Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nâng cao khả năng thắng thầu trong hoạt động dự thầu cung cấp máy móc thiết bị tại Công ty cổ phần Du lich và Thương mại- TKV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.81 KB, 90 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Ngân sách nhà nước (NSNN) là công cụ tài chính chủ yếu của nhà nước để đảm
bảo về mặt vật chất cho bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng nhiệm vụ mà nhà
nước đảm nhận. Trong phạm vi địa phương, ngân sách địa phương (NSĐP) tồn tại như
một tất yếu khách quan, là công cụ để chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của mình.
Trong bối cảnh hiện nay, với việc phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa hiện đại
hóa được đặt ra rất nặng nề. Với nguồn thu ngân sách hạn hẹp, không ổn định, trong
khi nhu cầu chi ngân sách ngày càng lớn, đòi hỏi phải tăng cường quản lý NSNN là
nhiệm vụ lớn của phường Trung Tự trong hiện tại cũng như tương lai. Với hy vọng có
thể góp một phần nhỏ bé vào việc tăng cường quản lý ngân sách nhà nước một cách
hiệu quả hơn em đã chọn đề tài sau cho chuyên đề thực tập của mình:
“Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình thu chi ngân
sách phường Trung Tự thời kỳ 2003-2007”
Kết cấu đề tài gồm 3 chương chính:
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
Chương 2: XÁC ĐỊNH HỆ THỐNG CHỈ TIÊU VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP
THỐNG KÊ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THU CHI NSĐP
Chương 3: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN TÍCH
TÌNH HÌNH THU CHI NSĐP Ở PHƯỜNG TRUNG TỰ (thời kỳ 2003-2007)
Do thời gian và kiến thức có hạn nên đề tài của em không tránh khỏi thiếu sót.
Em rất mong được sự đánh giá và góp ý của các thầy cô giáo để cho đề tài của em hoàn
thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cám ơn PGS-TS Nguyễn Cơng Nhự đã tận tình hướng dẫn
em trong suốt thời gian thực tập cũng như giúp em hoàn thành tốt chuyên đề thực
tập!



2

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
1.1 Những vấn đề cơ bản
1.1.1 Ngân sách nhà nước (NSNN)
1.1.1.1 Khái niệm ngân sách nhà nước
NSNN là bộ phận chủ yếu cấu thành Tài chính Nhà nước (Tài chính cơng). Sự ra
đời, tồn tại của NSNN nói riêng cũng như phạm trù Tài chính Nhà nước nói chung đều
bắt nguồn từ sự ra đời, tồn tại của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ và sự xuất hiện của Nhà
nước trong tiến trình lịch sử.
Sau đây là khái niệm về NSNN theo luật NSNN năm 2002:
- “ NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ
quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước ”(Điều 1, Luật NSNN).
- “ NSNN là một bản dự toán thu, chi của Nhà nước trong một thời gian nhất
định (thường là một năm) được Quốc hội thông qua để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước”. (Luật NSNN)
Quan niệm này chủ yếu xem xét NSNN ở thể tĩnh và ở hình thức biểu hiện bên
ngồi, xuất phát từ cách nhìn nhận dưới góc độ của người làm kế hoạch, nó quy định
tính pháp lý của NSNN (luật pháp hố các quan hệ tài chính ngân sách) thơng qua việc
phê duyệt dự tốn của Quốc hội. NSNN có hai nội dung rõ ràng là thu và chi ngân
sách. Các nội dung thu chính là các dự đốn phát triển kinh tế có khả năng hình thành
các nguồn thu cho ngân sách, đồng thời các nội dung chi cũng là những đòi hỏi Nhà
nước phải tiến hành chi cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
Trong thực tế nhìn bề ngồi hoạt động của Ngân sách Nhà nước biểu hiện đa
dạng dưới hình thức các khoản thu và các khoản chi tài chính của Nhà nước ở các lĩnh


