Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về xây DỰNG và PHÁT TRIỂN một nền văn hóa mới đối với sự NGHIỆP NÂNG CAO dân TRÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.15 KB, 17 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN MỘT NỀN VĂN HÓA GIÁO DỤC MỚI
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP NÂNG CAO DÂN TRÍ
Các tư tưởng về văn hóa giáo dục, nâng cao dân trí là một bộ phận quan
trọng hợp thành hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ khi ra đi tìm đường cứu
nước đến lúc vĩnh biệt thế giới này, Người không ngừng quan tâm toàn diện
đến trình độ học vấn cũng như nhu cầu học tập và giáo dục của nhân dân ta.
Khi ra đi tìm đường cứu nước, thầy giáo Nguyễn Tất Thành đã hiểu rõ
thực trạng văn hóa giáo dục ở nước ta trong chế độ phong kiến và dưới sự cai
trị của chủ nghĩa thực dân Pháp. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt
Nam có một truyền thống hiếu học. Trong một xã hội làm ruộng và làm vườn,
người nông dân chỉ có hai con đường tiến thân, một là làm thuê cho địa chủ
và hai là đi học để làm quan. Tuy nội dung học tập lạc hậu, song “trước hết
quan lại được tuyển lựa theo con đường dân chủ: Con đường thi cử, mở rộng
cho mọi người có thể chuẩn bị thi mà chẳng tốn kém gì”1.
Trong nền văn hóa truyền thống ở Việt Nam trước khi chủ nghĩa thực
dân Pháp đến xâm lược, người ta học trước hết là để làm người. Tư tưởng phổ
biến nhất trong mọi làng quê Việt Nam về việc học là “có dăm ba chữ để làm
người”, và sau đó mục đích học để làm thầy: thầy đồ dạy chữ, thầy thuốc
chữa bệnh, và thầy địa lý trấn an tâm linh. Khi học được nhiều chữ, thông
hiểu nhiều sách vở thì người ta đi thi để làm quan. Việc tuyển lựa nhân tài
trong chế độ phong kiến tuy có rất nhiều điều phiền hà nhưng đó là một chế
độ tự do thi cử và dân chủ trong học tập.
Nhân danh văn minh và khai hóa, chủ nghĩa thực dân Pháp đã có một
chính sách ngu dân rất tàn bạo ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rằng:
“Làm cho dân ngu để dễ trị” đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.465

1




thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”2, “Dân chúng đang đòi hỏi phải có
trường học, mà hiện nay, trường học đang thiếu một cách tệ hại. Mỗi năm cứ
đến ngày khai trường, các bậc cha mẹ dù có đi gõ cửa khắp nơi, cầu xin mọi
sự giúp đỡ, thâm chí xin nộp gấp đôi tiền ăn học mà họ cũng không gửi được
con cái đến trường. Và những đứa trẻ này có đến hàng nghìn, bị đầy vào cảnh
ngu dốt chỉ vì không có đủ trường sở cho chúng đi học”2.
Trong suốt những năm đầu tiên họat động cách mạng ở hải ngoại, có lẽ
nỗi đau lớn nhất của Nguyễn Ái Quốc là do tình cảnh dân tộc Việt Nam bị
mất nước mà nhân dân bị lâm vào cảnh dốt nát, lầm than. Nguyễn Ái Quốc
không nguôi tố cáo âm mưu và các chính sách đẩy nhân dân Đông Dương nói
chung và nhân dân Việt Nam vào vòng tăm tối. Người đã viết: “Sự thật người
Đông Dương không có một phương tiện hành động và học tập nào hết…
Rượu cồn và thuốc phiện cùng báo chí phản động của bọn cầm quyền bổ sung
cho cái công việc ngu dân của Chính phủ”3.
Trong quá trình cai trị nước ta, nhà cầm quyền thực dân Pháp có lập ra
một số trường học, không phải với mục đích khai hóa, mà để đào tạo một bộ
phận thanh niên người bản xứ làm việc cho chúng. Về vấn đề này, Nguyễn Ái
Quốc đã viết: “Trường học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên An
Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư
tưởng cho họ. Mà trái lại, càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích
giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết cho
bọn xâm lược - người ta đã reo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy
hiểm hơn cả sự dốt nát nữa. Vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng
mất tính nết của người đi học, chỉ dậy cho học một lòng “trung thực” giả dối,
chỉ dậy cho học biết sùng bái kẻ mạnh hơn mình, dậy cho thanh niên yêu một

