Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Nguồn gốc hình thành tư tưởng quân sự hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.58 KB, 45 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là sự phát triển lý luận
quân sự của Chủ nghĩa Mác- Lênin, kế thừa và phát triển lên
trình độ mới, truyền thống “cả nước chung sức đánh giặc”, tiếp
thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa quân sự thế giới, kết hợp
với kinh nghiệm của Đảng và của nhân dân ta trong quá trình
đấu tranh giành chính quyền và chiến tranh cách mạng. Đó là
bước phát triển cao về chất trong tri thức quân sự Việt Nam.
“Đó chính là lí luận qn sự hiện đại của nhân dân ta, lí luận
quân sự của thời đại giai cấp công nhân Việt Nam đang nắm
quyền lãnh đạo cách mạng được diễn ra bằng ngôn ngữ dân
tộc, khoa học và đại chúng, rất dễ hiểu đối với quần chúng nhân
dân”. Đây là tư tưởng quân sự Việt Nam, là học thuyết quân sự
Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, được Chủ tịch Hồ Chí Minh suy
nghĩ sâu, cặn kẽ, ln ln phát triển trong q trình áp dụng
vào thực tế trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
Chính vì lí do trên mà em chọn đề tài:
Nguồn gốc hình thành tư tưởng qn sự Hồ Chí
Minh
Làm tiểu luận kết thúc Học phần Tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Tiểu luận nghiên cứu nguồn gốc hình thành tư tưởng qn
sự Hồ Chí Minh.

1


3. Lịch sử nghiên cứu đề tài.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là phạm vi rộng đã được rất


nhiều nhà nghiên cứu, nhà lãnh đạo đặc biệt là các nhà quân
sự tài ba của Việt nam cũng như của Thế giới quan tâm nghiên
cứu đặc biệt là vấn đề nguồn gốc hình thành tư tưởng này của
Người. Như tác phẩm Sự nghiệp quân sự của Hồ Chí Minh do
NXB Quân đội nhân dân xuất bản năm 2002, Giáo trình tư
tưởng Hồ Chí Minh do Hội đồng biên soạn Trung ương soạn, Tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh do Thượng tướng Trần Văn Trà viết
được xuất bản năm 2004...
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Tiểu luận nghiên cứu nguồn gốc hình thành tư tưởng qn
sự Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Tiểu luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng: phân
tích - tổng hợp; phương pháp so sánh và phương pháp logíc lịch sử.
6. Đóng góp của đề tài.
Sau khi có sự bổ sung, đóng góp ý kiến của các thầy cô
giáo trong khoa, của các bạn sinh viên, tiểu luận có thể dùng
làm tài liệu tham khảo cho bạn đọc quan tâm nghiên cứu vấn
đề này.
7. Kết cấu của đề tài.
Nội dung tiểu luận gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận.
Trong đó phần nội dung có 2 phần:
I. Cơ sở lý luận
II. Cơ sở thực tiễn
2


PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.


1. Khái niệm
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành tư
tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm hệ thống lý luận về bạo lực cách
mạng, khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng, về xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phịng tồn
dân và về nghệ thuật quân sự. Đó là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kế thừa,
phát triển di sản tư tưởng quân sự phong phú của dân tộc và
tiếp thu những giá trị tinh hoa tư tưởng của nhân loại nhằm thực
hiện những mục đích, nhiệm vụ chính trị trong của đại mới.

3


Tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh khơng tách rời tư tưởng
chính trị mà xuất phát từ tư tưởng chính trị, gắn bó chặt chẽ với
tư tưởng chính trị, phục vụ cho những nhiệm vụ chính trị, nhằm
thực hiện những mục tiêu chính trị, bao qt nhất là giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng
con người.
Tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển
trên cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng. Đó là sự tiếp thu, vận
dụng và phát triển sáng tạo tinh hoa truyền thống quân sự và
nghệ thuật quân sự của dân tộc Việt Nam, của nhân loại vào
điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam; trong đó, những tư
tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng bạo lực, về khởi
nghĩa, về chiến tranh, về xây dựng quân đội kiểu mới của giai
cấp vô sản… là nguồn gốc và cơ sở lý luận chủ yếu, giữ vai trò
quyết định phương hướng phát triển, bản chất cách mạng và
khoa học của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh cịn được hình thành và
phát triển trên cơ sở kế thừa, phát triển di sản tư tưởng quân sự
rất phong phú của dân tộc ta được đúc kết qua hàng ngàn năm
dựng nước và giữ nước, đấu tranh với mọi loại kẻ thù xâm lược
trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh cịn được bắt nguồn và
phát triển trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa
tư tưởng quân sự cổ kim của phương Đông và phương Tây, kinh
nghiệm đấu tranh của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập, tự
do và tiến bộ.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh cịn được hình thành và
phát triển từ thực tiễn đất nước, con người Việt Nam, thực tiễn
4


đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, kiên cường và tinh thần
độc lập tự chủ, tự lực, tự cường đầy sáng tạo của cả dân tộc ta
từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là thực tiễn hai cuộc
chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh khơng chỉ thể hiện trong
các bài nói, bài viết của Người về quân sự, mà còn được thể
hiện trong thực tiễn hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo khởi nghĩa vũ
trang, chiến tranh cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang
trong đường lối, chủ trương, kháng chiến của Đảng và Nhà nước
ta do Người đứng đầu. Tư tưởng ấy đã trở thành cốt lõi của nghệ
thuật quân sự Việt Nam, của tư tưởng quân sự Việt Nam hiện
đại.
2. Học thuyết quân sự Mác –Lênin.
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp

nhận truyền thống quân sự của dân tộc, sớm thấy được sự hạn
chế trong con đường cứu nước của các vị yêu nước tiền bối như
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hồng Hoa Thám. Trên nền
tảng ban đầu đó, khi đến với chủ nghĩa Mác – LêNin, tiếp thu chủ
nghĩa Mác – Lênin để xác định con đường giải phóng dân tộc
đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại, Người đồng thời tiếp
thu học thuyết quân sự Mác – Lênin để giải quyết các vấn đề
quân sự của cách mạng Việt Nam.
Việc Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, với học thuyết
quân sự Mác – Lênin tìm thấy ở đó "cái cần thiết" cho con
đường giải phóng dân tộc Việt Nam là bước quyết định trong
quá trình hình thành của tư tưởng chính trị, tư tưởng qn sự
5