3


vực hoạt động kinh tế xã hội. Các khoản thu chi này được tổng hợp trong một bảng dự
toán thu chi tài chính được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Các khoản
thu mang tính chất bắt buộc của Ngân sách Nhà nước là một bộ phận các nguồn tài
chính chủ yếu được tạo ra thơng qua việc phân phối thu nhập được sáng tạo ra trong
khu vực sản xuất kinh doanh và các khoản chi chủ yếu của Ngân sách mang tính chất
cấp phát phục vụ cho đầu tư phát triển và tiêu dùng của xã hội .Như vậy, về hình thức
có thể hiểu: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước có trong
dự tốn, đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo việc thực hiện chức năng,nhiệm vụ của nhà nước.
Tuy nhiên, hoạt động của Ngân sách Nhà nước là hoạt động phân phối các nguồn
tài chính của xã hội gắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung là
Ngân sách nhà nước. Trong q trình phân phối đó đã làm nảy sinh các quan hệ tài
chính giữa một bên là nhà nuớc và một bên là các chủ thể trong xã hội. Những quan hệ
tài chính này bao gồm:
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp: Các quan hệ kinh tế này phát
sinh trong quá trình hình thành nguồn thu của Ngân sách dưới hình thức các loại thuế
mà doanh nghiệp phải nộp. Đồng thời, Ngân sách chi hổ trợ cho sự phát triển của
doanh nghiệp dưới hình thức xây dựng cơ sở hạ tầng, hổ trợ vốn…
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các đơn vị hành chính sự nghiệp: Quan hệ này
phát sinh trong qúa trình phân phối lại các khoản thu nhập bằng việc Ngân sách nhà
nước cấp kinh phí cho các đơn vị quản lý nhà nước. Đồng thời, trong cơ chế kinh tế thị
trường các đơn vị có hoạt động sự nghiệp có các khoản thu phí và lệ phí, nguồn thu
này một phần các đơn vị làm nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách, một phần trang trải
các khoản chi tiêu của mình để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách.
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư: Quan hệ này được thể hiện
qua việc một bộ phận dân cư thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước bằng việc


4


nộp các khoản thuế, phí, lệ phí. Một bộ phận dân cư khác nhận từ ngân sách nhà nước
các khoản trợ cấp theo chính sách qui định.
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trường tài chính: Quan hệ này phát sinh khi
nhà nước tham gia trên thị trường tài chính bằng việc phát hành các loại chứng khốn
của kho bạc nhà nước nhằm huy động vốn của các chủ thể trong xã hội để đáp ứng yêu
cầu cân đối vốn của ngân sách nhà nước.
Như vậy, đằng sau hình thức biểu hiện bên ngoài của Ngân sách nhà nước là một
quỹ tiền tệ với các khoản thu và các khoản chi của nó thì Ngân sách nhà nước lại phản
ảnh các quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối. Từ sự phân tích trên cho thấy: Ngân
sách nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong q trình phân phối các
nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước
nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước .

1.1.1.2 Hệ thống NSNN ở Việt Nam
NSNN là công cụ vật chất quan trọng để đảm bảo cho Nhà nước thực hiện các
chức năng kinh tế- xã hội, NSNN ở Việt Nam và trên thế giới nói chung trong mỗi giai
đoạn phát triển được xây dựng theo mơ hình phù hợp với sự hình thành và phát triển
của hệ thống chính quyền nhà nước các cấp và quá trình thực hiện phân cấp quản lý
kinh tế-xã hội cho các cấp chính quyền trong giai đoạn đó nhằm đảm bảo thực hiện đầy
đủ chức năng vốn có của Nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và trên toàn
bộ vùng lãnh thổ của đất nước. Việc tương ứng mỗi cấp chính quyền với một cấp ngân
sách đã thúc đẩy các cấp thực thi chức năng và nhiệm vụ theo thẩm quyền một cách
chủ động và có hiệu quả.
Ở nước ta, tổ chức hệ thống NSNN gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy nhà
nước và vai trị, vị trí của bộ máy đó trong q trình phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước. Theo Hiến pháp 1992, mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng cung cấp


