A - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Bác Hồ, Người là tình u thiết tha nhất trong lịng dân và trong trái
tim nhân loại”. Có lẽ trên thế giới này trong thế kỷ XX hiếm có một vĩ nhân
nào lại giành được sự yêu mến của nhân dân các nước nhiều như vậy. Nhân
dân Việt Nam gọi Người là Bác Hồ một cách thân thương, còn nhân dân thế
giới gọi người là Hồ Chí Minh với lịng kính trọng và ngưỡng mộ sâu sắc.
Sở dĩ có được điều kỳ diệu ấy là vì ở Người toả ra một nền văn hoá của
tương lai - một nền văn hoá được tạo nên từ sự kết hợp hài hoà giữa tinh
hoa văn hố phương Đơng và tinh hoa văn hố phương Tây. Ở Người ta
thấy được cốt cách nhân nghĩa, thâm trầm sâu sắc của người Á Đông trong
một phong thái dân chủ, hiện đại của văn minh phương Tây. Vì vậy mà Hồ
Chí Minh vừa cao lớn lồng lộng như một thánh nhân nhưng lại cũng rất đỗi
thân quen gần gũi như một người cha người anh.
Là những người học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất
phát từ lịng u mến, kính trọng của mình chúng tơi chọn đề tài: “Chủ tịch
Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa và phát triển tinh hoa văn hoá phương
Tây” làm đề tài nghiên cứu của mình. Tiểu luận này hy vọng sẽ là một tài
liệu tham khảo có ích cho những người làm cơng tác nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung và những sinh viên khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh Học viện Báo chí & Tun truyền nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đề cập
đến nguồn gốc tinh hoa văn hoá phương Tây đối với việc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh nhưng hầu hết nó chỉ được trình bày ở dạng là một
phần nhỏ trong cơng trình chứ chưa phải là một cơng trình độc lập. Do đó
mà chưa mang tính hệ thống và hoàn chỉnh, cụ thể là:
1) Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con
đường
cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG, H.1997.
Trong chương II “Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh” tác giả đã giành
hai trang để nói về ảnh hưởng của tinh hoa văn hố phương Tây. Tác giả đã
đề cập đến: Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của đại cách mạng Pháp
năm 1789 và Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776, mà chưa đề cập đến
Thiên chúa giáo, Văn hoá Phục hưng, Thế kỷ Ánh sáng…
2) Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình Quốc gia các
bộ mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng
Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, H.2000.
Ở phần nguồn gốc tư tưởng và văn hố phương Tây các tác giả đã
trình bày sơ lược về nền văn hoá dân chủ tư sản và các cuộc cách mạng tư
sản phương Tây.
3) Phân viện Hà Nội, khoa Lịch sử Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh,
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Tập bài giảng), Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2003.
Trong cuốn Giáo trình này, phần “Tinh hoa văn hố phương Tây chỉ
được nhắc đến trong mục “Tinh hoa văn hoá của nhân loại”.
4) Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
CTQG, H.2005.
Giáo trình này cũng có nhắc đến một cách rất ngắn ngọn những tinh
hoa văn hoá phương Tây mà Bác đã tiếp thu, kế thừa và phát triển.
Tóm lại là vấn đề Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa và phát triển tinh
hoa văn hoá phương Tây là một vấn đề chưa được nghiên cứu sâu và cần
được tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những giá trị tinh hoa văn hố
phương Tây có ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh và việc tiếp thu, kế thừa và
phát triển những giá trị đó của Hồ Chí Minh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày một cách có hệ thống những giá trị tốt đẹp của văn hoá
phương Tây mà Bác đã kế thừa, tiếp thu và phát triển, đồng thời chỉ rõ sự
tiếp thu ấy thể hiện cụ thể như thế nào? Qua đó thấy được vai trị, giá trị của
tinh hoa văn hố phương Tây đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có hai
chương:
Chương 1: Tinh hoa văn hố phương Tây
Chương 2: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa và phát triển
những giá trị tinh hoa văn hoá phương Tây.
B - NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TINH HOA VĂN HOÁ PHƯƠNG TÂY
1.1. Cách mạng tư sản Mỹ và Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776
1.1.1. Cách mạng tư sản Mỹ
Đến giữa thế kỷ XVIII, thực dân Anh đã lập ra được 13 thuộc địa ở
Bắc Mỹ. Đây là một vùng đất đai phì nhiêu, có khí hậu cận nhiệt đới, có
nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú. Cộng đồng cư dân ở Bắc Mỹ được
hình thành từ 3 nguồn gốc chính là thổ dân (thường gọi là Indian hay người
da đỏ), người Âu di cư mà chủ yếu là người Anh, và người da đen từ châu
Phi bị đưa sang bán làm nơ lệ.
Chính quyền Ln Đơn coi vùng đất do dân di cư người Anh mới
khai phá là thuộc địa của mình nên đã dần dần thiết lập chế độ hành chính
thực dân, tuân theo mọi quy định và luật pháp của nước Anh. Bắc Mỹ chỉ
được coi là nơi cung cấp lương thực và nguyên liệu cho nước Anh, khơng
được phép xuất nhập cảng hàng hố của nước khác, không được sản xuất
các mặt hàng công nghiệp cạnh tranh với sản phẩm của Anh. Để độc chiếm
đất đai và thiết lập chế độ phong kiến, luật pháp Anh cấm người dân di cư
mở rộng công cuộc khai khẩn về phía Tây. Do vậy mâu thuẫn giữa cư dân
Bắc Mỹ với chế độ thực dân Anh là điều không tránh khỏi.
Sau hơn một thế kỷ cùng sống trên lãnh thổ Bắc Mỹ, các thế hệ cư
dân ở đây cùng sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ chung, cùng tạo dựng nên
mối liên hệ kinh tế khăng khít và có nhu cầu phát triển độc lập thoát khỏi sự
ràng buộc của nước Anh. Sự hồ nhập các luồng văn hố khác nhau do
người dân từ nhiều nguồn mang đến tạo một tâm lý và văn hoá riêng biệt
của cộng đồng cư dân Bắc Mỹ. Những yếu tố đó dẫn đến sự hình thành một
dân tộc mới, đòi hỏi sự phát triển riêng biệt với quốc gia độc lập của mình.