Hồ Chí Minh. Trong q trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí
Minh trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết quân
sự Mác – Lênin. Đó là sự trung thành thể hiện bản chất cách
mạng và khoa học, chứ khơng phải trung thành một cách giáo
điều máy móc. Chính Người đã nói rằng : học tập Mác – Lênin,
trước hết phải nắm cái cốt lõi nhất, nắm "linh hồn sống" tức là
học tập "lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác
Lênin" để áp dụng, giải quyết tốt những vấn đề của cách mạng
nước ta.
Xuất phát từ quan điểm đó, trong lĩnh vực quân sự, Người
tiếp thu học thuyết quân sự Mác – Lênin và vận dụng phù hợp
với đặc điểm và điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Người đã tiếp thu tư tưởng cách mạng và khoa học triệt để
của chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết quân sự Mác – Lênin, vận
dụng tư tưởng cách mạng và khoa học đó vào việc xác định mục

tiêu cách mạng Việt Nam, từ đó khẳng định mục tiêu khởi nghĩa
vũ trang, chiến tranh cách mạng, lý tưởng chiến đấu của lực
lượng vũ trang là độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Khi còn hoạt động ở nước ngồi, Hồ Chí Minh đã nghiên
cứu sâu chủ nghĩa Mác – Lênin. Do hiểu sâu chủ nghĩa Mác
Lênin, nên trong bản Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa do
Người khởi thảo (7-1921), Người viết : "Vận dụng cơng thức của
Các Mác, chúng tơi xin nói với anh em rằng, cơng cuộc giải
phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản
thân anh em". Trong các bài giảng cho các lớp đào tạo cán bộ
đầu tiên của cách mạng Việt Nam tổ chức ở Quảng Châu (Trung
Quốc) vào những năm 1924-1926, Người đã giới thiệu vắn tắt,
nhung rất rõ ràng sự nghiệp của vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp
6


vơ sản và nhân dân lao động tồn thế giới rằng : "Ông Các Mác
là nhà kinh tế học, cách mệnh. Ông ấy nghiên cứu rõ ràng tư
bản chủ nghĩa, đế quốc chủ nghĩa, giai cấp đấu tranh...v.v... ở
đâu mà sinh ra, lịch sử của nó thế nào, hiện tượng của nó thế
nào và kết quả của nó sẽ ra thế nào". Về bối cảnh ra đời của tác
phẩm bất hủ Tuyên ngôn Đảng Cộng sản và tư tưởng vĩ đại của
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, Người viết : "Năm 1840, thợ
thuyền Đức lập ra một hội tên là Nhân quyền hội. Khẩu hiệu của
hội ấy là : "Trong thế giới ai cũng là anh em". Khẩu hiệu ấy tuy
hay, nhưng khơng đúng vì bọn tư bản đế quốc chủ nghĩa và
phản cách mệnh là thù địch dân, gọi chúng là anh em sao được
? Năm 1847, hội ấy sửa lại gọi là : "Tồn thế giới vơ sản giai cấp
liên hiệp hội". Ông Mã Khắc Tư và Ăngghen vào hội ấy. Nhờ hai
ơng ấy sửa chương trình lại và khẩu hiệu của hội là : "Đạp đổ tư

bản chủ nghĩa - thợ thuyền giành lấy chính quyền – làm cho thế
giới đại đồng".
Tư tưởng bao trùm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - khẳng
định sứ mệnh lịch sử của giai cấp và chính đảng tiên phong của
giai cấp cơng nhân trong việc đập tan chế độ bóc lột, xây dựng
chế độ cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp, văn minh, thực sự đem lại
hạnh phúc cho mọi người - được Hồ Chí Minh diễn đạt bằng
cơng thức dễ hiểu : "Đạp đổ tư bản chủ nghĩa - thợ thuyền giành
chính quyền – làm cho thế giới đại đồng" phản ánh sự am hiểu
sâu sắc chủ nghĩa Mác của Người. Người còn khẳng định : "Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin".

7


Được tư tưởng cách mạng và khoa học của giai cấp cơng
nhân quốc tế soi sáng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu cách
mạng Việt Nam. Tư tưởng bao trùm tác phẩm Đường cách
mệnh (1927), Chính cương vắn tắt và các văn kiện khác do
Người soạn thảo là thực hiện ở Việt Nam một cuộc cách mạng
"đến nơi", đi từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa
xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Mục
tiêu cách mạng đó cũng là mục tiêu của khởi nghĩa vũ trang và
chiến tranh cách mạng, gắn cứu nước với cứu dân, giải phóng
Tổ quốc và xây dựng chế độ mới tốt đẹp, thực sự đem lại cuộc
sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Từ việc khẳng
định mục tiêu cách mạng, khi thành lập lực lượng vũ trang,
nòng cốt là quân đội nhân dân, Người khẳng định mục tiêu

chiến đấu là thực hiện mục tiêu cách mạng do Đảng xác định.
Đó là bước nhảy vọt về chất lý tưởng chiến đấu, vì rằng trong
lịch sử dân tộc, lực lượng vũ trang đã cùng nhân dân đánh
thắng nhiều kẻ thù to lớn, để bảo vệ Tổ quốc, nhưng chưa bao
giờ có mục tiêu giải phóng con người và vì hạnh phúc thực sự
của nhân dân. Vì vậy, việc Người tiếp thu và vận dụng tư tưởng
cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân quốc tế mà các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đúc kết trong Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản để xác định mục tiêu cách mạng Việt Nam, từ đó
khẳng định mục tiêu khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách
mạng và lý tưởng chiến đấu của quân đội là điểm quan trọng
nhất mà Người đã tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin,
học thuyết quân sự Mác – Lênin.