1


Sđd, Tập 2, tr.99
Sđd, Tập 1, tr.154
3
Sđd, Tập 1, tr.27-28
2

2


tổ quốc không phải là tổ quốc của mình. Nền giáo dục ấy dậy cho thanh thiếu
niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình”1.
Từ thủa nhỏ cho đến khi trưởng thành, Chủ tịch Hồ Chí Minh được
giáo dục trong nền văn hóa Hán. Khi lên 13 tuổi, lần đầu tiên Người nghe
thấy các khái niệm tự do, bình đẳng, bác ái và Người đã muốn làm quen với
nền văn minh Pháp. Khi được tiếp xúc với nó ở Việt Nam, Người nghiệm
rằng các khái niệm này không những không được phổ biến ở Việt Nam mà
người ta còn dậy mọi người bịt tai, bịt mắt trước các biến cố tiến bộ bên
ngoài, đình chỉ đời sống tinh thần của cả một dân tộc. “Trong những trường
học cho người bản xứ, bọn Pháp dậy người như dậy con Vẹt”2.
Trước tình hình đó, vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, một mặt
Nguyễn Ái Quốc tăng cường tố cáo chính sách ngu dân của chủ nghĩa thực
dân Pháp; mặt khác Người đã tự học và vươn lên trở thành một nhà giáo dục
lớn đào tạo ra những con người yêu nước kiểu mới không được chế độ thực
dân Pháp cho phép học tập trong ghế nhà trường của chúng. Lần đầu tiên
trong lịch sử văn hóa giáo dục ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã mở trường đào
tạo nhân cách người cách mạng.
Để hình thành ban đầu tư tưởng mới, đạo đức mới, lối sống mới của
người cách mạng, những năm 1925 Người đã viết cuốn “Đường Kách mệnh”
để giáo dục một lớp người khác hẳn nhân cách của kẻ sĩ, trượng phu, quân tử
do nền giáo dục Hán học tạo ra. Và với mục tiêu giáo dục nhân cách người

cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tạo ra một lớp người khác hẳn với
những nhân sĩ, trí thức được đào tạo trong nhà trường tư sản lúc bấy giờ.
Nhân cách những người cách mạng là biết hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích
chung; có lý tưởng độc lập tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội; có đạo đức

1
2

Sđd, Tập 1, tr.399
Sđd, Tập 1, tr.477

3


cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, khoan dung và quyết đoán, dũng cảm, kỷ
luật.
Nhận thức rằng “không có lý luận cách mạng không có cách mệnh vận
động” và cũng không thể trở thành nhân cách người cách mạng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thấy cần thiết phải giáo dục lý luận cách mạng cho các đồng chí của
Người. Ngay từ năm 1935, trong một bức thư quan trọng gửi Ban phương
Đông trong Quốc tế Cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết rằng: “Tôi thấy
tuyệt đối cần thiết là chúng ta phải giúp đỡ các đồng chí của chúng ta khắc
phục khó khăn bằng cách tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp thu được những
kiến thức sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sỹ đều phải có”, “Các đồng chí của
chúng tôi rất dũng cảm và hăng hái. Các đồng chí ấy công tác rất tận tụy.
Nhưng vì thiếu kiến thức lý luận buộc các đồng chí phải mò mẫm từng bước,
luôn luôn vấp váp vì thiếu thốn như vậy”1
Đào tạo ra những con người cách mạng và từ những con người này lại
trở thành các nhà giáo dục xây dựng nền văn hóa giáo dục mới, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đặt nền móng cho một nền giáo dục cách mạng.

Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vừa thành công, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã có một chiến lược xây dựng một nền văn hóa giáo dục
cách mạng. Ngày 03/9/1945 sau lễ tuyên bố độc lập 1 ngày, trong bài “Những
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết: “Chúng ta có một nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại
nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân
tộc dũng cảm, yêu nước, một dân tộc xứng đáng với với Việt Nam độc lập”2.
Nền văn hóa giáo dục truyền thống ở Việt Nam tuyển người hiền tài
qua chế độ khoa cử, đã hạn chế bớt chế độ thế tập, cha truyền con nối, mở
rộng con đường dân chủ để mọi người tự nâng cao học vấn của mình; tuy
1
2