5


phương tiện vật chất cho cấp chính quyền đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình
trên vùng lãnh thổ. Việc hình thành hệ thống chính quyền nhà nước các cấp là một tất
yếu khách quan nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi vùng lãnh
thổ của đất nước. Chính sự ra đời của hệ thống chính quyền nhà nước nhiều cấp là tiền
đề cần thiết để tổ chức hệ thống NSNN nhiều cấp.
Là một quốc gia thống nhất, dựa trên nguyên tắc phân chia hành chính lãnh thổ
theo các cấp: trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (và tương
đương), xã (và tương đương). Các đơn vị hành chính lãnh thổ từ tỉnh xuống xã là
những cấu trúc lệ thuộc theo nguyên tắc cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục
tùng trung ương. Do vậy, tổ chức hệ thống NSNN cũng đảm bảo tính tập trung thống
nhất, phù hợp với hệ thống hành chính 4 cấp (trung ương, tỉnh, huyện, xã).
Phù hợp với tổ chức bộ máy Nhà nước ta hiện nay, hệ thống NSNN được tổ chức
thành một hệ thống thống nhất như sơ đồ ở Hình 1.1:


6

NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Hình 1.1: Mối quan hệ giữa NSNN với tổ chức bộ máy chính quyền

NS
Trung ương

Chính quyền
Trung ương

Chính quyền
địa phương


NS cấp tỉnh

Tỉnh

NS cấp huyện

Huyện

NS cấp xã



Bảng 1.1: Các khoản mục thu, chi Ngân sách nhà nước
Nội dung của ngân sách hiện
Thông

nay
Thông

Được


7

qua và
qua

được
chấp

hành

I. Thu Ngân sách Nhà nước bao gồm các khoản
sau:
1. Thuế, phí và lệ phí của các tổ chức và cá nhân
theo các quy định của luật.
􀂃 Thuế
􀂃 Phí
􀂃 Lệ phí
2. Thu từ các hoạt động kinh tế của Nhà nước

X
X
X

(DNNN)
􀂃 Lãi vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế;
􀂃 Thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế;
􀂃 Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và

X
X

lãi)
3. Thu sự nghiệp
4. Thu từ quỹ dự trữ nhà nước
5. Thu sử dụng đất: Thu nhập từ tài sản và đất đai

X
X


nhà nước
6. Vốn đóng góp của các tổ chức và cá nhân đầu tư

X

X
X

xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng
7. Đóng góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân
trong và ngoài nước
8. Bất động sản Nhà nước được hưởng theo di chúc
9. Thu kết dư ngân sách năm trước.
10. Tiền bán hoặc cho thuê các tài sản Nhà nước
trong các đơn vị hành chính sự nghiệp
11. Tiền phạt và tịch thu
12. Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
13. Viện trợ khơng hồn lại (bằng tiền mặt hoặc

X
X

X
X
X

X
X


X
X
X
X

X
X

chấp
hành
(không
được
công bố)


8

các hình thức khác) của các tổ chức, chính phủ và
các cá nhân nước ngoài
14. Vay trong và ngoài nước của Chính phủ nhằm
bù đắp bội chi và vốn đầu tư trong nước được các
tỉnh và thành phố trực thuộc Chính quyền trung
ương huy động theo quy định tại Khoản 3, Điều 8

X

của Luật NSNN sẽ được sử dụng để cân đối ngân
sách.
II. Chi Ngân sách nhà nước bao gồm các khoản
sau:

1. Chi thường xuyên
􀂃 Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế,
xã hội,văn hố thơng tin, thể dục-thể thao, sự
nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường, các sự
nghiệp khác.
􀂃 Các hoạt động sự nghiệp kinh tế.
􀂃 Quốc phịng, an ninh và trật tự, an tồn xã hội.
􀂃 Hoạt động của các cơ quan Nhà nước
􀂃 Hoạt động của Đảng Cộng sản Việt nam.
􀂃 Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Tổng
Liên đoàn Lao động Việt nam, Đoàn Thanh niên
Cộng sản, Hội Cựu chiến binh, Liên hiệp Phụ nữ

X

X

X
X

X
X

X

X

X

X


X

Việt nam và Hội Nông dân Việt nam
􀂃 Trợ giá theo chính sách của Nhà nước.
􀂃 Các chương trình mục tiêu quốc gia.
􀂃 Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của

X
X

Chính phủ.
􀂃 Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội.
􀂃 Trợ cấp cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp theo

X

quy định của pháp luật.