8


Người vận dụng "phương pháp làm việc biện chứng" của
học thuyết quân sự Mác – Lênin để giải quyết các vấn đề thuộc
về lĩnh vực quân sự cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh từng nói : "Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là
phương pháp làm việc biện chứng". Người đã nắm "chìa khóa
vàng" đó, tức phép biện chứng duy vật Mác – Lênin để giải
quyết các vấn đề trong lĩnh vực quân sự. Những nguyên lý và
phép biện chứng trong triết học quân sự Mác – Lênin là "cẩm
nang" giúp Người giải quyết vấn đề trung tâm là chuyển hóa
tương quan lực lượng ta - địch trong khởi nghĩa và chiến tranh,
thực hiện thành công trong thực tiễn lời chỉ dẫn của
Ph.Ăngghen về một dân tộc nhỏ, để chiến thắng một dân tộc to,
một quân đội chủ yếu đương đầu thắng lợi với một quân đội

mạnh để giành độc lập dân tộc thì nhất thiết khơng được giới
hạn trong những phương thức tiến hành chiến tranh thông
thường, mà phải khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách
mạng, các đội du kích mọc lên ở khắp nơi.
Phép biện chứng trong triết học quân sự Mác – Lênin giúp
Người xác định chính xác phương hướng xây dựng lực lượng vũ
trang ở một nước thuộc địa bị tước vũ trang lâu ngày; định ra
trọng điểm, trọng tâm mỗi thời kỳ và đề ra các phương pháp cụ
thể để thực hiện. Vấn đề mấu chốt trong xây dựng lực lượng vũ
trang là phải xây dựng lực lượng chính trị trước, trên cơ sở đó
mà xây dựng lực lượng vũ trang với quy mơ thích hợp với
phong trào cách mạng; đi từ thấp lên cao, khi cách mạng có
bước nhảy vọt thì lực lượng vũ trang đồng thời cũng được xây
dựng, phát triển tương ứng; dựa vào dân để phát triển nguồn
9


lực, trang bị vũ khí; được dân tin, dân phục, dân yêu và giúp
đỡ, thấy hết các nhân tố đó là chìa khóa của mọi thắng lợi.
Phép biện chứng trong triết học Mác – Lênin còn giúp Người
nhận thức quy luật vận động và phát triển trong đấu tranh vũ
trang. Năm 1951, tại Đại hội Đảng lần thứ II, khi cuộc chiến
tranh cách mạng chống thực dân Pháp xâm lược bước sang
giai đoạn mới, Người đã nói : "Có người cho rằng ta kháng
chiến chống Pháp như châu chấu đá voi. Chỉ nhìn về vật chất,
chỉ nhìn về hiện trạng, chỉ lấy con mắt hẹp hịi mà xem thì như
thế thật. Vì để chống máy bay và đại bác của địch, lúc đó ta
phải dùng gậy tầm vơng. Nhưng Đảng ta theo chủ nghĩa Mác –
Lênin, chúng ta không những nhìn vào hiện tại, mà lại nhìn vào
tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của

quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời
những người lừng chừng và bi quan kia rằng :
Nay tuy châu chấu đá voi
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra.
Sự thật đã chứng tỏ rằng "voi" thực dân đã bắt đầu lòi
ruột, mà bộ đội ta đã trưởng thành như con hổ oai hùng. Dù lúc
đầu lực lượng địch mạnh như vậy, sức ta yếu như vậy, mà ta vẫn
gan góc kháng chiến, vẫn tranh được nhiều thắng lợi, và tin
chắc ta sẽ tranh được thắng lợi cuối cùng. Đó là vì ta có chính
nghĩa, vì qn ta dũng cảm, dân ta đồn kết quật cường, vì ta
được nhân dân Pháp và phe dân chủ thế giới ủng hộ. Mà cũng
chính vì chiến lược ta đúng".
Đây là sự phân tích khoa học, biện chứng tương quan lực
lượng ta - địch trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
10


xâm lược. Sự phân tích đó thể hiện rõ quan điểm duy vật lịch sử
và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin trong tư tưởng
quân sự Hồ Chí Minh.
Người tiếp thu và vận dụng nhiều nguyên lý trong học
thuyết quân sự Mác Lênin.
Sau khi khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa
cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ cho giai cấp công nhân
con đường đúng đắn để tự giải phóng là con đường cách mạng
bạo lực. Khẩu hiệu chiến đấu mà hai ông đưa ra từ những năm
năm mươi của thế kỷ XIX là "vũ trang cho giai cấp công nhân".
Vận dụng và phát triển luận điểm "vũ trang cho giai cấp công
nhân" của C.Mác và Ph. Ăngghen, trong điều kiện mới của lịch

sử, VI.Lênin đã nêu lên sự cần thiết phải xây dựng quân đội
thường trực kiểu mới của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn
đề mới mẻ cả về lý luận thực tiễn. Mặc dù vậy, với năng lực sáng
tạo phi thường, VI.Lênin đã giải quyết thành công một loạt vấn
đề then chốt về xây dựng Hồng quân như xác định bản chất
cách mạng, chức năng nhiệm vụ của Hồng quân, đề ra các
nguyên tắc xây dựng Hồng quân về chính trị, quân sự và các
mặt xây dựng về vật chất, kỹ thuật. VI.Lênin coi công tác đảng,
công tác chính trị là một trong những cơ sở khơng gì lay chuyển
được của việc xây dựng Hồng quân, là phương thức quan trọng
nhất để thực hiện đường lối chính sách của Đảng, đảm bảo giành
thắng lợi trong xây dựng quân đội kiểu mới của học thuyết quân
sự Mác – Lênin. Người đặc biệt quan tâm vấn đề mấu chốt, tức
nguyên lý xây dựng và không ngừng bồi dưỡng bản chất giai