Chính quyền thực dân Anh chống lại xu hướng độc lập ở Bắc Mỹ, một mặt
tăng cường lực lượng quân sự, mặt khác đặt ra nhiều khoản thuế mới để
ngăn cản sự giao thương của Bắc Mỹ với bên ngoài. Nhân dân Bắc Mỹ kịch
liệt phản đối, vụ đổ chè ở cảng Boston tháng 12/1773 được coi là sự kiện
khởi đầu làm bùng lên ngọn lửa chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ. Tháng
4/1775, cuộc chiến tranh bùng nổ giữa các lực lượng nhân dân Bắc Mỹ
chống lại quân đội và chính quyền thực dân Anh. Hội nghị Lục địa lần thứ
2 tháng 5/1775 quyết định thành lập quân đội lục địa do Georges
Washington chỉ huy. Chiến thắng Saratoga (tháng 10/1777) và Yooctao
(tháng 10/1781) đã đem lại phần thắng cho nhân dân Bắc Mỹ. Chiến tranh
giành độc lập Bắc Mỹ đã giành thắng lợi hoàn toàn. Nhà nước Mỹ được tổ
chức theo tinh thần Hiến pháp 1787 là một quốc gia Cộng hoà liên bang.
1.1.2. Tuyên ngôn độc lập năm 1776
Trong khi chiến tranh đang lan rộng, những người lãnh đạo Bắc Mỹ
đã công bố bản “Tuyên ngôn độc lập” và long trọng tuyên bố thành lập Nhà
nước độc lập Liên bang Mỹ ngày 4/7/1776.
Bản Tuyên ngôn nêu rõ “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo
hố đã ban cho họ những quyền khơng thể tước bỏ, trong đó có quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngơn khẳng định chỉ
nhân dân mới có quyền thiết lập chính quyền cũng như huỷ bỏ chính quyền
khi nó đi ngược lại quyền lợi của quần chúng.
Trong sự thảo Tuyên ngơn có cả điều khoản thủ tiêu chế độ nơ lệ và
việc buôn bán nô lệ nhưng các chủ nô miền Nam phản đối kịch liệt, đe doạ
rút khỏi đại hội và đình chỉ tham gia chiến tranh chống Anh. Một số tư sản
miền Bắc, thương nhân và chủ tàu có lợi ích trong việc bn bán nơ lệ cũng
ra sức chống lại. Vì vậy mà cuối cùng bản Tuyên ngơn chính thức khơng hề
nhắc tới số phận của những người nô lệ da đen đang lao động khổ cực trên
các đồn điền hay trong các hầm mỏ. Chế độ nô lệ vẫn chưa bị thủ tiêu dù
tuyên ngôn khẳng định các quyền tự do và dân chủ của công dân. Mặc dù
vậy, “Tuyên ngôn độc lập” vẫn là một văn kiện lịch sử có tính chất cách
mạng và tiến bộ, lần đầu tiên chín thức cơng bố quyền con người và quyền
cơng dân, nêu cao nguyên tắc chủ quyền thuộc về nhân dân hoàn toàn trái
ngược với chế độ quân chủ chuyên chế đang thống trị châu Âu. Tuyên ngôn
tuyên bố những quyền tự do dân chủ tư sản và cộng hồ. Vì vậy nó có tiếng
vang lớn, được nhân dân thế giới hưởng ứng.
1.1.3. Ý nghĩa
Cuộc chiến tranh giành độc lập của Bắc Mỹ vừa là cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc vừa là cuộc cách mạng tư sản. Thắng lợi của nhân dân
Bắc Mỹ và việc thành lập nhà nước Liên bang Mỹ là một đóng góp quan
trọng vào lịch sử văn minh nhân loại. Nó thiết lập quốc gia mới của một dân
tộc mới hình thành trên nền tảng hồ nhập giữa các cộng đồng đã từng khai
phá miền đất mới, cùng nhau xây dựng nên một cấu trúc kinh tế và văn hố
mang sắc thái riêng biệt. Nó tun bố quyền con người và quyền công dân,
ban hành những quyền tự do dân chủ và cấu tạo mẫu hình nhà nước cộng
hoà. Tuy vậy, ngay từ ngày đầu thành lập những nguyên tắc trên đã không
được tôn trọng đầy đủ, chế độ bóc lột tàn bạo, sự đối xử bất bình đẳng và tệ
phân biệt chủng tộc đối với người da đen và thổ dân Indian vẫn là mặt trái
trong lịch sử nước Mỹ.
Cuộc chiến tranh giành độc lập của Bắc Mỹ là một tiếng chuông cảnh
tỉnh giai cấp tư sản châu Âu, góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng tư sản
Pháp bùng nổ năm 1789.
1.2. Cách mạng tư sản Pháp và Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền năm 1789
1.2.1. Cách mạng tư sản Pháp
Thế kỷ XVIII chế độ phong kiến Pháp bước vào thời kỳ suy tàn,
nguồn tài chính của nhà nước cạn kiệt, chế độ cai trị hà khắc khiến cho mâu
thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Ngay từ thế kỷ XI, xã hội Pháp đã có sự
phân chia thành 3 đẳng cấp: Tăng lữ, quý tộc, người lao động, trong đó
đẳng cấp thứ ba gồm nhiều tầng lớp: Tư sản, nông dân, thợ thủ công, công
nhân, tiểu thương… Họ là tầng lớp bị trị nhưng có sức mạnh đồn kết
chống chế độ độc quyền địi bình đẳng. Tuy nhiên các lực lượng này vì có
quyền lợi khác nhau nên khi đạt được mục đích họ dễ bị phân hố. Cuộc
khủng hoảng kinh tế năm 1788 - 1789 đã làm cho tài chính của Pháp ngày
càng thiếu hụt trầm trọng: Nơng dân mất mùa đói kém, cơng nhân thất
nghiệp sống lang thang đầu đường xó chợ, giai cấp tư sản bất mãn với chế
độ phong kiến. Đẳng cấp thứ ba nói chung rất bất bình với nhà vua và hai
đẳng cấp trên. Trải qua nhiều vụ tranh chấp, lòng bất mãn của đẳng cấp thứ
ba bùng lên, dẫn tới cuộc khởi nghĩa Pari ngày 14/7/1789. Quần chúng
xông vào phá nhà tù Baxti, sự kiện tiêu biểu cho thắng lợi của cách mạng.
Chế độ quân chủ chuyên chế bị lật đổ, chính quyền Lập hiến được thiết lập,
Lu-I XVI vẫn giữ ngôi vua nhưng quyền hạn đã bị tước bỏ.