Sđd, Tập 3, tr.84-86
Sđd, Tập 4, tr.8

4


nhiên nội dung giáo dục của nó vẫn xa rời thực tế. Mẫu người mà nền văn
hóa, giáo dục phong kiến hướng tới là kẻ sĩ, người quân tử, bậc trượng phu;
con gái bị tước quyền học vấn, không được đến trường.
Dưới chế độ giáo dục của chủ nghĩa thực dân Pháp “chúng lập ra nhà tù
nhiều hơn trường học… chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu
dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược” 1.
Có thể nói nền văn hóa giáo dục dưới sự cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp
chủ yếu đào tạo ra một số người làm việc cho chúng. Nhà trường trong chế độ
nô lệ không phải là nơi để phát triển nhân cách con người, càng không phải là
một trường giáo dục chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa yêu nước chân chính.
Hệ thống nhà trường trong nền giáo dục phong kiến và tư sản, do chỉ

nhằm mục đích đào tạo ra những con người theo chuẩn mực của giai cấp
chúng, cho nên cả Đông Dương chỉ có vài trường đại học đào tạo các “thầy
cãi”, các quan huyện, quan phủ, các người sửa chữa cầu đường, và một số
“thầy thuốc” chữa bệnh và ít nhiều kỹ sư nông nghiệp. Còn hệ thống các
trường tiểu học, trung học rất thưa thớt.
Lần đầu tiên trong lịch sử văn hóa giáo dục ở Việt Nam, Đảng Cộng
sản Việt Nam lập một kế hoạch to lớn thay đổi lại toàn bộ hệ thống, mục tiêu
và nội dung giáo dục của các nhà trường phong kiến, tư sản để hình thành
những nhân cách mới. Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta đã
thiết lập chính quyền dân chủ nhân dân. Do cuộc cải tạo kinh tế, chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác xít mang tính cách mạng sâu rộng mà làm
nhiều giá trị xã hội truyền thống thay đổi. Đảng ta phải thực hiện một sự
nghiệp giáo dục và giáo dục lại hàng chục triệu những người nghèo khổ để có
đủ sức mạnh xây dựng xã hội mới. Nhiệm vụ khơi dậy một cuộc sống tích cực
cho hàng chục triệu nông dân nghèo khổ chưa biết chữ với các tập tục cổ xưa
lạc hậu, có thể nói là nhiệm vụ rất nặng nề.
1

Sđd, Tập 4, tr.2

5


Với một ý tưởng sâu sắc về việc nâng cao dân trí sẽ là ngọn nguồn của
những biến đổi toàn diện trong xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập
một chiến dịch chống nạn mù chữ vô cùng rộng lớn trên khắp đất nước từ
miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn. Dưới ách đô hộ của
chủ nghĩa thực dân Pháp hơn 80 năm, “thành tựu to lớn” của chúng là làm
cho hơn 90% dân số Việt Nam mù chữ. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng
“Sự ngu dốt là một trong những chỗ dựa chủ yếu của chế độ tư bản”1.

Kẻ thù đã làm yếu dân tộc ta bằng sự ngu dốt. Nhận thức đúng nguyên
nhân này, kế hoạch chống ngu dốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu ngay từ
ngày 03/9/1945, tức là sau khi nhân dân ta tuyên bố độc lập một ngày. Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy tôi đề
nghị mởi một chiến dịch để chống nạn mù chữ”2. Trong tư tưởng văn hóa giáo
dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chiến dịch chống nạn mù chữ là giai đọan
khởi đầu của quá trình nâng cao dân trí. Ý tưởng của sự nghiệp chống giặc
dốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm tiêu diệt giặc nội xâm. Muốn xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc phải tiến hành song song giữa cuộc chiến đấu chống
ngoại xâm, với cuộc chiến đấu chống nội xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
rằng “Dốt nát cũng là kẻ địch. Địch dốt nát giúp địch ngoại xâm. Địch dốt nát
tấn công ta về tinh thần, cũng như địch thực dân tấn công ta bằng vũ lực. Địch
thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát
dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù quáng”3.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nền văn hóa giáo dục cách mạng, khi
xây dựng lại hệ thống giáo dục về cả cơ cấu, mục tiêu và nội dung của nó,
đồng thời “phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch” 4. Nền giáo dục
cũ là một nền giáo dục giành cho những người có nhiều tài sản. Đó là một nền
giáo dục gắn với sách vở, ở đó có nhiều kiến thức thừa và xa thực tế. Nền văn
1