11


cấp công nhân; thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp toàn diện quân đội. Nắm vững nguyên lý đó, nên Người
chú trọng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, coi trọng công tác
giáo dục tư tưởng vô sản, coi đó là biện pháp chủ yếu để tăng
cường bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang. Có thời điểm
cách mạng đứng trước tình thế hiểm nghèo, Đảng ta đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương nhường cho các đảng phái
khác một số ghế trong quốc hội và chính phủ, nhưng quyền lãnh
đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang là tuyệt đối, không san
sẻ cho bất kỳ ai. Đó là sự quán triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo
quân đội trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện mà V.I. Lênin đã nhấn
mạnh.

Đối với nguyên lý về khởi nghĩa vũ trang trong học thuyết
quân sự Mác – Lênin, Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc và vận dụng một
cách tài tình, sáng tạo. Ngay trong những năm 1924-1926,
Người đã nghiên cứu sâu sắc vấn đề này. Điều mà Người đặc biệt
lưu ý là kết luận của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin về bạo lực là
quy luật phổ biến của cách mạng và nó có thể diễn ra bằng khởi
nghĩa vũ trang, bằng chiến tranh cách mạng hoặc kết hợp giữa
các hình thức đó; lưu ý đến những quy tắc và nghệ thuật khởi
nghĩa được trình bày trong các tác phẩm dưới dạng khái quát
sâu sắc. Người còn quan tâm tìm hiểu nhiều bài học về khởi
nghĩa vũ trang ở nước Nga năm 1917 do Lênin trực tiếp tổ chức
và lãnh đạo. Chính vì vậy, trong bài giảng cho học viên Việt
Nam tại lớp huấn luyện chính ở Quảng Châu (Trung Quốc) hồi
đó, Người đã viết : "Cuối tháng 10, đâu cũng có tổ chức cả rồi. Ai
cũng muốn khởi sự. Nhưng ông Lênin bảo : Khoan đã ! Chờ ít
12


bữa nữa, cho ai ai cũng phản đối chính phủ, lúc ấy sẽ khởi sự.
Đến ngày 5 tháng 11 , chính phủ khai hội để ban bố phép luật
mới, mà phép luật ấy thì có lợi cho tư bản mà hại cho cơng
nơng. Ơng Lênin nói với các đảng viên rằng : Mồng 6 khởi sự thì
sớm quá, vì dân chưa biết hết luật lệ xấu ấy, mà chưa biết luật lệ
ấy thì chưa ghét chính phủ lắm. Mồng 8 khởi sự thì muộn q vì
khi ấy chính phủ đã biết rằng dân ốn và đã phịng bị nghiêm
ngặt rồi. Quả nhiên, ngày 7, Đảng Cộng sản hạ lệnh cách mạng
thì thợ thuyền ào đến vây chính phủ, dân cày ào đến đuổi địa
chủ. Chính phủ phái lính ra dẹp, thì lính theo thợ thuyền mà trở
lại đánh chính phủ. Từ bữa ấy, chính phủ hoạt đầu bỏ chạy, Đảng
cộng sản cầm quyền, tổ chức ra chính phủ cơng nơng binh".

Qua đoạn văn đó, Người giảng cho học viên hiểu rõ vấn đề thời
cơ trong khởi nghĩa. Về sau, khi cùng với Đảng trực tiếp lãnh đạo
toàn dân chuẩn bị và thực hành khởi nghĩa vũ trang trong Cách
mạng Tháng Tám, Người đặc biệt lưu ý đến hai vấn đề then chốt :
Vấn đề chuẩn bị lực lượng cách mạng bao gồm lực lượng chính
trị, lực lượng quân sự và vấn đề thời cơ. Sự sáng tạo của Hồ Chí
Minh và của Đảng ta trên vấn đề này là ở chỗ : vừa tuân thủ
những nguyên tắc trong khởi nghĩa vũ trang như các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã dạy, vừa đề ra những nội dung mới
như khởi nghĩa ở Việt Nam là khởi nghĩa dân tộc, hình thái khởi
nghĩa là khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân trong phạm vi cả nước. Đóng góp
đó của Hồ Chí Minh và Đảng ta đã làm phong phú thêm học
thuyết quân sự Mác – Lênin.