Ngay sau đó, cách mạng Pháp vấp phải sức chống đối của thế lực
phong kiến trong nước câu kết với liên minh các cường quốc châu Âu.
Đứng trước nguy cơ cách mạng bị bóp nghẹt bởi các thế lực thù trong giặc
ngoài, nền Cộng hoà thứ nhất được tuyên bố thiết lập (tháng 9/1792) và LuI XVI bị xử tử, nước Pháp cách mạng bước vào cuộc chiến tranh chống nội
phản và ngoại xâm. Từ đây, trong đẳng cấp thứ ba lộ rõ sự phân hố giữa
các nhóm phái tư sản, đặc biệt là giữa phái Ghirôngđanh và phái
Giacôbanh. Nhờ những biện pháp kiên quyết của Robexpie - người đứng
đầu phái Giacơbanh mà chỉ trong vịng một năm, nước Pháp giành được
nhiều chiến thắng quân sự, dập tắt các ổ phản loạn trong nước, đẩy lùi giặc
ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Sau một thời gian biến động phức tạp, giai cấp tư
sản Pháp đưa Napôlêông Bônapác lên cầm quyền. 5 năm sau, ơng tun bố
lên ngơi hồng đế, thành lập Đế chế thứ nhất - chế độ độc tài quân sự.
1.2.2. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789
Sau khi chính quyền Lập hiến được thành lập, ngày 26/8/1789 Quốc
hội đã thông qua bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền. Tuyên ngôn
nêu lên một công thức nổi tiếng: “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”. Điều 1 của
Tun ngơn nói rằng: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng”,
điều đó có giá trị cho đến bây giờ. Tự do cá nhân, tự do ngơn luận, tự do tín
ngưỡng, quyền được hưởng an ninh, quyền được chống áp bức được xem là
quyền tự nhiên và tuyệt đối.
Sau “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ, đây là văn kiện lịch sử thứ hai
thừa nhận những quyền thiêng liêng của con người. Nó tấn cơng vào chế độ
quân chủ độc đoán tồn tại lâu đời trên thế giới và thiết lập chế độ dân chủ.
Mặc dù trong bản Tun ngơn cịn hạn chế nhưng đó là bản khai tử của chế
độ cũ và cương lĩnh của chế độ mới. Ảnh hưởng của nó lan rộng, tiếng vang
của nó bay xa đến phong trào đấu tranh của nhiều dân tộc. Đây là một văn
kiện quý báu không chỉ của nước Pháp mà còn là của nhân loại.
1.2.3. Ý nghĩa
Cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp năm 1789 là một cuộc cách
mạng có ý nghĩa to lớn vì đã hồn thành nhiệm vụ vinh quang của cuộc
cách mạng dân chủ tư sản. Phong trào cách mạng đã lật đổ chế độ phong
kiến chuyên chế thống trị lâu đời ở Pháp. Người nơng dân được giải phóng,
vấn đề ruộng đất được giải quyết, mở đường cho công thương nghiệp phát
triển. Kết quả của cuộc cách mạng tư sản Pháp đã mở ra một thời kỳ thắng
lợi và củng cố chủ nghĩa tư bản ở những nước tiên tiến ở châu Âu, châu
Mỹ.
Suốt quá trình cách mạng xảy ra, giai cấp tư sản đã chứng tỏ họ là
một giai cấp tiến bộ, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng, khơi dậy
được tinh thần cách mạng to lớn của quần chúng làm nên chiến thắng oanh
liệt. Cuộc cách mạng tư sản Pháp đã thức tỉnh tất cả những lực lượng dân
chủ tiến bộ đứng lên chống chế độ phong kiến. Cách mạng tư sản Pháp đã
để lại một khẩu hiệu nổi tiếng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”.
1.3. Văn hố Phục hưng
1.3.1. Lý do ra đời
Văn hoá Phục hưng là một trào lưu văn hoá mới xuất hiện ở châu Âu
từ thế kỷ XIV - XVI. Điều kiện chủ yếu dẫn đến sự ra đời của phong trào
văn hoá Phục hưng là do sự xuất hiện quan hệ tư bản chủ nghĩa, trong khi
những thành tựu về văn hoá chưa đáp ứng được nhu cầu của giai cấp tư sản
mới ra đời. Cho đến lúc bấy giờ, tư tưởng, tình cảm của con người vẫn bị
ràng buộc bởi những tư tưởng khắt khe của giáo hội Thiên chúa giáo. Do
vây, giai cấp tư sản cần phải có hệ tư tưởng và nền văn hoá riêng để phục vụ
cho đời sống tinh thần của mình, để đấu tranh với hệ tư tưởng lỗi thời của
giáo hội và của giai cấp quý tộc phong kiến đang cản trở sự phát triển của
xã hội.
Phong trào văn hoá Phục hưng đã đạt được những thành tựu rực rỡ về
mọi mặt, đặc biệt là về văn hoá nghệ thuật. Những tên tuổi tiêu biểu là:
Đantê, Sécvantéc, Sêcxpia, Lêôna đờ Vanhxi, Galilê… Họ được xem là
những “người khổng lồ” của thời đại Phục hưng.
1.3.2. Nội dung tư tưởng và ý nghĩa lịch sử
Phong trào văn hố Phục hưng tuy có tiếp thu và kế thừa một số yếu
tố trong nền văn hoá Hy Lạp và La Mã cổ đại nhưng thực chất không phải
là làm sống lại những di sản văn hoá cổ xưa mà là một phong trào văn hố
hồn tồn mới dựa trên nền tảng kinh tế xã hội mới và được chỉ đạo bởi một
hệ tư tưởng mới. Tư tưởng chủ đạo của phong trào văn hoá Phục hưng là
chủ nghĩa nhân văn. Đó là hệ tư tưởng chú trọng đến con người, chú ý đến
cuộc sống hiện tại, chủ trương cho con người được quyền hưởng mọi lạc
thú ở đời do đó nó hồn tồn đối lập với quan niệm của giáo hội Thiên chúa
chỉ sùng bái Chúa, chỉ chú ý đến cuộc sống của linh hồn sau khi chết ở
Thiên đường và đề xướng chủ nghĩa cấm dục.
Nội dung tư tưởng của phong trào văn hoá Phục hưng thể hiện ở các
mặt sau đây:
- Lên án, đả kích, châm biếm sự tàn bạo, dốt nát, giả nhân giả nghĩa
của các giáo sĩ, từ Giáo hoàng đến các tu sĩ cũng như giai cấp quý tộc
phong kiến.
