Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Phân tích về vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của công ước viên năm 1980 của liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66 KB, 7 trang )

MỤC LỤC


A.

MỞ ĐẦU
“Vi phạm về cơ bản hợp đồng” là một chế định pháp lý được quy định tại

Điều 25 Công ước Viên. Tuy nhiên, Công ước Viên cũng không đưa ra sự giải
thích cụ thể để xác định hành vi vi phạm như thế nào bị coi là vi phạm cơ bản.
Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có
liên quan đến vi phạm cơ bản hợp đồng, các tòa án và trọng tài tại quốc gia
thành viên Công ước Viên đã căn cứ vào từng tình huống cụ thể xác định có hay
khơng một sự vi phạm cơ bản hợp đồng để làm cơ sở áp dụng các chế tài tạm
ngừng thực hiện, đình chỉ thực hiện, hủy bỏ hợp đồng,... theo Cơng ước Viên.
Để tìm hiểu rõ hơn về khái niệm này em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích về
vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của Công ước Viên năm 1980 của Liên
Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG). Lựa chọn 01 vụ tranh
chấp minh họa cho việc áp dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng theo
CISG”.
B.
1.

NỘI DUNG
Khái niệm “vi phạm cơ bản hợp đồng” theo quy định của Công ước
Viên
Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng được quy định tại Điều 25 Cơng ước

Viên, theo đó “một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản
nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một
chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ


phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu qủa đó và một người có lý trí minh
mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hồn cảnh tương tự”.
Vi phạm hợp đồng là việc khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận, theo thói quen trong thương mại
giữa các bên, pháp luật điều chỉnh hợp đồng hoặc tập quán thương mại quy định.
2.
2.1.

Yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo CISG
Yếu tố vi phạm hợp đồng
2


Yếu tố quan trọng nhất để xác định mức độ vi phạm của khái niệm “vi
phạm cơ bản” chính là sự tồn tại của sự vi phạm nghĩa vụ, có thể phát sinh từ
hợp đồng (như thoả thuận của các bên) hoặc từ các quy định của CISG (Ví dụ:
Điều 46.2 CISG). Khi khơng có sự vi phạm nghĩa vụ, Điều 25 sẽ không thể
được viện dẫn và áp dụng.
Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên Hợp
Quốc không đưa ra định nghĩa về vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, tuy nhiên, vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng có thể hiểu là việc một bên giao kết hợp đồng không
thực hiện nghĩa vụ mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc thực hiện không
hết nghĩa vụ hợp đồng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng.
Ví dụ, các bên thỏa thuận cụ thể về nghĩa vụ giao hàng trong hợp đồng
nhưng người bán không giao hàng hoặc giao hàng thiếu, giao sai hàng hoặc giao
hàng không đúng chất lượng như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Như vậy, nếu
người bán giao hàng khơng phù hợp với hợp đồng như hàng hóa được giao thiếu
về số lượng, không phù hợp về chất lượng hoặc giao sai chủng loại hàng mà các
bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, thì được coi là người bán đã có sự vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng.

2.2.

Yếu tố thiệt hại đáng kể
Vi phạm hợp đồng luôn luôn phát sinh những thiệt hại nhưng thiệt hại lại

không luôn luôn tồn tại khi có vi phạm hợp đồng. Trong thực tế, khơng hiếm
trường hợp có vi phạm hợp đồng nhưng khơng có thiệt hại. Tuy nhiên theo quy
định tại Điều 25 CISG thì thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra là yếu tố
bắt buộc, tiên quyết cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng và thiệt hại đó
phải là đáng kể.
Thế nào là thiệt hại đáng kể? Khái niệm ‘thiệt hại đáng kể’ bao gồm tất cả
(thiệt hại hiện hữu và trong tương lai) các hậu quả từ những vi phạm hợp đồng,
bao gồm không chỉ mất mát về tiền bạc (thực tế và tương lai) mà còn cả các hậu

3


quả khác. CISG cho rằng thiệt hại đáng kể là những thiệt hại làm cho bên bị vi
phạm mất đi cái mà họ chờ đợi (mong muốn có được) từ hợp đồng.
Tuy nhiên Cơng ước Viên khơng giải thích rõ cái mà người này chờ đợi là
gì. Vì vậy, việc xác định mức độ thiệt hại là đáng kể hay khơng đáng kể sẽ do
tịa án (hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp) quyết định căn cứ
vào từng trường hợp, từng vụ tranh chấp cụ thể.
2.3.

Khả năng nhìn thấy trước hậu quả của hành vi vi phạm (khả năng tiên
liệu)
Một vi phạm sẽ không thể bị coi là cơ bản khi bên vi phạm đã không tiên

liệu trước được hậu quả đáng kể và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ khơng

tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hồn cảnh tương tự. Từ đó có thể thấy Điều 25
cũng địi hỏi cần phải có sự đánh giá về ý thức, suy nghĩ chủ quan của bên vi
phạm và đồng thời so sánh với ý thức, kiến thức của một chủ thể trung lập trong
việc dự liệu về hậu quả đó trong những điều kiện tương tự.
Yêu cầu đánh giá khách quan này là bắt buộc theo yêu cầu của Điều 8.2
CISG. Khả năng tiên liệu trước được những thiệt hại do hành vi vi phạm hợp
đồng gây ra sẽ phụ thuộc vào kiến thức của bên vi phạm về những sự kiện xoay
quanh giao dịch như kinh nghiệm, mức độ tinh tế và khả năng tổ chức của bên vi
phạm.
Đây là chế định trọng tâm đối với cơ chế khắc phục thiệt hại của Cơng ước
Viên vì những ‘vi phạm cơ bản’ là cơ sở quan trọng dẫn tới những hậu quả pháp
lý mang tính quyết định đối với trách nhiệm của các bên và giá trị của hợp đồng.
Vấn đề vi phạm cơ bản được quy định tại Điều 25 của CISG.
Tuy nhiên, Điều 25 không giải quyết hậu quả của vi phạm cơ bản, nó chỉ
mang ý nghĩa như một cơng cụ giúp phân biệt hành vi vi phạm hợp đồng mang
tính cơ bản/nền tảng và những vi phạm giản đơn khác. Có thể nói, việc xác lập
hậu quả pháp lý đối với những vi phạm cơ bản vẫn sẽ phải bắt đầu từ các điều
khoản cụ thể khác của Công ước Viên 1980 hoặc của chính hợp đồng.
4


