t. 9.tr.594.
19


dân. Hồ Chí Minh giải thích: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ.

Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Vì vậy nhân dân có nhiệm vụ giúp Chính
phủ, theo đúng kỷ luật Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để
Chính phủ làm trịn phận sự mà nhân dân giao phó” 1.
Sự giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt, và phê bình của nhân dân đối với chính
quyền là phương thức trực tiếp và tốt nhất nhằm làm cho hoạt động của chính
quyền nhân dân ngày một hiệu quả hơn. Một mặt, các yếu tố này sẽ làm cho nhà
nước mau chóng nắm bắt được nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân trên lĩnh
vực, thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động, kiểm sốt và điều chỉnh các hoạt động
của nhà nước đúng theo hướng phục vụ lợi ích của nhân dân. Mặt khác, dưới tác
động thường xuyên của vai trò và trách nhiệm của nhân dân sẽ làm cho nhà nước
tránh khỏi quá trình quan liêu hố, điều chỉnh xu hướng xa rời nhân dân của nhà
nước, làm gia tăng bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ tầm quan trọng của vấn đề nhân dân
có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật và làm đúng chính sách
của Chính phủ làm trịn phận sự mà nhân dân giao phó. Sự tác động tương hỗ
này làm gia tăng bản chất nhân dân của nhà nước trong thực tiễn, đồng thời
tăng cường trách nhiệm chính trị là chủ và làm chủ của nhân dân, ngăn ngừa
việc xem nhẹ luật pháp và coi thường cơ quan đại diện quyền lực là chính
quyền. Nhưng cũng thấy rằng, phương thức đó chỉ được duy trì khi chính
quyền tỏ rõ năng lực của mình trong thực hiện nhiệm vụ trong thực hiện
nhiệm vụ vì lợi ích của nhân dân, trong xây dựng và phát triển nền dân chủ
của đất nước. Ngược lại, khi nhân dân có quyền đơn đốc, phê bình chính phủ
nhưng khơng giúp đỡ, đơn đốc, hoặc thờ ơ chính trị hoặc khơng thực tế thừa
nhận đại diện lợi ích của mình nữa, thậm chí cịn đối lập, thì vấn đề tồn tại
của chính quyền đã được quyết định.
Chính mối quan hệ đặc biệt giữa chính quyền - nhân dân được xác định
rất rõ ràng như vậy đã làm rõ bản chất chính trị của nền dân chủ ở nước ta
trong xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Nhân dân có quyền bầu ra đại biểu của mình, đồng thời có quyền bãi
miễn những đại biểu đó. Đây là biểu hiện quyền lực tối cao của nhân dân.

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H., 2000, t. 7, tr. 368.
20


Quyền lực đó được khẳng định trong thực tiễn, làm cho Quốc hội nước ta
xứng đáng là cơ quan đại diện quyền lực cao nhất của tồn dân. Hồ Chí Minh
nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân nếu những đại biểu ấy khơng xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân
dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu
của mình’1.
Thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á - một kiểu
nhà nước hoàn toàn mới, chưa từng có trong lịch sử dân tộc và cũng chưa có
mơ hình trên thế giới lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy ngay sự khó
khăn trong xây dựng nhà nước dân chủ mới từ một nước thuộc địa, nửa phong
kiến nghèo nàn, lạc hậu, với đa số cư dân ở trong tình trạng mù chữ, lại thiếu
một truyền thống dân chủ theo quan niệm hiện đại. Chính vì vậy, ngay khi
thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân ở nước ta, Người nói rõ: “Chúng ta đều
chưa quen kỷ luật hành chính… Chắc chắn rằng chúng ta sẽ phạm khuyết
điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm sửa chữa khuyết
điểm”. Do đó, cùng với sự nhấn mạnh nhiệm vụ giúp đỡ, kiểm sốt, phê bình
của nhân dân đối với chính quyền, Hồ Chí Minh cũng rất chú ý lãnh đạo hoàn
thiện các điều kiện để khơng ngừng nâng cao chất lượng thực hiện vai trị làm
chủ của nhân dân đối với Nhà nước, để phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt
chính trị của tồn dân.
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ và phát huy dân chủ, phát
triển dân chủ là một quy luật phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa; nó phản
ánh nhu cầu tự hồn thiện và là phương thức của q trình tự hồn thiện của nhà
nước xã hội chủ nghĩa.