13


Tiếp thu và vận dụng lý luận của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng
việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chiến tranh và hịa
bình, giữa chiến tranh và chính trị. Người giương cao ngọn cờ
hịa bình, nhưng khi ta càng nhân nhượng, kẻ thù càng lấn tới
với dã tâm xâm lược nước ta, thì khơng cịn con đường nào
khác, Người kêu gọi toàn dân kiên quyết đứng lên, thực hành
kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài.
Người khẳng định : Đảng lãnh đạo chiến tranh cách mạng
và cuộc chiến tranh đó là của dân, do dân, vì dân, với mục tiêu
chính trị là độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, hạnh phúc cho
nhân dân, đi lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định vai trò của

Đảng trong việc vạch ra đường lối chiến lược, phát động quần
chúng tham gia kháng chiến, củng cố hậu phương, nâng cao
trạng thái chính trị - tinh thần của nhân dân và quân đội. Người
chủ trương kháng chiến trên tất cả các mặt : quân sự, chính trị,
kinh tế, văn hóa, ngoại giao, trong đó "quân sự là việc chủ chốt
trong kháng chiến". Người coi thời gian là lực lượng, chủ trương
kháng chiến trường kỳ, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thực
hiện càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng thắng; kết hợp
chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; kết hợp đánh lớn,
đánh vừa và đánh nhỏ; kết hợp các vùng chiến lược, sức mạnh
của tiền tuyến và của hậu phương, sức mạnh của dân tộc và sức
mạnh của thời đại. Quán triệt tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin về
tiến công cách mạng. Người chủ trương "kiên quyết không
ngừng thế tiến công", liên tục tiến công, đánh lui địch lui địch

14


từng bước, đánh đổ địch từng bộ phận, chủ động kết thúc chiến
tranh, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Như vậy, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết quân
sự Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nội dung phù
hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam.Cái chủ yếu nhất mà
Người tiếp thu là tư tưởng cách mạng và khoa học kết tinh
trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản và phép biện chứng duy
vật. Bên cạnh đó, Người cịn tiếp thu và vận dụng sáng tạo
nhiều nguyên lý cơ bản trong học thuyết quân sự Mác – Lênin,
nổi bật là bản chất giai cấp công nhân của quân đội kiểu mới;
tình thế cách mạng, thời cơ khởi nghĩa; mục tiêu chính trị của
chiến tranh, phát huy ưu thế của chế độ mới và nhân tố quyết

định của con người trong chiến tranh cách mạng; Chính vì vậy,
học thuyết quân sự Mác – Lênin là nguồn gốc chủ yếu nhất hình
thành tư tưởng qn sự Hồ Chí Minh, đảm bảo cho tư tưởng
quân sự của Người có sự nhảy vọt về chất. Điều đó phản ánh
sâu sắc trong việc xác định mục tiêu chính trị của khởi nghĩa vũ
trang, chiến tranh cách mạng và mục tiêu chiến đấu của quân
đội. Đó là : độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, vì cơm
no, áo ấm, vì hạnh phúc thực sự của nhân dân.
3. Truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ học thuyết
qn sự Mác – Lênin, đồng thời tư tưởng đó của Người cịn có
nguồn gốc từ truyền thống qn sự đặc sắc của dân tộc. Truyền
thống quân sự Việt Nam vốn được hình thành và hun đúc qua
hàng nghìn năm lịch sử, trong đó có quá nửa thời gian, con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã phải cầm súng chiến đấu
15


chống lại những kẻ thù xâm lược thường lớn hơn nhiều lần về
kinh tế và quân sự. Điều kiện lịch sử phải lấy yếu chống mạnh để
bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, đã tạo nên trường
phái quân sự Việt Nam với hệ tư tưởng quân sự và nghệ thuật
quân sự đặc sắc.
Hồ Chí Minh khi nhận thức sâu sắc giá trị to lớn di sản
quân sự của dân tộc, đã khẳng định rằng, chúng ta còn có nền
qn sự q giá của ơng cha. Viết về truyền thống quân sự của
dân tộc, Người nêu rõ : "Chúng ta có quyền tự hào về những
trang sử vẻ vang của thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo,
Lê Lợi, Quang Trung, vv... Chúng ta phải ghi nhớ cơng lao của
các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân

tộc anh hùng". Người còn nêu những tấm gương cụ thể : "Người
già như ông Lý Thường Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn đánh đông, dẹp
bắc, bao nhiêu lần đuổi giặc cứu dân. Thiếu niên như Đổng Thiên
Vương chưa đến 10 tuổi mà đã ra tay cứu nước, cứu nòi. Trần
Quốc Toản mới 15, 16 tuổi đã giúp ông Trần Hưng Đạo đánh phá
giặc Nguyên".
Hiểu và nắm vững sâu sắc truyền thống quân sự của dân
tộc, nên trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh vừa
tiếp thu học thuyết quân sự Mác – Lênin, vừa kế thừa và phát
triển truyền thống quân sự của dân tộc lên một trình độ mới,
phù hợp với đặc điểm của thời đại chống chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Những nội dung mà Người kế thừa truyền thống quân sự
quý giá của ông cha không chỉ phản ánh trong các tác phẩm,
văn kiện do Người soạn thảo mà còn phản ánh sâu sắc trong quá

16


trình chỉ đạo thực tiễn chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa vũ trang,
chiến tranh cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ
quân.
Người kế thừa và phát triển truyền thống quân sự của dân
tộc về vũ trang toàn dân, cả nước cùng đánh giặc trên cơ sở
chăm lo xây dựng nền tảng xã hội bền vững, dựa vào dân, lấy
dân làm gốc.
Vũ trang toàn dân, cả nước cùng đánh giặc là đặc điểm nổi
bật và xuyên suốt, từ cuộc kháng chiến chống quân Tần xâm
lược thế kỷ III (trước công nguyên) cho đến thời hiện đại trong
lịch sử Việt Nam, tạo nên nét đặc sắc đó là do nhiều nhân tố.