- Chống lại quan niệm của giáo hội chỉ chú trọng đến thần linh và thế
giới bên kia, coi nhẹ con người, kìm hãm tư tưởng và lý trí của con người.
Các nhà nhân văn chủ nghĩa thời Phục hưng rất đề cao con người, xem con
người là vàng ngọc của vũ trụ, là “vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của mn
lồi”. Bên cạnh việc tán dương vẻ đẹp và đề cao trí tuệ, tài năng của con
người, các văn nghệ sĩ thời Phục hưng còn chú ý đến quyền tự do của con
người vì đó là “điều q báu nhất của lồi người, những kho vàng trong
lịng đất hay dưới biển khơi cũng không quý bằng”. Con người phải được
giáo dục để phát triển một cách toàn diện và phải được sống thoải mái, tận
hưởng mọi lạc thú ở đời.
- Chống lại những quan điểm phản khoa học và chủ nghĩa duy tâm.
Những phát hiện của các nhà khoa học và triết học duy vật đã giáng những
đòn mạnh mẽ vào thần học và triết học kinh viện, làm lung lay uy quyền về
tư tưởng và lý luận của giáo hội, làm cho quần chúng giảm lòng tin đối với
những giáo lý của đạo Thiên chúa giáo.
- Đề cao tinh thần dân tộc, tình yêu đối với tổ quốc và tiếng nói nước
mình.
- Phê phán tư tưởng đề cao q mức vai trị của đồng tiền, vì tiền mà
tha hố nhân cách.
Vì những nội dung này mà phong trào Phục hưng đã gặp phải sự
phản kích mạnh mẽ của chính quyền và nhà thờ. Phong trào văn hố Phục
hưng đã để lại những ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn và sâu sắc sau:
- Bằng tinh thần đấu tranh dũng cảm, các nhà văn hoá Phục hưng đã
đánh bại hệ tư tưởng lỗi thời của phong kiến và giáo hội, giải phóng tư
tưởng và tình cảm khỏi mọi sự kìm hãm và trói buộc của nhà thờ. Chủ
nghĩa nhân văn được thấm nhuần trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật và
trong đời sống xã hội.
- Phong trào văn hoá Phục hưng là một bước tiến lớn trong lịch sử
văn minh Tây Âu với những tác phẩm văn học nghệ thuật bất hủ và các
cơng trình khoa học đầy sáng tạo.
Những thành tựu của thời kỳ Phục hưng là sự đóng góp quan trọng
vào kho tàng tri thức của loài người, là những tác phẩm kinh điển cho các
thế hệ sau học tập.
1.4. Thiên chúa giáo
Thiên chúa giáo là một trong 3 tôn giáo lớn của thế giới, ra đời vào
thế kỷ I ở La Mã. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Thiên chúa giáo là
Chúa Jesus Christ, con của Chúa trời đầu thai vào người con gái đồng trinh
Maria và được sinh ra ở vùng Palestin vào khoảng năm 5 hoặc 4 trước công
nguyên.
Sự ra đời của đạo Thiên chúa chính là sự phản ứng chống lại sự bất
công và tàn bạo của xã hội nơ lệ. Trong xã hội đó, người ta mong mỏi một
tơn giáo nào đó có thể cứu vớt được những người đau khổ đang bị ngược
đãi, bị đày đoạ, bị hành hạ, đem lại cho họ tình thương và niềm hy vọng. Do
đó mà những tín đồ đầu tiên của đạo Thiên chúa là những nô lệ, nô lệ được
giải phóng, dân nghèo thành thị. Người ta dễ dàng chấp nhận đạo Thiên
chúa vì nó kêu gọi tình thương yêu cho tất cả mọi người, đàn ông, đàn bà,
con trẻ đặc biệt là những kẻ yếu và thấp hèn trong xã hội. Người ta cảm
kích thấy được tình thương của Chúa thể hiện rõ trong các câu chữ như:
“Hãy thương xót như cha các người hay thương xót”, “Hãy yêu kẻ thù
mình, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phước cho kẻ rủa mình và cầu nguyện
cho kẻ sỉ nhục mình”.
Những luật lệ của Thiên chúa giáo thể hiện ở 10 điều răn:
- Thờ phụng Chúa và kính Chúa trên hết;
- Không kêu tên Đức Chúa trời vô cớ;
- Giữ ngày Chúa Nhật;
- Thảo kính cha mẹ;
- Khơng giết người;
- Chớ tà dâm;
- Chớ trộm cắp;
- Chớ nói dối;
- Chớ muốn vợ, chồng người;
- Chớ tham của người.
Thiên chúa giáo cịn có những khái niệm về Thiên đường, địa ngục,
linh hồn bất tử, thiên thần, ma quỷ. Trước Chúa, mọi con chiên đều bình
đẳng. Giáo hội cịn chú trọng đến việc giáo dục con người. Giáo hội tổ
chức việc giảng dạy tu sĩ trong các tu viện. Thánh đường là nơi thờ phụng
cũng là nơi hội họp, giảng dạy những kiến thức thần học, âm nhạc.
Nhưng bên cạnh những ưu điểm, Thiên chúa giáo cũng có những hạn
chế. Nó cản trở sự phát triển của khoa học duy vật, kêu gọi con người phải
biết chịu đựng, nhẫn nhục: Hãy chìa má bên trái ra cho người ta tát sau khi
bị tát má bên phải. Người ta phải chịu đựng cuộc sống khốn khổ hiện tại để
được giải thoát, được lên thiên đàng - phần thưởng quý nhất.
Tư tưởng nhân ái, bao dung của Thiên chúa giáo là một đóng góp lớn
vào kho tàng tinh hoa văn hoá nhân loại, để lại ảnh hưởng đối với nhiều dân
tộc.
1.5. Trào lưu Ánh sáng
Thế kỷ XVIII từ trong đêm đen của xã hội phong kiến và thần quyền
Thiên chúa giáo, đã bừng lên ánh sáng của những tư tưởng mới, tiến bộ và
cách mạng của các nhà tư tưởng, nhà triết học, sử học. Lịch sử gọi đó là trào
lưu Ánh sáng, thế kỷ Ánh sáng. Trào lưu tư tưởng tiến bộ này kế tục tinh
thần nhân văn của thời cổ đại Hy Lạp, La Mã và thời Phục hưng. Nó chuẩn
bị cho cách mạng tư sản Pháp 1789, soi sáng cho cách mạng Pháp.