Dân chủ và phát huy dân chủ, phát triển quyền dân chủ là để phát huy
tính tích cực và sáng tạo của chủ thể nhân dân nhằm thực hiện có hiệu quả các
mục tiêu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là một
điều kiện quan trọng để tiến tới giải quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hố, xã hội… trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước nhà.
Mặt khác, đó cũng là mục tiêu thường trực và lâu dài mà nhân dân ta hướng
tới. Chính vì vậy, vấn đề phát huy dân chủ, phát triển quyền dân chủ và sinh
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.9, tr. 591.
21


hoạt chính trị của nhân dân cịn có ý nghĩa quyết định trong việc tập hợp và
phát huy mọi tiềm lực của nhân dân để tiến hành thành công sự nghiệp xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong chính trị là xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân có nhiệm vụ thực hiện và phát triển nền dân chủ,
tạo ra những điều kiện bảo đảm quyền lực của nhân dân đối với cơ quan và
viên chức nhà nước, mặt khác nó thực hiện chun chính với kẻ thù của dân
chủ.
Nhà nước có đủ phẩm chất, năng lực
Trong quan niệm về chức trách và nhiệm vụ của nhà nước dân chủ, Hồ
Chí Minh ln nhấn mạnh tới vị trí “cơng bộc”, “đầy tớ” để nói rõ tính chất
mới của nhà nước dân chủ ở nước ta. Một nhà nước như vậy phải là một nhà
nước liêm khiết, trong sạch, một nhà nước với đội ngũ cán bộ lấy cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư để tu thân. Đây là vấn đề Hồ Chí Minh quan tâm
sớm nhất và là điều Người rất chú ý, lo lắng ngay từ khi thành lập Nhà nước
dân chủ ở nước ta.
Tháng 10 năm 1945, trong thư gửi các Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh,

huyện và làng, Người viết: “Các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc cho
đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho
dân chứ, không phải để đè đầu cưỡi cổ dân như thời kỳ dưới sự thống trị của
Pháp, Nhật”1. Người chỉ ra những lỗi lầm về tư cách như trái phép, cậy thế,
hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo và vạch ra những tệ nạn như tham ơ, quan
liêu, lãng phí và cho đó là kẻ thù của nhân dân, của cán bộ, nó nằm trong tổ
chức ta để làm hỏng công việc của ta. Hồ Chí Minh khẳng định rằng “chống
tham ơ, lãng phí, quan liêu là dân chủ” và để chữa những bệnh như “giặc nội
xâm” đó, phương thuốc khơng có gì khác hơn là thực hành dân chủ. Người
khẳng định, muốn chống tham ơ, lãng phí, chống quan liêu thì phải dân chủ”.
Người luôn đặt ra yêu cầu cán bộ những nhiệm vụ và cơng tác thiết thực
nhất, khơng viển vơng, hình thức, thể hiện rõ nhiệm vụ của Chính phủ và cán
bộ chăm lo đến đời sống của nhân dân. Đồng thời, Người cũng rất coi trọng
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H., 2000, t. 4, tr. 56.
22


việc xây dựng đội ngũ cơng chức và địi hỏi “công chức Việt Nam cần phải
đem hết sức lực và tâm trí theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi
ích của nhân dân mà làm việc”1.
Việc ra sắc lệnh về thi tuyển công chức làm cho đội ngũ cán bộ nhà nước
vừa “hồng” vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu sự phát triển của nền dân chủ là
tư tưởng hết sức sáng suốt của Hồ Chí Minh trong xây dựng chế độ dân chủ ở
nước ta.
Nâng cao năng lực của các cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân và
các cán bộ được uỷ quyền là chiều thuận trong việc phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Mặt khác, để thực hiện dân chủ và phát huy quyền là chủ của
nhân dân, Hồ Chí Minh địi hỏi phải loại trừ những kẻ quan liêu, thoái hoá,

những kẻ miệng nói dân chủ nhưng làm việc theo lối quan chủ. Người chỉ rõ:
“Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị
nào, làm nghề nghiệp gì”2. Đây là một nhiệm vụ căn bản trong nội dung xây
dựng nhà nước dân chủ có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức theo tư tưởng
Hồ Chí Minh. Vấn đề mà Hồ Chí Minh đã cảnh báo trước đây nửa thế kỷ vẫn
còn nguyên ý nghĩa: ngày nay, bệnh quan liêu, tham nhũng đã biến thành một
nguy cơ đe doạ sự tồn tại của chế độ và cuộc đấu tranh này đã được Đảng ta
xác định thành một cuộc chiến để bảo toàn chế độ.
Nghiên cứu tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh trong lĩnh vực chính trị thơng
qua những luận điểm về tổ chức, xây dựng Nhà nước dân chủ ở nước ta,
chúng ta thấy rõ sự sáng tạo của Người khi vận dụng các thành quả của nhân
loại trong tổ chức nhà nước dân chủ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hồ
Chí Minh đã kết hợp thành cơng các phạm trù không phải luôn đồng nhất: dân
tộc - giai cấp, dân chủ - chuyên chính, chế độ dân chủ nhân dân và chủ nghĩa
xã hội trong xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân. Sự sáng tạo đó góp phần
vào việc khai phá con đường mới cho các dân tộc sau khi thoát khỏi chế độ
thực dân, giành được độc lập, đưa dân tộc tiến lên theo con đường xã hội chủ
nghĩa.
1.2.3. Xây dựng Đảng và các tổ chức chính trị xã hội vững mạnh,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
1
2

Sắc lệnh số 188 năm 1948 và Sắc lệnh số 76 năm 1950.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H,2000, t. 5, tr. 641.
23