Sđd, Tập 1, tr.236
Sđd, Tập 4, tr.8
3
Sđd, Tập 5, tr.379
4
Sđd, Tập 8, tr.80
2

6



hóa giáo dục đó nhồi sọ một cách máy móc những kiến thức trong đó có
những kiến thức phản động, lạc hậu và độc hại. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói
rằng nền văn hóa giáo dục chủ nghĩa thực dân đã giáo dục “thái độ thờ ơ đối
với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy
bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ”1.
Tính chất cách mạng của nền văn hóa giáo dục mới theo quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải “Đào tạo trí thức công nông hóa. Nghĩa là công
nông cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ tri thức của mình, trí thức cần
gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm
của công nông”2.
Có thể nói đây là một quan điểm cách mạng chưa từng có trong lịch sử
văn hóa giáo dục của nhân dân ta. Trong nền văn hóa truyền thống cũng như
dưới chế độ thực dân, người trí thức được coi như những con người hoàn
thiện của xã hội, còn công nông là những người ngu dốt và ở tầng lớp dưới.
Quyết tâm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cải tạo trí thức cũ và nâng cao
trình độ tri thức của công nông là một sự nghiệp cách mạng vô cùng vĩ đại
trong nền văn hóa giáo dục ở Việt Nam.
Đây là bước chuyển đổi to lớn tạo nên bộ mặt mới của nền văn hóa
giáo dục. Từ đây hàng vạn trí thức xuất thân từ công nông sẽ ra đời và trưởng
thành. Từ đây người trí thức cũ gắn liền tri thức sách vở với thực tiễn cuộc
sống lao động và chiến đấu của nhân dân.
Để thực hiện cuộc cách mạng trong nền văn hóa giáo dục mới ở Việt
Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cải tạo lại thời gian và nội dung
giáo dục.
Cách mạng trong hệ thống nhà trường và nhà trường của chế độ mới là
nhà trường cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
1
2


Sđd, Tập 8, tr.80
Sđd, Tập 6, tr.203-204

7


nền văn hóa giáo dục cách mạng trong khi đã thiết lập lại thời gian thanh
thiếu niên ngồi trên ghế nhà trường tiểu học, trung học và đại học, đồng thời
cải cách liên tục nội dung đào tạo trong trường học. Trong hệ thống mới, quan
điểm giáo dục kỹ thuật tổng hợp được tiến hành. Ngoài việc giáo dục tri thức
khoa học, nhà trường theo tư tưởng văn hóa giáo dục Hồ Chí Minh phải giáo
dục đạo đức, giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục thẩm mỹ và giáo
dục chính trị.
Xây dựng nền văn hóa giáo dục mới ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng: Học phải gắn liền với hành và phải chú ý đặc biệt đến vấn đề
giáo dục tư tưởng chính trị trong sư phạm. Tính chất cách mạng của nền văn
hóa giáo dục mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền giáo dục đồng đều
và bình đẳng và tạo ra vác điều kiện thuận lợi cho những ai có nhu cầu và khả
năng được giáo dục sẽ được thỏa mãn nhu cầu ấy. Vì vậy nền văn hóa giáo
dục mới ở Việt Nam khi hướng tập trung vào đào tạo con em công nông và
dân tộc ít người, đồng thời mở rộng các hệ thống giáo dục nhà trường trên rất
nhiều bình diện khác nhau. Giáo dục tri thức, giáo dục nghệ thuật, giáo dục
chính trị, giáo dục nghề nghiệp chuyên sâu tạo ra một hệ thóng nhà trường
cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng nền văn hóa giáo dục
cách mạng có phép biện chứng giữa cái phổ cập và cái nâng cao.
Khi bước vào xây dựng xã hội mới, di sản mà nền văn hóa giáo dục của
chủ nghĩa thực dân phong kiến để lại hơn 90% người không biết chữ. Phần
lớn nông dân sống ở các vùng sâu, vùng xa, ở các làng quê đều không biết

đọc, biết viết, không hiểu biết được những tri thức khoa học đơn giản, phổ
thông, không có quan hệ với sự tiến bộ bên ngoài. Cả một biển người “nhà
quê” sống dưới ngọn đèn dầu, có nơi không có dầu thắp, ban đêm họ đốt lá
làm đèn hoặc lấy ánh trăng để soi sáng. Hàng chục triệu con người được cách