Trước hết, các cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc ta
là chính nghĩa, nhân dân ta có lịng u nước nồng nàn. Tiếp
đó các vị anh hùng dân tộc, các nhà lãnh đạo quốc gia trong
các thời kỳ lịch sử đã biết quy tụ sức mạnh toàn dân trên cơ sở
chăm lo cho sự bền vững xã hội, biết dựa vào dân, lấy dân làm
gốc. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng có những trường hợp, do chỉ
dựa vào vũ khí, khơng quy tụ được sức mạnh tồn dân để đánh
giặc nên kháng chiến khơng thành cơng.
Từ kinh nghiệm lịch sử đấu tranh giữ nước hàng ngàn năm
của dân tộc kết hợp với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú,
các vị anh hùng dân tộc, tiêu biểu là Trần Quốc Tuấn và Nguyễn
Trãi, đã đúc kết thành những nguyên lý giữ nước. Thứ nhất, phải
tăng cường khối đồn kết "Vua tơi đồng lịng, anh em hịa thuận,
nước nhà chung sức" (Trần Quốc Tuấn). Thứ hai, phải dựa vào
dân, lấy dân làm gốc, rời dân nhất định thất bại. Muốn thế "phải
khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc" (Trần Quốc Tuấn);

17


phải "yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng nơi thôn cùng xóm
vắng khơng có tiếng ốn hận sầu than" (Nguyễn Trãi).
Thực tế lịch sử cho thấy, nhiều triều đại đã thực hiện một
số chính sách tiến bộ, phù hợp lịng dân, chăm lo bồi dưỡng sức
dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân bằng
nhiều biện pháp, trước hết là tạo điều kiện cho kinh tế nông
nghiệp phát triển. Ngồi ra, cịn phải kể đến chính sách xã hội,
nhiều triều đại đã quá quan tâm đến lợi ích của tầng lớp nhân
dân, nhất là tầng lớp lao động nghèo, vì đó là lực lượng nịng
cốt trong việc xây dựng lực lượng vũ trang cũng như trong các

cuộc kháng chiến chống xâm lược. Đặc biệt, chế độ "ngụ binh ư
nông" (binh gửi trong nông) được áp dụng từ thời Lý, Trần, Lên,
là một phương thức kết hợp kinh tế với quốc phịng. Phương
thức đó vừa đảm bảo tập trung lao động cho nơng nghiệp, duy
trì một lực lượng qn đội thường trực cần thiết trong thời bình,
vừa có thể huy động tối đa trai tráng, nhân lực khi có chiến
tranh. Khi cuộc kháng chiến chống xâm lược sắp nổ ra, giới
lãnh đạo quốc gia đã biết phát huy cao độ nhân tố chính trị tinh thần của tồn dân, toàn quân chuẩn bị bước vào kháng
chiến với một ý chí quyết chiến quyết thắng. Hội nghị lịch sử
Diên Hồng đã phản ánh rõ ràng điều đó.
Trên nền tảng xã hội bền vững, ổn định, quyền lợi của
người dân được quan tâm, tinh thần yêu nước của người dân
được phát huy, ai cũng hăng hái thực hiện các chủ trương của
nhà nước và tham gia các tổ chức vũ trang. Vì vậy "nhân dân
ai cũng là binh". Khi cuộc kháng chiến chống xâm lược nổ ra,

18


đáp lời kêu gọi của triều đình, nhân dân cả nước nhất tề cùng
đứng lên đánh giặc cứu nước, cứu nhà.
Truyền thống đó được Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và
phát triển trong điều kiện mới của lịch sử. Ngay trong thời kỳ
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Người đã kêu gọi tồn dân đồn
kết, đồng lịng hành động cứu nước, cứu nhà. Trong một bức
thư "Kính cáo đồng bào" (6-6-1941), Người đã viết : "Đồng bào
ta quyết nối gót người xưa, phấn đấu hy sinh đặng phá tan
xiềng xích". Người nhắc nhở : "Dân ta xin nhớ chữ đồng. Đồng
tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh". Về sau nhấn mạnh vấn
đề đoàn kết, Người khẳng định : "Đoàn kết, đồn kết, đại đồn

kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng". Người giải
thích : "Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết" khơng phải là một
điệp từ nhấn mạnh, mà mỗi từ có nội dung riêng. Đó là đồn kết
trong Đảng, đồn kết tồn Đảng, giữ gìn sự đồn kết trong Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Đó là đoàn kết toàn dân,
đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đó
là đồn kết quốc tế, trước hết là đồn kết giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động trên toàn thế giới. Quan điểm đoàn kết của
Người là sự kế thừa và phát triển quan điểm đoàn kết của người
xưa theo ba tầng, nấc : vua tôi – anh em - cả nước lên một
trình độ mới.
Nhấn mạnh vấn đề đồn kết tồn dân, dân tộc, quốc tế,
trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng, Người hết sức chăm lo
đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân về mọi mặt.
Ham muốn tột bậc của Người là nước ta "hoàn toàn độc lập, dân
ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
19


được học hành". Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh ác liệt, Người
vẫn hết sức chăm lo đến đời sống nhân dân. Trước sự đóng góp
to lớn của nhân dân về sức người, sức của cho kháng chiến,
Người đã lưu ý : "Nói giành thắng lợi quân sự nhưng phải chú ý
đến giữ sức dân, người của kiệt thì quân không đánh được".
Trong Di chúc, theo gương người xưa "khoan thư sức dân",
Người dặn sau ngày kháng chiến thắng lợi, miễn thuế nông
nghiệp một năm để đồng bào nông dân hể hả, mát dạ, mát lòng,
thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất.
Tiếp nối truyền thống tổ tiên, Người coi trọng yếu tố chính
trị tinh thần, chuẩn bị cho tồn dân bước vào kháng chiến với