Đặc điểm nổi bật nhất của dân chủ trên lĩnh vực chính trị ở nước ta là
sự lãnh đạo của một đảng đối với toàn bộ đời sống của xã hội và Đảng là

một bộ phận trọng yếu trong hệ thống chính trị bảo đảm thực hiện nền dân
chủ của đất nước. Do vậy, vấn đề Hồ Chí Minh quan tâm nhất là vấn đề xây
dựng Đảng thật trong sạch, vững mạnh, có đủ phẩm chất và năng lực của
người lãnh đạo nền dân chủ ở nước ta. Phẩm chất năng lực đó phải được
nhân dân thừa nhận trên thực tế và nó ngày càng trở nên quan trọng trước sự
phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự phát triển dân chủ của
nhân loại.
Cùng với việc tuân thủ nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới vấn đề dân chủ trong xây dựng đội ngũ lãnh
đạo chế độ dân chủ ở nước ta. Người cho rằng, Đảng phải chú ý thực hành
dân chủ rộng rãi, Đảng phải thực sự mở rộng dân chủ để tất các đảng viên
bày tỏ hết ý kiến của mình. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh cho thấy, chỉ có
một đảng, trong nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt, tôn trọng dân chủ và thực
hành dân chủ trong mọi hoạt động thực tiễn mới có đủ điều kiện lãnh đạo và
phát triển một nền dân chủ thực sự. Đảng phải là tấm gương thực hành dân
chủ.
Hiểu rõ nhiệm vụ của một đảng lãnh đạo chế độ dân chủ, Hồ Chí Minh
luôn chú trọng tới vấn đề tư cách, phẩm chất của đảng viên và cán bộ của
Đảng. Từ vấn đề tư cách của người cách mạng trong Đường cách mệnh
(1927) đến tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947) và Đạo đức cách mạng
(năm 1960), cùng như hàng trăm bài viết khác của Hồ Chí Minh về vấn đề
này chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của Người tới việc rèn luyện phẩm chất,
đạo đức cho đảng viên của Đảng. Những vấn đề đó thể hiện trước hết ở
những yêu cầu của Người đối với đảng viên, cán bộ: đạo đức cách mạng; sự
trung thành với Đảng; năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện chủ trương
đường lối của Đảng; có mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, chống quan liêu,
tham ơ, lãng phí… Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng phải luôn chú ý tăng cường
mối quan hệ giữa Đảng với dân, học hỏi, vận động nhân dân, đồng thời phải
có trách nhiệm nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, phải xứng đáng là

người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

24


Cùng với sự chú trọng nâng cao phẩm chất và năng lực của Đảng, Hồ
Chí Minh cịn quan tâm đến việc xây dựng các tổ chức chính trị, xã hội khác
của nhân dân và coi đó là những lực lượng xây dựng và thúc đẩy sự phát triển
của nền dân chủ. Người coi các tổ chức đó của nhân dân là bộ phận cấu thành
trong cơ chế hoạt động của nền dân chủ mới ở nước ta, là bộ phận hợp thành
của hệ thống chính trị. Người rất quan tâm và đánh giá cao việc xây dựng và
phát triển các tổ chức như Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ, Công đồn… Điều
đó được thể hiện qua quan điểm của Người trong việc phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trong quản lý và xây dựng đất nước.
Đồng thời với việc xây dựng các yếu tố trong hệ thống chính trị dân
chủ, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trước hết và về thực chất là tôn trọng
con người, phát huy sức mạnh sáng tạo và tiềm lực của toàn dân trong hiện
thực, đưa nhân dân từ vị trí thụ động sang vị trí chủ động tham gia vào các
sinh hoạt của đất nước, là chủ và làm chủ tiến trình xây dựng và phát triển
đất nước. Do vậy, có một hệ thống chính trị với cơ chế hoạt động dân chủ,
nhưng để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thì phát huy quyền làm chủ
của nhân dân để “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết
dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”1 là vấn đề cực kỳ quan
trọng và có ý nghĩa nhất.
Để dân biết hưởng, biết dùng quyền, dám nói, dám là là biến dân chủ từ
sự ghi nhận trong Hiến pháp thành hiện thực đời sống. Làm được như vậy là
sự thành công trong dân chủ hố đời sống chính trị của một đất nước, nó biểu
thị trong thực tế trình độ dân chủ của xã hội và dân chủ của nhân dân. Quan
điểm đó của Hồ Chí Minh chỉ ra sự phát triển mối quan hệ tương hỗ giữa nhà

nước dân chủ với nhân dân, trong đó nhân dân chủ động và tích cực thực hiện
được vai trị đơn đốc, giúp đỡ, kiểm sốt và phê bình Chính phủ trong sự hiểu
biết và sử dụng quyền chính đáng của mình được pháp luật quy định. Do vậy,
Nhà nước dân chủ phải có nhiệm vụ tạo điều kiện để dân biết hưởng, biết
dùng quyền dân chủ của mình trong quản lý và xây dựng nước nhà.

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, t.2, tr. 223.
25


×