Những nhà tư tưởng và khoa học tiêu biểu của thế kỷ Ánh sáng là:
- Môngtexkiơ - là một nhà luật học hoạt động trong lĩnh vực tư pháp
rất nổi tiếng. Trong tác phẩm “Những bức thư Ba Tư”, “Khảo sát về sự lớn
mạnh và suy tàn của La Mã”, “Tinh thần luật pháp”, ông đã đưa ra nguyên
tắc tách biệt giữa ba quyền lực: Quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền
tư pháp.
- Vônte: Là một bậc thiên tài thành công trên nhiều lĩnh vực: Triết
học, văn học, sử học và vật lý học. Ông chủ trương xoá bỏ chế độ chuyên
chế nhưng vẫn giữ thể chế quân chủ đối với những vị vua sáng suốt, nếu
vua tàn bạo thì nhân dân có quyền đánh đổ. Tư tưởng của ơng có ảnh hưởng
lớn đến tinh thần cách mạng đang âm ỉ ở châu Âu.
- Rútxô: là một nhà Khai sáng vốn xuất thân từ một gia đình nghèo
khổ. Trong các tác phẩm của mình, ơng đã nói lên quyền lợi của người dân,
đặc biệt là nông dân và dân nghèo. Ông lên án chế độ phong kiến đồng thời
phê phán chế độ sở hữu tư nhân và hậu quả của nó là tình trạng bất bình
đẳng trong xã hội. Ông chủ trương thay thế chế độ tư hữu lớn bằng chế độ
tư hữu nhỏ, ai cũng có một tài sản nhất định, thiết lập chế độ cộng hồ,
người dân có quyền chính trị như nhau, được hưởng quyền tự do và bình
đẳng.
- Mêliê, Mably và Mơrenly khởi xướng chủ trương xố bỏ hồn tồn
chế độ tư hữu vì đó là nguồn gốc của nỗi khổ, thiết lập chế độ sở hữu chung
của xã hội, lao động và nghĩa vụ và quyền lợi chung của mọi người và nhà
nước sẽ thực hiện sự phân phối bình đẳng.
Ngồi ra còn phải nhắc đến Adam Smith, Ricacdo là những người đặt
nền móng cho học thuyết kinh tế chính trị tư sản ra đời và phát triển vào
thế kỷ XVIII - XIX.
Tóm lại trào lưu tư tưởng Ánh sáng tuy phát triển không đồng đều
nhưng xu hướng tiến bộ và cách mạng là chủ đạo thể hiện nhiều quan điểm
tương đồng trên nhiều vấn đề cơ bản. Các nhà tư tưởng đi tiên phong ở đây
ln đề cao lý tính, giải phóng cho con người khỏi niềm tin mù quáng,
chống triết học kinh viện, địi thay đổi chính thể, thay đổi xã hội.
1.6. Những giá trị tốt đẹp của văn hoá tư sản
Bên cạnh giá trị đề cao phẩm giá con người, đề cao “tự do, bình đẳng,
bác ái” nền văn hố tư sản còn rất nhiều giá trị tiến bộ mà chúng ta cần phải
nhìn nhận và đánh giá đúng. Đó là tư tưởng dân chủ, tính tự lập, đánh giá
con người thông qua hiệu quả của công việc chứ không phải căn cứ vào
nguồn gốc xuất thân hay bằng cấp.
Dân chủ ở đây tức là mọi người đều có quyền tự do lập đảng phái, tự
do hội họp, tự do tham gia các đảng phái, tự do ra báo. Mọi người đều có
quyền tự do ngơn luận, được nói tất cả những điều mà mình suy nghĩ. Hơn
thế nữa cơng dân có quyền cơng khai hố những tư tưởng của mình trên báo
chí, trên các phương tiện thơng tin đại chúng. Một người dân bình thường
có thể cơng kích vua hoặc tổng thống ngay trên báo chí mà khơng sợ bị tù
hay trừng phạt. Trong các tổ chức, đảng phái mọi người tranh luận rất sôi
nổi, quyết liệt để bảo vệ quan điểm của mình. Do đó mà người ta có thói
quen nói trước đám đơng một cách tự tin. Trong khi đó thì ở các quốc gia
phong kiến thì chuyện gọi tên nhà vua là một hành động khi quân cần bị
trừng phạt chứ chưa nói đến chuyện lên án, phê phán nhà vua. Con người
của xã hội tư sản cịn có tính tự lập rất cao. Thanh niên khi đến tuổi cơng
dân thì thường có xu hướng tách khỏi gia đình, sống tự lập. Có thể cuộc
sống tự lập lúc đầu sẽ có nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng đó là cách sống
của người phương Tây nói chung. Thanh niên khi đã tách khỏi sự bảo trợ
của bố mẹ thường làm đủ mọi công việc để tự nuôi sống bản thân mình.
Một số thanh niên ngay khi chưa tách khỏi bố mẹ đã có thói quen vừa học
vừa làm, một mặt là để có thu nhập, một mặt là để thử thách khả năng của
chính mình. Tính tự lập cao này chính là điều mà con người phong kiến nếu
có thì cũng ít hơn.
Ngồi ra, cịn phải kể đến việc đánh giá con người thông qua hiệu
qủa của công việc chứ không phải là căn cứ vào những yếu tố khác. Có rất
nhiều nhà khoa học nổi tiếng, được đánh giá rất cao trong khi họ không
được học hành một cách bài bản hoặc xuất thân nghèo khổ.