"tín tâm và quyết tâm" cao. Hội nghị chính trị đặc biệt (1964)
là một cuộc Hội nghị Diên Hồng trong thế kỷ XX nhằm phát huy
cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của toàn dân, toàn
quân, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
Thực tế lịch sử hai cuộc kháng chiến cho thấy tinh thần yêu
nước của mọi người Việt Nam được phát huy cao độ, nhân dân
tự nguyện đứng vào hàng ngũ chiến đấu. Đó là điều kiện đảm
bảo để quan điểm vũ trang toàn dân được thực hiện, khởi nghĩa
vũ trang sâu đậm tính chất tồn dân, nhân dân cả nước cùng
đứng lên đánh giặc cứu nước, cứu nhà, tạo nên thế trận chiến
tranh nhân dân nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước.
Người kế thừa truyền thống , cách đánh giặc độc đáo của
dân tộc. Trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm đấu tranh vũ trang lâu
dài của chính dân tộc mình và đúc kết "binh pháp mọi nhà", tổ
tiên ta đã có cách đánh giặc vơ cùng sáng tạo, phù hợp với
điều kiện một dân tộc đất không rộng, người không đông phải
20


đương đầu với những đạo quân xâm lược mạnh. Nét độc đáo
trong truyền thống đánh giặc của dân tộc ta là luôn giành chủ
động trong chiến tranh, buộc địch đánh theo sở trường của ta,
không để địch phát huy sở trường của chúng; có khi thực hành
những trận quyết chiến chiến lược, nhưng cũng có trường hợp
vừa đánh vừa đàm, vây khốn quân địch, buộc chúng phải xin
hàng, rút quân về nước. Trong quá trình tiến hành chiến tranh,
tổ tiên ta đã có cách đánh độc đáo, sáng tạo; lấy ít địch nhiều,
mưu cao, kế hiểm; đánh bại địch từng bước, cuối cùng đánh bại
ý chí xâm lược của đối phương, giành thắng lợi trong chiến
tranh, giữ gìn được nền độc lập dân tộc. Kế thừa truyền thống

đánh giặc độc đáo của tổ tiên, suốt quá trình lãnh đạo khởi
nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, Hồ Chí Minh cùng
với Trung ương Đảng luôn chủ động chuẩn bị lực lượng và điều
kiện, tạo ra và đón lấy thời cơ trong khởi nghĩa vũ trang, trong
chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Tiến hành hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người cùng Trung ương
Đảng hoạch định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện,
trường kỳ; sáng suốt lãnh đạo toàn dân, toàn quân đánh địch
theo cách đánh của ta, hạn chế ưu thế vũ khí của quân xâm
lược; thực hành chiến tranh nhân dân rộng rãi, kết hợp chiến
tranh du kích với chiến tranh chính quy; vừa đánh địch vừa bồi
dưỡng sức ta, khoét sâu chỗ yếu chí tử của quân xâm lược là
tiến hành chiến tranh phi nghĩa. Trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp, sau thắng lợi to lớn, toàn diện của quân dân ta
trên khắp các chiến trường, Người cùng với Trung ương Đảng
quyết định mở chiến dịch quyết chiến chiến lược ở Điện Biên
21


trên miền Tây Bắc, đánh bại ý chí xâm lược của đối phương, giải
phóng miền Bắc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, sau
nhiều chiến dịch thắng lợi to lớn của quân và dân ta, do kẻ thù
của dân tộc là một siêu cường trong thế giới tư bản, nên Người
và Trung ương Đảng chủ trương "chống rèm cho nó ra", thực
hiện vừa đánh vừa đàm. Quán triệt tư tưởng quân sự của Người,
khi Mỹ buộc phải rút quân, phát huy ưu thế, thế trận của chiến
tranh nhân dân, Đảng lãnh đạo toàn dân đánh cho "ngụy nhào"
bằng một chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí Minh, giải phóng
hồn toàn đất nước, thống nhất Tổ quốc thân yêu.
Người kế thừa và phát triển truyền thống xây dựng quân

đội "cốt tinh", mấu chốt rèn luyện là đội ngũ cán bộ giỏi.
Nét đặc sắc trong truyền thống dân tộc về xây dựng quân
đội là coi trọng yếu tố chất lượng "quân quý ở tinh nhuệ". Theo
phương châm đó, quân đội Đại Việt trong nhiều triều đại tuy
không đông lắm về số lượng nhưng đặc biệt tinh nhuệ, thiện
chiến, đã đánh bại nhiều quân đội xâm lược như quân Tống thời
Lý, quân Mông – Nguyên thời Trần, quân Minh thời Lê Sơ, quân
Thanh thời Tây Sơn, vv....
Để xây dựng quân đội mạnh, dân tộc ta đặc biệt quân tâm
giải quyết hai khâu then chốt. Thứ nhất, tuyển chọn và rèn
luyện đội ngũ tướng lĩnh có năng lực chỉ huy, tài trí, trung
thành, quân sĩ thiện chiến. Thứ hai, giáo dục sự đoàn kết nhất
trí chung sức chung lịng của tướng sĩ để có được "đội qn một
lịng như cha con". Cả hai khâu then chốt đó, khơng những
được tổ tiên ta đề cập trong binh pháp mà còn được vận dụng