Như một số chuyên gia quốc tế về luật hợp đồng thương mại đã nhận định
Điều 25 CISG không thể được áp dụng độc lập mà phải được viện dẫn và diễn
giải bên cạnh các điều khoản khác mà việc xác định vi phạm cơ bản mang tính
tiên quyết.
3.

Ví dụ về việc áp dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng theo CISG
Thông thường, khi người bán chậm giao hàng, người mua không được


quyền hủy hợp đồng mà chỉ được đòi bồi thường thiệt hại. Tuy vậy, trong một số
tình huống nhất định, người mua có quyền hủy hợp đồng ngay khi người bán
không thể giao hàng khi hết thời hạn.
Tranh chấp giữa công ty Diversitel Communications Inc. (Canada) và công
ty Glacier Bay Inc. (Mỹ). Người bán Mỹ không giao hàng khi hết thời hạn quy
định trong hợp đồng. Hai bên tranh cãi về việc liệu người mua Canada có quyền
hủy hợp đồng hay khơng. Tranh chấp được xét xử tại Tịa Cơng lý tối cao tại
Ontario (Ontario Supreme Court of Justice), phán quyết tuyên ngày 06/10/2003.
*Diễn biến tranh chấp:
Người mua Canada và người bán Mỹ đã ký kết một hợp đồng mua bán hệ
thống cách nhiệt chân không. Để đáp ứng những thỏa thuận đã tồn tại từ trước
tới nay với Bộ quốc phòng Canada về chất lượng thiết bị và quá trình lắp đặt hệ
thống tại một nhà máy ở Bắc Cực, người mua đã cố định một lịch trình giao
hàng cụ thể.
Người mua đã thanh tốn theo giá hợp đồng nhưng người bán khơng giao
hàng trong thời gian đã thỏa thuận. Người mua đã kiện người bán ra Tịa án
Cơng lý tối cao bang Ontario yêu cầu hủy hợp đồng. Người bán không đồng ý,
cho rằng người bán khơng có đủ căn cứ để hủy hợp đồng.
*Phân tích và quyết định của tịa án.

5


Về luật áp dụng, Tịa tun bố rằng Cơng ước Viên năm 1980 về hợp đồng
mua bán hàng hóa (CISG) sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp vì Canada
và Mỹ đều là thành viên của Công ước này.
Để xem xét hợp đồng có thể bị hủy hay khơng, tòa đã dẫn chiếu điều 25
CISG: “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi
phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực
đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi

phạm khơng tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ
khơng tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hồn cảnh tương tự”.
Tịa cho rằng lịch trình giao hàng đã ấn định trong hợp đồng và đây là yếu
tố vô cùng quan trọng đối với người mua. Lý do là vì thiết bị do người bán cung
cấp sẽ phải được lắp đặt trong một khoảng thời gian ngắn tại Bắc Cực. Mùa hè ở
Bắc Cực rất ngắn nên nếu người bán giao hàng chậm, người mua sẽ không lắp
đặt được thiết bị theo thỏa thuận với Bộ Quốc phòng Canada và như vậy, người
mua sẽ khơng đạt được mục đích của mình khi giao kết hợp đồng với người bán.
Người bán cũng biết về tầm quan trọng đó vì trên thực tế, người bán đã biết rằng
những thiết bị do người bán cung cấp sẽ được lắp đặt tại Bắc Cực tuân theo
những thỏa thuận có trước giữa người mua với Bộ quốc phòng Canada. Do vậy,
người bán đã vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng.
Với lập luận nói trên, tịa tuyên bố người mua có quyền hủy hợp đồng (theo
điều 49, khoản 1- CISG), đòi lại số tiền đã thanh toán cho người bán.
C.

KẾT LUẬN

Nội hàm khái niệm “vi phạm cơ bản hợp đồng” theo quy định của Công ước
Viên là rất rộng. Tuy nhiên, qua thực tiễn giải quyết một số vụ tranh chấp liên
quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có áp dụng Cơng ước Viên, tòa án
các nước thành viên cũng đã đưa ra được một số căn cứ thực tiễn làm cơ sở cho
việc giải thích nhằm làm rõ khái niệm này. Mặc dù vậy, Tịa án của các nước
khác nhau có quan điểm khơng giống nhau hồn tồn khi gặp vấn đề liên quan
đến vi phạm cơ bản hợp đồng. Việc áp dụng khái niệm này trong thực tiễn sẽ có
thể gặp khơng ít khó khăn nếu khơng có được những hướng dẫn, giải thích cụ
thể.
6



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật Thương mại quốc tế – Đại học Luật Hà Nội – Nhà xuất bản

2.
3.

Công an Nhân dân 2017. Chủ biên: PGS.TS. Nông Quốc Bình
Giáo trình Luật Thương mại 2018 – Chủ biên: PGS.TS. Nơng Quốc Bình
/>
4.

1980
/>
5.

uoc-vien1610986227.html
/>


×