8


mạng giải phóng nhưng vẫn sống trong tình trạng u mê, dân trí quá thấp.
Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh phải đặt vấn đề phổ cập giáo dục
một cách cưỡng bức.
Xóa nạn mù chữ là công việc đầu tiên của phổ cập giáo dục trong chiến
lược phát triển nền văn hóa giáo dục mới ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động một phong trào lớn rộng cả nước,
tiêu diệt giặc dốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Dốt thì dại, dại thì hèn.
Vì không chịu dại, không chịu hèn cho nên thánh toán nạn mù chữ là một
trong những việc cấp bách và quan trọng của nhân dân các nước dân chủ
mới”1, “Muốn giải thoát nạn mù chữ cho số đông nhân dân mà đại đa số là
nông dân thì phong trào bình dân học vụ phải là phong trào quần chúng, phải
đi sát quần chúng, bàn bạc với quần chúng, áp dụng những hình thức, phương
pháp thích hợp với sinh hoạt của quần chúng”2
Phong trào bình dân học vụ do Hồ Chủ tịch khởi xướng được thiết chế
thành một cơ quan chỉ đạo là Nha bình dân học vụ. Dưới sự chỉ đạo của Nha
bình dân học vụ, công tác bình dân dạy học toàn dân không cần trường lớp.
Học tại nhà dân, học sau giờ lao động, học ở nơi nghỉ giải lao ngoài cánh
đồng, trong cơ quan, xưởng máy vào trên thao trường. Tất cả các lứa tuổi đều
“cắp sách đến trường”, người biết chữ nhiều dạy người biết chữ ít. Công tác
sư phạm tự lực cánh sinh, vừa lao động, vừa đánh giặc, vừa học.
Phong trào bình dân học vụ theo tư tưởng Hồ Chí Minh được dấy lên
khắp chợ cùng quê, mường bản, làng xã, thành thị. Các ngọc đèn dầu được

thắp sáng trên mọi vùng của Tổ quốc, trong các lớp học “I-tờ”. Cụ già đi học,
các cháu thiếu niên là “thầy giáo”. Không khí học tập, thi đua học tập như
một ngày hội cách mạng. Các lớp học “I-tờ” vang lên trong thôn xóm, trong
các tiền sảnh nhà thời, trong sân chùa, giữa xóm thôn…
1
2

Sđd, Tập 8, tr.64
Sđd, Tập 8, tr.205

9


Các phong trào bình dân học vụ xóa nạn mù chữ là phong trào Giáo
dục toàn dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo cập nhật. “Chính phủ đã ra
hạn trong một năm tất cả mọi người Việt Nam phải hiểu biết chữ Quốc ngữ…
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và
trước hết phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ”1.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phong trào phổ cập giáo dục là một quá
trình nâng cao trình độ dân trí, đồng thời do giáo dục là cái lõi của văn hóa
mà văn hóa ở mọi vùng đất nước được cải thiện. Đây là một phong trào vừa
rộng, vừa sâu và phải tiến hành lâu dài để duy trì và nâng cao trình độ văn hóa
chung của xã hội. Phong trào này tiến hành sâu rộng cùng với cuộc kháng
chiến chống chủ nghĩa thực dân Pháp và tiếp tục trên toàn miền Bắc sau năm
1954, khi chúng ta đã đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp, giành được thắng lợi
trên nửa đất nước.
Cùng với phong trào bình dân học vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký các
đạo luật về giáo dục trình độ văn hóa phổ thông. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói
rằng: “Về bình dân học vụ nhờ sự hy sinh cố gắng của nam nữ giáo viên đã có

kết quả rất tốt đẹp. Bây giờ, số đồng bào đã biết đọc, biết viết, thì chúng ta
phải có một chương trình để nâng cao trình độ văn hóa phổ thông của đồng
bào”2. “Từ ngày nhân dân ta nắm được chính quyền đến nay, 13 triệu nam nữ
đồng bào đã được học, đã biết chữ. Đó là một thắng lợi vẻ vang to lớn. Nhưng
chúng ta phải cố gắng nữa , phải làm thế nào cho một thời gian gần đây, tất cả
đồng bào Việt Nam, từ 8 tuổi trở lên đều biết đọc, biết viết. Ngày ấy mới hoàn
toàn thắng lợi trên mặt trận diệt giặc dốt”3. “Lúc chưa biết chữ thì học cho
biết chữ. Biết chữ rồi phải tiến lên nữa”4.
1

Sđd, Tập 4, tr.36
Sđd, Tập 5, tr.462
3
Sđd, Tập 6, tr.147
4
Sđd, Tập 8, tr.208
2

10


Trong tư tưởng văn hóa giáo dục Hồ Chí Minh, phổ cập là để nâng cao
và nâng cao để cho xã hội ngày càng văn minh tiến bộ. “Nâng cao trình độ
văn hóa của nhân dân cũng là một công việc cần thiết để xây dựng nước ta
thành một nước hòa bình thống nhất và giàu mạnh” 1, “Chúng ta phải học
nhiều, phải cố gắng học. Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được.
Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội còn đi xa. Công việc càng nhiều, máy móc
càng tinh xảo. Mình không chịu học thì lạc hậu”2.
Trong tư tưởng văn hóa giáo dục Hồ Chí Minh, do con người là một bộ
phận của xã hội, tri thức của con người có được nâng cao, xã hội mới phát