1.7. Tiểu kết
Như vậy, có thể khẳng định nền văn hoá phương Tây chứa đựng
nhiều giá trị tốt đẹp, có ý nghĩa lâu bền đối với nhân loại. Đó khơng chỉ là
tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” kết tinh trong cách mạng tư sản Pháp
mà còn là tư tưởng nhân ái cao cả của Thiên chúa giáo, tư tưởng đề cao giá
trị của con người xem con người là “kiểu mẫu của mn lồi” và địi hỏi
con người phải được hưởng những quyền mà họ xứng đáng của văn hoá
Phục Hưng và trào lưu Ánh sáng. Đó cịn là phong cách làm việc dân chủ
tôn trọng tự do cá nhân, đề cao tính tự lập…Những giá trị tốt đẹp đó của
văn hố phương Tây đã có ảnh hưởng rất lớn đến Bác, góp phần quan trọng
trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG 2: CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH KẾ THỪA, TIẾP THU
VÀ PHÁT TRIỂN TINH HOA VĂN HOÁ PHƯƠNG TÂY
2.1. Hồ Chí Minh đến với văn hố phương Tây như thế nào?
Hồ Chí Minh đã đến với văn hố phương Tây không phải chỉ từ năm
1911 - khi Người rời xa tổ quốc mà ngay từ thời thơ ấu ở trong nước Người
đã được tiếp xúc và bắt đầu tìm hiểu về xã hội, về văn hoá và con người
phương Tây.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu để từ đó tiếp thu, vận dụng, phát triển
văn hố phương Tây khơng phải giống như những học giả vùi đầu vào sách
vở để sao chép một cách giáo điều những thành tựu trí tuệ của người trước
mà là nghiên cứu, tìm hiểu thơng qua hoạt động thực tiễn, với tư cách là
một người yêu nước đi tìm con đường cứu nước, con đường giải phóng,
mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
2.1.1. Thời kỳ ở trong nước
Thời kỳ này, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành biết đến văn hoá phương
Tây là khoảng năm 1905 - 1906 khi Nguyễn Tất Thành cùng anh trai
Nguyễn Tất Đạt được cha gửi đi học ở trường tiểu học Vinh. Tại đây
Nguyễn Tất Thành lại chú ý đến ba từ được sơn vào gỗ, gắn ở phía bảng
đen “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, anh tìm hiểu và biết được đó là khẩu hiệu
nổi tiếng của cách mạng tư sản Pháp 1789. Đối với anh, đó là những điều
hoàn toàn mới lạ, khác hẳn với những điều mà trước nay anh đã được học
trong sách thánh hiền. Vì vậy mà rất tự nhiên anh có ý muốn “tìm hiểu
những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy”.
Năm học 1908 - 1909, Nguyễn Tất Thành vào học trường Quốc học
Huế. Chính ở ngơi trường này, Anh đã được học với những thầy giáo tân
học, được tiếp xúc với sách báo Pháp. Người thầy tiêu biểu nhất là phải
nhắc đến đó là Lê Văn Miến. Thầy đã từng học ở trường Thuộc địa, trường
Mỹ Thuật Pari. Thầy có vốn tri thức và vốn sống khá phong phú về phương
Tây. Do đó mà trong giờ học, thầy dạy vẽ thì ít mà dành nhiều thời gian để
nói chuyện với học sinh về những thành tựu dân chủ và văn minh của
phương Tây kích thích lịng ham hiểu biết của học sinh. Những điều thầy kể
là những điều rất mới lạ nên đã thu hút được sự chú ý của học sinh, làm cho
các học sinh rất tị mị, muốn được tìm hiểu, muốn được sang phương Tây.
Nguyễn Tất Thành cũng vậy, ý muốn đi sang phương Tây để tìm hiểu tình
hình các nước, học hỏi văn minh nhân loại để về giúp đồng bào ngày càng
lớn dần trong Anh.
Năm 1910 trên bước đường vào Nam, Nguyễn Tất Thành đã có một
thời gian dừng chân ở Phan Thiết, làm trợ giảng môn thể dục tại trường Dục
Thanh. Cũng trong thời gian này tại nhà cụ Nguyễn Thơng thầy giáo Thành
đã có dịp đọc những tác phẩm của Rutxô. Môngtexkiơ, Vonte…những văn
hào và triết gia Pháp đã khởi xướng các thuyết nhân quyền, dân quyền tự
do, bình đẳng, bác ái… Những tác phẩm đó được dịch sang tiếng Hán và
thầy Thành đọc những bản dịch Hán văn ấy chứ chưa phải là bằng nguyên
bản tiếng Pháp.
Tất cả những điều này càng làm cho khát vọng ra nước ngoài của anh
Thành thêm cháy bỏng. Vào tháng 6/1911 từ cảng Nhà Rồng anh Thành lên
tàu sang Pháp với một tên mới - Văn Ba và một công việc mới - bồi tàu.
2.1.2. Thời kỳ ở nước ngoài
Đặt chân tới phương Tây - một nơi hoàn toàn xa lạ, Nguyễn Tất
Thành dần được tiếp xúc với văn hoá phương tây không phải bằng con
đường nghiên cứu sách vở ngay từ đầu mà là bằng cuộc sống lao động. Anh
Nguyễn đã tranh thủ những lúc tàu dừng ở bến để đi tìm hiểu cuộc sống của
nhân dân. Chính từ thực tế cuộc sống đó mà anh đã tận mắt thấy được nền
văn hoá phương Tây mà anh muốn tìm hiểu thực sự như thế nào? Con
người sống ra sao? Đối xử với nhau như thế nào? Bước chân của anh
Nguyễn đã in dấu trên nhiều nước từ châu Âu đến châu Phi, châu Mỹ. Tất
cả những gì anh thấy đều khiến cho anh phải trăn trở suy nghĩ và dần nhận
ra đằng sau những từ ngữ mỹ miều “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” là gì.
Bên cạnh việc quan sát cuộc sống thực tế, Nguyễn Tất Thành còn
dành nhiều thời gian để học tiếng nước ngoài, đến thư viện đọc sách, tham
gia vào các Hội, các câu lạc bộ, tiếp xúc với những nhà trí thức nổi tiếng.