22


nhuần nhuyễn trong thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang
trong các thời kỳ lịch sử.
Binh thư yếu lược nhấn mạnh : "Binh lấy tướng làm gốc,
quân lấy tướng làm chủ". Do đội ngũ tướng lĩnh có vai trị như
vậy, nên cũng theo Binh thư yếu lược, người làm tướng nhất
thiết phải đủ năm phẩm chất khơng thể thiếu. Đó là : Dũng, Trí,
Nhân, Tín, Trung. Có dũng thì khơng ai xâm phạm được. Có trí
thì khơng có gì làm rối. Có nhân thì u dân, u qn. Có tín
thì khơng lừa dối. Có trung thì khơng hai lịng". Đề cập đến
phạm vi hiểu biết của người tướng, Binh thư yếu lược viết :
"Hình gia và danh gia khơng cần kiêm làm binh gia, mà binh

gia thì phải kiêm hình gia và danh gia, âm dương gia thì khơng
cần kiêm làm binh gia, mà binh gia thì phải kiêm âm dương
gia". Điều đó có nghĩa là người tướng phải có kiến thức toàn
diện; ngoài kiến thức quân sự, phải hiểu biết sâu sắc chính trị
và pháp luật (hình gia), phải có tư duy triết học (danh gia) và
hiểu biết thấu đáo các mối quan hệ trong trời đất, thiên nhiên,
xã hội (âm dương gia). Có hiểu biết rộng như vậy, người làm
tướng mới có thể truyền dạy và chỉ huy quân sĩ đánh thắng
giặc.
Kế thừa và phát triển truyền thống quân sự của dân tộc,
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng qn đội có chất lượng cao,
vững mạnh tồn diện. Cũng như tổ tiên ngày trước, Người coi
trọng vai trò của đội ngũ cán bộ. Người chỉ rõ : Muôn việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Cán bộ là "cái
gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là cơng việc
gốc của Đảng". Người nhấn mạnh : Vệ quốc quân, dân quân du
23


kích phải ln ln phát triển cái đạo đức Trí, Dũng, Liêm, Trung
của Giải phóng quân. Nói chuyện tại Hội nghị quân sự lần thứ
năm (8-1948), Người khẳng định lại một lần nữa : "Trong quân
đội, nhiệm vụ của người tướng là phải : Trí, Dũng, Nhân, Tín,
Liêm, Trung". Cần nhấn mạnh rằng, trong hoàn cảnh phải chống
những kẻ thù lớn mạnh, để biểu thị ý chí quyết chiến, tổ tiên ta
đã đặt chữ "Dũng" lên đầu. Trong điều kiện mới của lịch sử, để
giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống những đạo quân
xâm lược có trang bị vũ khí, kỹ thuật quân sự hiện đại của chủ
nghĩa đế quốc, thì vấn đề đặt ra khơng chỉ quyết chiến mà quan
trọng là biết thắng. Vì vậy, trong trật tự các phẩm chất của người

tướng, Hồ Chí Minh đặt chữ "Trí" lên hàng đầu. Hơn nữa, trong
nội dung mỗi phẩm chất, Người còn đưa vào nhiều điểm mới.
Theo Người, nếu thiếu một trong sáu điều "Trí, Dũng, Nhân, Tín,
Liêm, Trung" tức là một khuyết điểm to và ảnh hưởng đến công
tác. Đồng thời, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ phải cố
gắng học tập. Người chỉ rõ : sự học hỏi là vô cùng, người cán bộ
phải "học tập về mọi mặt : chính trị và quân sự... Học chính
cương, chính sách rồi thì phải thực hiện". Cho nên người cán bộ
quân sự " phải học tư tưởng chiến lược, chiến thuật, học cách
dạy bộ đội đánh giặc, học phương pháp chỉ huy chiến đấu. Tóm
lại, là học để nâng cao trình độ của người chỉ huy".
Người cịn dặn : "Cán bộ phải thương yêu đội viên. Đối với
anh em ốm yếu, thương tật, cán bộ phải trông nom thăm hỏi.
Người đội trưởng, người chính trị viên phải là người anh, người
chị, người bạn của đội viên. Cán bộ có thân với đội viên như
chân tay, thì người đội viên mới thân với cán bộ như ruột thịt".
24


Theo Người, cán bộ phải đồng cam cộng khổ với chiến sĩ, có
như vậy sẽ thơng cảm, hiểu biết nhau hơn. Do đó, khi cán bộ
dẫn đội viên đi đâu, dù nguy hiểm mấy, học cũng vui lòng đi,
khi bảo họ đánh, họ sẽ hăng hái đánh. Đó cũng là điều mà Binh
thư yếu lược nhắc người làm tướng phải hết sức chăm lo đến
quân sĩ, nếu "trong quân có người ốm, tướng phải thân hành
đem thuốc đến điều trị", cịn nữa "tướng súy coi qn sĩ như cỏ
rác, thì quân sĩ coi tướng súy như cừu thù, cần họ làm bộ hạ
cũng khó, cịn mong gì họ gắng liều chết để đánh địch nữa".
4. Tinh hoa quân sự thế giới.
Trong q trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh ln

có phương pháp khoa học trong việc nghiên cứu qn sự từ
nhiều ngọn nguồn khác nhau, khảo sát kinh nghiệm xây dựng
lực lượng vũ trang của nhiều nước, qua đó, chắt lọc những nội
dung tích cực và phù hợp để phục vụ cho mục đích xây dựng
lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang của dân tộc mình.
Thật ra, ngay từ khi còn nhỏ, Người đã tiếp nhận nền học vấn
Nho học. Tuổi thiếu niên, Người tiếp cận với những yếu tố văn
hóa phương Tây qua trường học Việt – Pháp. Nguồn gốc văn
hóa phương Tây tác động tới Người, trước hết là tư tưởng "tự
do, bình đẳng, bác ái" mà giai cấp tư sản thời đang lên đã nêu
cao để tập hợp lực lượng nhằm lật đổ chế độ phong kiến. Đây đã
là một trong những nguyên nhân thúc đẩy Người đi Pháp năm
1911.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đi khắp các
châu lục, sinh sống và hoạt động tại những trung tâm văn minh
đương thời ở phương Tây. Tại Pari, thủ đơ nước Cộng hịa Pháp,
25


×