triển được. Ngược lại xã hội tiến lên lại đòi hỏi năng lực con người đáp ứng
với yêu cầu mới của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rằng: “Tình hình thế
giới và trong nước luôn luôn biến đổi, công việc của chúng ta nhiều và mới,
kỹ thuật của thế giới ngày càng tiến bộ, nhưng sự hiểu biết của chúng ta có
hạn. Muốn tiến bộ kịp với sự biến đổi vô cùng tận thì chúng ta phải nghiên
cứu học tập. Nghiên cứu học tập lý luận và kỹ thuật”3.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về các quá trình phát triển của văn hóa giáo dục
là một tư tưởng lớn và nhìn xa, trông rộng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn các
quá trình nâng cao trình độ của nền văn hóa giáo dục ở Việt Nam với thực
tiễn cách mạng ở nước ta. Đây là một quan điểm rất cơ bản của Chủ nghĩa
Mác-Lênin về vấn đề môi trường giáo dục và con người.
Lãnh đạo việc xây dựng nền văn hóa giáo dục mới ở Việt Nam, Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng tuy nhân dân ta bị chịu đựng một nền
giáo dục nghèo nàn và đồi bại trong chế độ phong kiến, thực dân, nhưng nhân
dân ta đã không chịu sự khuất phục của hoàn cảnh đó. Với thực tiễn cách
mạng, nhân dân ta đã chủ động xây dựng một nền văn hóa giáo dục mới.

1

Sđd, Tập 8, tr.282
Sđd, Tập 9, tr.554
3
Sđd, Tập 7, tr.392
2

11


Trong quá trình này, trình độ dân trí của nhân dân được nâng cao và cách
mạng cũng không ngừng tiến bộ.

Tính chất của một nền văn hóa giáo dục không phải phát triển biệt lập
với các quan hệ xã hội và mục tiêu phát triển xã hội. Trong xã hội phong kiến
và tư sản, dù nhân dân có được hưởng một quyền lợi giáo dục nào đi chăng
nữa, thì đó vẫn là nền văn hóa giáo dục phong kiến và tư sản. Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng việc nâng cao văn hóa giáo dục, việc
xây dựng một nền văn hóa giáo dục cao, phải gắn chặt chẽ với quá trình cải
tạo triệt để các quan hệ xã hội cũ, thiết lập các quan hệ xã hội mới. Chỉ có
trong quá trình ấy các nhân tố mới của nền văn hóa cao nói chung và nền văn
hóa giáo dục cao mới được hình thành. Trong diễn văn khai mạc lớp học lý
luận khóa I, trường Nguyễn Ái Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng:
“Đảng ta có nhiều nhược điểm mà một trong những nhược điểm lớn là trình
độ lý luận còn thấp… Trình độ lý luận thấp kém cho nên nhiệm vụ cách mạng
ngày càng mới và phức tạp, trong việc lãnh đạo, Đảng ta không khỏi lúng
túng… Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải tự nâng cao mình lên nữa, mà muốn tự
nâng cao mình thì phải tổ chức học tập lý luận trong toàn Đảng… Chúng ta
phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột áp bức… Chúng ta
phải biến một nước dốt nát cực khổ thành một nước văn hóa cao…”1.
Trong tư tưởng văn hóa giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn
nâng cao trình độ văn hóa giáo dục xã hội thì sự nghiệp văn hóa giáo dục phải
gắn liền quá trình cải tạo xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là tạo ra các
nhân cách toàn diện. Quá trình hình thành và phát triển nhân cách này tức
cũng là quá trình nâng cao nền văn hóa giáo dục mới ở nước ta để tạo thành
một đất nước, một dân tộc có nền văn hóa cao như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đề xuất.