Anh đã đọc Sếchxpia và Đich - ken bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng
Trung Hoa, Huy Gô và Zôla bằng tiếng Pháp…
Anh tham gia các Hội “Nghệ thuật và khoa học”, Hội “Những người
bạn của nghệ thuật”, Hội “Du lịch”, Câu lạc bộ “Ngoại ô”… Chính nhờ
những hội này anh đã được đi thăm rất nhiều nơi, nhất là những nơi lưu giữ
những thành tựu của nền văn minh nhân loại như: Toà thánh Vatican, thành
phố La Mã…
Anh Nguyễn còn gặp gỡ những người cách mạng, những nghệ sĩ nổi
tiếng tại các buổi mittinh, các buổi sinh hoạt câu lạc bộ như: nhà văn Vay ăng Cu - Tuya-riê, giáo sư Mácsen Ca-sanh, nghị viên Mác Sô - nhi-ê, nữ
văn hào Côlét, Giăng Lông-ghê - cháu ngoại C.Mác, chủ báo Dân chúng…
Anh Nguyễn cịn tích cực học viết báo và viết báo một cách thành
thạo. Dần dần Anh bắt đầu hoạt động trong phong trào cách mạng Pháp,
tham gia Đảng Xã hội Pháp, sau đó là Đảng Cộng sản Pháp, rồi tham gia
hoạt động trong Quốc tế Cộng sản…
Như vậy, Hồ Chí Minh đã đến với những giá trị tốt đẹp của văn hoá
phương Tây cả bằng con đường nghiên cứu sách vở lẫn con đường hoạt
động thực tiễn sôi nổi. Những hiểu biết mà Hồ Chí Minh có được là do sự
kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa học và hành đã khiến Hồ Chí Minh
trở thành một con người vô cùng uyên bác vươn tới đỉnh cao của kiến thức
nhân loại. Đó chính là nền tảng để từ đó Hồ Chí Minh kế thừa, tiếp thu và
phát triển những giá trị tinh hoa văn hố phương Tây, hình thành tư tưởng
của mình.
2.2. Hồ Chí Minh đã kế thừa, tiếp thu và phát triển những giá trị
nào của văn hoá phương Tây.
Sự tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Tây của Hồ Chí Minh khơng
đơn giản là sao chép mà là tiếp thu có chọn lọc, có phê phán, vừa tiếp thu,
kế thừa vừa phát triển nâng cao vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh.
2.2.1. Tiếp thu và phát triển tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, tư
tưởng đề cao vai trò nhân dân của cách mạng Pháp và cách mạng Mỹ
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu hai cuộc cách mạng, tư sản Pháp và tư
sản Mỹ. Người đã nhanh chóng nhận ra được hạn chế của hai cuộc cách
mạng này, đó là tính khơng triệt để của nó. Người đã viết tác phẩm “Đường
kách mệnh” rằng:
“Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng
công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì
cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách
mệnh đến nơi. Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm đến nơi,
nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ
để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân
chúng mới hạnh phúc”.
Cịn về cách mệnh Pháp thì Người thấy rằng “Cách mệnh Pháp cũng
như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi,
tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi
thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi mà nay cơng nơng Pháp
hẵng cịn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi vịng áp bức.
Cách mệnh Việt Nam nên nhớ điều ấy”.
Hồ Chí Minh đã đánh giá cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp là
những cuộc cách mạng không đến nơi, cách mạng Việt Nam cần nhìn vào
đó để làm một cuộc cách mạng đến nơi, một cuộc cách mạng triệt để, thực
sự mang lại lợi ích cho nhân dân, tránh hy sinh nhiều lần.
Bên cạnh việc nhìn thấy điểm hạn chế của hai cuộc cách mạng đó,
Hồ Chí Minh đã tiếp thu và phát triển những tư tưởng tiến bộ của hai cuộc
cách mạng Mỹ và Pháp. Đó là tư tưởng về vai trị to lớn của nhân dân đối
với chính quyền, tư tưởng đề cao nhân dân, tư tưởng “Tự do - Bình đẳng Bác ái”. Tun ngơn của Mỹ đã viết: “Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do,
quyền giữ tính mệnh của mình, quyền làm ăn sung sướng… Hễ chính phủ
nào mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải đạp đổ chính phủ ấy đi và
gây lên chính phủ khác…”. Sự tiếp thu của Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhất
trong việc Bác đã nhắc lại hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ trong Bản
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của cách mạng Việt Nam, đồng thời còn phát
triển lên, nâng cao hơn, suy rộng ra một chân lý về sự bình đẳng của các
dân tộc:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hố cho họ
những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước
Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”.
Chân lý về quyền bình đẳng giữa các dân tộc trên thế giới là một luận
điểm mới của Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa và phát triển tư tưởng về
quyền bình đẳng của con người. Chân lý ấy chính là cơ sở pháp lý để khẳng
định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam, để các dân tộc thuộc địa
đấu tranh địi lại những gì vốn dĩ là của họ nhưng lại bị bọn thực dân xâm
lược cướp đoạt: quyền độc lập, tự do.
Hồ Chí Minh còn phát triển tư tưởng về vai trò quyết định của nhân
dân đối với sự tồn tại của một chính phủ lên thành tư tưởng nhà nước dân
chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong nhà nước dân chủ đó, mọi
quyền lực đều thuộc về nhân dân, cịn cán bộ chỉ là cơng bộc, là đầy tớ của
nhân dân, là người thay mặt cho nhân dân quản lý xã hội. Nhà nước là do
dân bầu nên, dân bảo vệ, kiểm tra giám sát. Tư tưởng về nhà nước dân chủ
đó đã được hiện thực hố bằng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà
nước dân chủ đầu tiên ở Đơng Nam Á. Hồ Chí Minh còn quan tâm đến việc
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để người dân tham gia
vào các công việc quan trọng của đất nước.
2.2.2. Tiếp thu và phát triển tinh thần nhân văn của văn hoá Phục hưng
và thế kỷ Ánh sáng
Những “người khổng lồ” của thời đại Phục hưng như Sếchxpia,
Lêôna đờ Vanhxi… và những nhà Khai sáng đều có một điểm chung là đề
cao con người, lên tiếng đòi quyền tự do cho con người, địi giải phóng con
người khỏi những sự ràng buộc, kìm hãm của chế độ phong kiến và giáo hội
Thiên chúa giáo. Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh thần nhân văn đề cao giá trị
con người, đấu tranh cho quyền sống của con người của văn hoá Phục hưng
và thế kỷ Ánh sáng. Cả cuộc đời Người, lúc nào Người cũng đau đáu một
niềm mong ước, một ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước nhà được độc
lập, dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Lịng thương u con người của Hồ Chí Minh khơng chỉ dành cho
nhân dân Việt Nam mà cịn dành cho tất cả những người đang bị áp bức, bị
nô lệ trên khắp thế gian. Bao nhiêu năm bôn ba nơi đất khách, chứng kiến
sự khổ đau của những kiếp người, Bác đã khơng ít lần rơi nước mắt. Sự
nghiệp cách mạng mà vì nó Bác đã hy sinh qn mình khơng chỉ là mang
lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam mà còn giành cho tất cả những
nước thuộc địa đang rên xiết dưới gót giày thực dân.