1

Sđd, Tập 8, tr.492-494

12



Để xây dựng được một nền văn hóa giáo dục xã hội chủ nghĩa thấm sâu
nguyên lý phổ cập và nâng cao, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần phải tổ
chức đấu tranh chống lại mọi sự lười nhác và coi thường học tập. Xây dựng
một nền văn hóa giáo dục nhân dân, tức là xây dựng lực lượng hùng mạnh để
kiến thiết Quốc gia và bảo vệ đất nước. Với ý tưởng này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước
nhà”1.
Tư tưởng văn hóa nghệ thuật là một mặt trận đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh đề xuất từ năm 1951, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở vào
những bước ngoặt quyết định. Khi đó Người coi nghệ sỹ là chiến sỹ. Bước
vào thời kỳ đầu tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh lại coi văn hóa giáo dục là một mặt trận và “nhân sĩ, trí thức là chiến
sỹ”. Mặt trận xây dựng nền văn hóa giáo dục mới vẫn nằm trong mặt trận văn
hóa chung của dân tộc và đối tượng tiêu diệt của nó vẫn là giặc dốt.
Thế giới phát triển mạnh mẽ, giặc dốt có khả năng xuất hiện trong đất
nước ta càng nhiều. Xây dựng chủ nghĩa xã hội càng ngày càng cần có tri
thức phong phú, nếu không tiêu diệt được giặc dốt thì không thể nào xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội được. Với mục tiêu ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đề xuất vấn đề “muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết phải xây dựng con người
xã hội chủ nghĩa”. Đó là những con người vừa hồng, vừa chuyên và phát triển
toàn diện cả trí, đức, thể, mỹ.
Mục tiêu cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là xây dựng cho
được một nhân cách xã hội chủ nghĩa, đó là nhân cách mà ngay từ bài học đầu
tiên trong cuốn “Đường Kách mệnh” viết vào năm 1925, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã định hướng cho nó - đó là nhân cách người cách mạng. Văn hóa giáo
dục xã hội chủ nghĩa mở rộng nhân cách người cách mạng, tiếp tục nhân cách
1


Sđd, Tập 10, tr.190

13


người cách mạng trong hoàn cảnh nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu
tranh gìn giữ độc lập tự do của Tổ quốc.
Tư tưởng văn hóa giáo dục là một mặt trận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
có hai mục tiêu lớn: Một là, tiêu diệt giặc dốt trong mọi hình thức tồn tại của
nó. Dốt về vấn đề gì phải lập tức khắc phục ngay vấn đề đó bằng biện pháp
học tập và giáo dục. Dốt là đối tượng trọng tâm của mặt trận văn hóa giáo
dục. Dốt chữ, dốt khoa học, dốt quản lý, dốt kỹ thuật… đó là đối tượng cần
tiêu diệt của văn hóa giáo dục. Văn hóa giáo dục sẽ đến tận mọi vùng, mọi
miền, mọi lĩnh vực… ở đâu có cái dốt, ở đó phải có văn hóa giáo dục. Hai là,
cùng với việc khắc phục cái dốt là mục tiêu xây dựng các nhân cách cao đẹp
về đạo đức, giàu có về tri thức, vững vàng về chính trị, xuất sắc về tài năng.
Tính chất rộng lớn và sâu sắc của tư tưởng văn hóa giáo dục là một mặt
trận của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa thời đoạn mà nó mang
sức sống của cả một cương lĩnh khi nhân dân ta sánh vai cùng với bè bạn
khắp năm châu xây dựng một nước Việt Nam phát triển bền vững.
Năm 1945, trong lá thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các học sinh nhân
ngày khai trường đầu tiên của nền văn hóa giáo dục mới, Người đã thống thiết
kêu gọi thế hệ trẻ hãy góp phần học tập của mình để xây dựng một nền văn
hóa giáo dục mới xứng đáng với tầm vóc anh hùng của nhân dân ta. “Hơn 80
năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây
dựng lại cơ đồ mà Tổ tiên ta đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo
kịp các nước khác trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà
trông mong, chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi
đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai

cùng với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần
lớn ở công học tập của các em” 1. Từ đó, mỗi năm tới các dịp khai trường các
cấp học và các hình thức học tập, Người đều quan tâm toàn diện đế việc hoàn
1

Sđd, Tập 4, tr.32

14


thiện nền văn hóa giáo dục mới ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
quan tâm đến các thầy giáo, những nhà sư phạm đã góp phần thực hiện các
định hướng lớn của Đảng ta trên mặt trận giáo dục; Các học sinh, những
người thanh niên – lực lượng chủ yếu hưởng thụ giáo dục để kiến thiết nước
nhà; nội dung thiết thực và khoa học của giáo dục… mà Người còn quan tâm
sâu sắc đến các thành tựu cải cách và phát triển nền văn hóa giáo dục mới ở
nước ta.
Theo sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền văn hóa giáo dục xã
hội chủ nghĩa ở nước ta đã đào tạo được hàng chục vạn thầy cô giáo vừa hồng
vừa chuyên, có nghiệp vụ sư phạm tốt, trở thành nòng cốt của nền văn hóa
giáo dục cách mạng. Hàng chục triệu con em công nông, con em dân tộc ít
người đã được đến trường học và được đào tạo có hệ thống trong nhà trường.
Một đội ngũ thanh niên ưu tú đã được cử ra nước ngoài học tập. Một hệ thống
các cấp học từ mẫu giáo, tiểu học, trung học đến đại học và sau đại học đã
hình thành. Tư tưởng văn hóa giáo dục Hồ Chí Minh đã hình thành một nền
văn hóa giáo dục mới, nền văn hóa giáo dục khoa học, cách mạng, nhân dân
trong thời đại Hồ Chí Minh. Nền văn hóa giáo dục này đã sản sinh, đào tạo ra
một lớp cán bộ mới, ngày càng đáp ứng nhiều hơn cho sự nghiệp cách mạng.
Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng của nền văn hóa giáo dục của ta còn thấp,
do chiến tranh quá dài trong gìn giữ độc lập và thống nhất Tổ quốc, và do tình

hình thế giới có hai phe, cho nên việc đổi mới giáo dục chưa kịp với sự phát
triển chung của đất nước. Hiện nay trên thế giới, trình độ khoa học kỹ thuật
phát triển rất mạnh và rất nhanh, nhưng nền giáo dục của chúng ta còn cổ
điển. Nước ta là một nước nông nghiệp, bước đầu phát triển kinh tế thị trường
và tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa để theo kịp các nước tiên tiến trên
thế giới. Vấn đề coi văn hóa giáo dục là một mặt trận chống giặc dốt và xây
dựng nhân cách theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một định hướng rất quan trọng.

15


Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, khóa VII đã nêu rõ: mục tiêu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là nhằm “tạo ra tiềm lực to lớn,
đủ khả năng xây dựng cuộc sống ấm no, to do, hạnh phúc của toàn dân, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc nền
độc lập của Tổ quốc”1. Từ mục tiêu này đã mở ra nhiều hướng tiếp cận, nhằm
làm sáng tỏ bản chất của quá trình và nội dung cũng như con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong những năm cuối của thế kỷ XX và
những năm tiếp theo của thế kỷ này.
Tiếp cận văn hóa giáo dục về công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự tiếp
cận tổng hợp nhằm nghiên cứu sự phát triển hài hòa giữa kinh tế, chính trị,
quân sự, giáo dục hệ tư tưởng và các mối quan hệ nội tại của chúng trong việc
hình thành một trình độ mới của con người trong lĩnh vực trí, đức, thể, mỹ.
Tiếp cận văn hóa giáo dục, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở những
nước đang phát triển như nước ta là một quá trình làm chuyển biến nhân cách
của một xã hội làm ruộng, làm vườn mà đặc trưng cơ bản của nó là lao động
dựa chủ yếu vào cơ bắp, sức người về thể lực và sức tự nhiên chuyển sang
việc sử dụng các công cụ máy móc và công nghệ để tạo ra một năng suất cao
hơn và đời sống vật chất cũng như tinh thần được cải thiện một cách căn bản
trên một diện tương đối rộng của toàn bộ đời sống xã hội. Từ góc độ văn hóa

giáo dục, quá trình công nhiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta là một quá trình
nâng cao dân trí, giải phóng năng lực sáng tạo của cả cá nhân và cộng đồng,
cải tạo các phong tục, tập quán lạc hậu và xác lập mặt bằng văn hóa giáo dục
mới trong môi trường văn hóa chung của chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa giáo
dục, nhân dân Việt Nam đã tiến hành một cuộc cách mạng trường chinh trên
lĩnh vực văn hóa giáo dục, quá trình đó đã thu được những thành tựu to lớn,
sâu sắc, toàn diện và cơ bản chưa từng có trong suốt 4000 năm lịch sử. Suốt
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1994, tr.5

16


thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh và sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã phấn đấu kiên cường,
vượt qua muôn ngàn gian khó để xây dựng và phát triển nền văn hóa giáo dục
mới - văn hóa giáo dục xã hội chủ nghĩa. Những mục tiêu văn hóa giáo dục
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đề xuất nhất định sẽ
được hoàn thành tốt đẹp trong các thập niên tới bởi vì chúng là ý nguyện của
toàn dân. Một nền văn hóa giáo dục mới Việt Nam với những tiêu chí về
phẩm chất nhân cách mới, với các thành tựu mới chứa đầy các giá trị nhân
văn và tiến bộ sẽ gia nhập vào sức sống của nhiều nền văn hóa giáo dục trên
thế giới, góp phần tạo ra tính đa dạng của quá trình văn hóa giáo dục nhân
loại./.

17




×