Hồ Chí Minh ln coi trọng nhân cách của mỗi con người. Theo Bác
chẳng có ai là hồn tồn xấu hay hồn tồn tốt mà trong mỗi con người có
cả cái thiện lẫn cái ác, cái tốt và cái xấu. Vấn đề là phải làm sao để cái thiện
thì nảy nở như hoa mùa xn cịn cái xấu thì dần bị đẩy lùi. Chính vì thế mà
Bác ln tin rằng con người “dù là tốt, xấu văn minh hay dã man đều có
tình”, đều ln có xu hướng vươn lên cái Chân - Thiện - Mỹ. Người cộng
sản phải tin nhân dân, niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người
cộng sản.
Kế thừa tư tưởng đề cao giá trị con người, Hồ Chí Minh đã phát triển
lên thành tư tưởng xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Con người xã
hội chủ nghĩa là con người có tinh thần và năng lực làm chủ, phát triển toàn
diện cả thể chất và năng lực làm chủ, phát triển tồn diện cả thể chất, trí
tuệ, vừa hồng vừa chun… Và để có những người mới đó thì cần phải
quan tâm đến giáo dục.
Ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời,
Bác đã thành lập Nha Bình dân học vụ, phát động một phong trào bình dân
học vụ rộng rãi trong cả nước để xoá nạn mù chữ, diệt giặc dốt. Theo Bác
dốt cũng là một loại giặc nguy hiểm khơng kém gì giặc ngoại xâm vì “một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Hàng năm cứ đến ngày khai giảng Người
thường viết thư gửi cho các thầy cô giáo và các em học sinh, động viên thầy
và trò dạy tốt, học tốt. Bác ln nhắc nhở “Vì lợi ích mười năm trồng cây,
vì lợi ích trăm năm trồng người”, “Học để làm việc, làm người, làm cán
bộ”. Việc học theo Bác là cả một q trình liên tục khơng ngừng nghỉ: “Việc
học khơng bao giờ cùng, cịn sống cịn phải học”. Những tư tưởng của Bác
về giáo dục cho đến ngày nay vẫn cịn có tác dụng soi đường định hướng
cho sự nghiệp đổi mới của ngành giáo dục.
2.2.3. Tiếp thu, kế thừa và phát triển lòng bác ái cao cả của Thiên chúa
giáo
Bác đã từng nói: “Tơn giáo Giêsu có ưu điểm là lịng nhân ái cao cả”
và chính trong cuộc đời của Người đã luôn thấm nhuần tư tưởng nhân ái cao
cả này.
Tình thương u của Bác ln giành cho tất cả nhân dân Việt Nam,
không phân biệt trẻ, già trai gái, người miền xuôi hay miền ngược, hễ ai là
người Việt Nam yêu nước đều có chỗ cho tấm lịng nhân ái của Bác. Tình
u thương của Bác cịn giành cho tất cả những người cùng khổ trên thế
gian; những người da đen bị đối xử phân biệt, bị hành hạ áp bức, những
người công nhân da trắng sống cơ cực bần hàn… Tình thương u của Bác
cịn giành cho cả chính người lính bị đưa đi chết oan uổng trong các cuộc
chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Bác đã viết “Than ơi, trước
lịng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay
người Việt cũng đều là người”, “Tôi vô cùng căm phẫn trước những tổn thất
và tàn phá do quân Mỹ gây ra cho nhân dân và đất nước chúng tơi, tơi cũng
rất xúc động có ngày càng nhiều thanh niên Mỹ chết vơ ích ở Việt Nam” và
“những dịng máu đó chúng tơi đều q như nhau”. Có thể nói trái tim lớn
của Bác ln đập những nhịp thương yêu vì tất cả mọi người trên thế gian.
Tình yêu thương bao la của Bác đã khiến Bác dành trọn cả đời mình cho sự
nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh ln thừa nhận và ngợi ca sự bác ái của chúa Giêsu.
Trong “Thư gửi các vị linh mục và đồng bào công giáo Việt Nam” ngày
25/12/1945 Người đã viết: “Cách một nghìn chín trăm bốn mươi nhăm năm
trước, cũng ngày hôm nay, một vị thánh nhân là đức Chúa Giêsu ra đời.
Suốt đời Ngài chỉ hi sinh phấn đấu cho tự do dân chủ. Từ ngày Ngài giáng
sinh đến nay đã gần 2000 năm, nhưng tinh thần nhân ái của Ngài chẳng
những không phai nhạt mà toả ra đã khắp, thấm vào đã sâu”.
Không những chỉ ghi nhận, kế thừa lòng nhân ái cao cả của Thiên
Chúa giáo Hồ Chí Minh cịn phát triển lên một tầm cao mới là nhân ái phải
gắn liền với hành động, phải trở thành lẽ sống, yêu thương con người thì
phải hành động để giải thoát cho con người khỏi khổ đau bất hạnh, phải diệt
trừ những gì gây ra nỗi khổ cho con người, gắn Đạo với đời. Thiên chúa
giáo yêu thương con người nhưng lại khuyên con người ta nhẫn nhục chịu
đựng khổ đau để hướng tới một sự đền bù ở một thế giới khác. Cịn Bác thì
hướng đến một sự giải thoát ngay trong hiện tại. Người kêu gọi giáo dân
“Đức Giêsu hi sinh vì muốn lồi người được hưởng tự do hạnh phúc, đồng
bào ta cả lương cả giáo cũng vì tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hi sinh
phấn đấu” “Tinh thần hy sinh phấn đấu tức là noi theo tinh thần cao thượng
của Đức chúa Giêsu”. Kế thừa tinh thần hi sinh cho lồi người của Đức
chúa Giêsu, Hồ Chí Minh đã khơi dậy, thức tỉnh, kêu gọi các giáo dân hãy
hy sinh, chiến đấu để phá tan chế độ áp bức bóc lột. Đó chính là noi gương
Đức chúa, là sự kết hợp giữa Đạo và đời sống, sống “tốt đời đẹp đạo”, “kính
Chúa u nước”. Vì tư tưởng này mà Bác ln có ý thức tơn trọng tự do tín
ngưỡng của nhân dân, đồn kết giữa đồng bào có đạo và đồng bào khơng
theo đạo. Nhờ chính sách đồn kết rộng rãi này của Bác mà trong các đoàn
quân ra trận trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc có khơng ít
chiến sĩ là giáo dân. Bên cạnh những giáo dân cuồng tín, lầm đường lạc lối
thì khơng thể không thừa nhận một điều là đa số giáo dân đều “sống theo