X

X

X


9

􀂃 Trả lãi tiền do Chính phủ vay
􀂃 Viện trợ cho các tổ chức và chính phủ nước

ngồi
􀂃 Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật
2. Chi đầu tư phát triển
􀂃 Đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội khơng có khả năng thu hồi vốn. Huy
động đóng góp của nhân dân địa phương không

X
X
X

X

X

X

được thông qua.
􀂃 Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các DNNN, góp vốn cổ
phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các
lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo

X

quy định của pháp luật
􀂃 Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ
trợ phát triển đối với các chương trình và dự án phát
triển kinh tế
􀂃 Dự trữ Nhà nước
􀂃 Cho vay chính phủ phục vụ đầu tư phát triển

3. Chi trả nợ gốc các khoản vay của Chính phủ
4. Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
􀂃 50% được dùng để chi cho các chương trình mục
tiêu quốc gia ưu tiên nhưng cũng có thể dùng để

X
X
X
X

X

làm ngân sách dự phòng
􀂃 vv.
1.1.2 Ngân sách địa phương (NSĐP)
Ngân sách nhà nước gồm Ngân sách trung ương ( NSTW) và NSĐP. Ngân sách
địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân
(HĐND) và Uỷ ban nhân dân (UBND) theo quy định của Luật tổ chức HĐND và
UBND theo quy định hiện hành. Theo đó, ứng với mỗi cấp chính quyền có HĐND thì có
cấp NSNN tương ứng (Hình 1.2). Trong đó, NSĐP có ba cấp như sau:


10

- Ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách tỉnh)
bao gồm ngân sách cấp tỉnh và ngân sách của các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh.
- Ngân sách huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách
huyện) bao gồm ngân sách cấp huyện và ngân sách các xã, phường, thị trấn.
- Ngân sách các xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).

Hình 1.2: Phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam hiện nay
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

NS Trung ương:
- Bộ, ban, ngành
- Đoàn thể TW

NS địa phương
Ngân sách
cấp tỉnh

Ngân sách
cấp huyện

Ngân sách
cấp xã
Như vậy, NSĐP là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các cấp chính quyền
bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các cấp, được giao nhiệm vụ đảm nhận các
khoản thu và nhiệm vụ chi có tính chất địa phương (phản ánh nhiệm vụ thu chi theo
lãnh thổ), đảm bảo tổ chức quản lý toàn bộ kinh tế - xã hội của chính quyền cùng cấp.


11

1.1.3 Vị trí, vai trị của NSĐP
Xét trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia, NSTW chi phối phần lớn các nguồn thu
và các khoản chi quan trọng, là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn tài
chính quốc gia và đảm bảo các nhu cầu chi tiêu có tính chất huyết mạch của cả nước.
NSTW phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành và giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống
NSNN, thực hiện cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện các chức năng nhiệm vụ của

Nhà nước trung ương và là trung tâm điều hoà hoạt động của ngân sách các địa
phương.
Đối với địa phương, NSĐP là cơng cụ tài chính của các cấp chính quyền tương
ứng và phục vụ thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội của các cấp chính quyền đã
được phân cơng quản lý.
Vai trị của NSĐP thể hiện trên các mặt cụ thể như sau:
- Đảm bảo các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng kinh tế và các hoạt động
văn hố, chính trị, xã hội trong địa phương.
- Đảm bảo huy động, quản lý, giám sát một phần vốn của NSTW hoạt động trên
địa bàn địa phương.
- Điều hoà vốn về NSTW trong những trường hợp cần thiết để cân đối hệ thống
ngân sách.
Trong hệ thống NSNN và trong mối quan hệ với NSTW, NSĐP vừa có vị trí độc
lập, vừa có vị trí phụ thuộc. Vai trò phụ thuộc của NSĐP thể hiện ở chỗ: Nguồn thu
của NSĐP thường là nguồn thu "loại 2", bao gồm các khoản thuế được phân cấp, phí
và lệ phí địa phương. Về chi, bên cạnh các nhiệm vụ chi cho bộ máy quản lý địa
phương và cho các dịch vụ cơng cộng của địa phương, NSĐP cịn phải đảm nhận các
nhiệm vụ chi quan trọng về giáo dục, y tế và đảm bảo xã hội.
Nhà nước ta thực hiện xây dựng hệ thống NSNN trên nguyên tắc: vừa đảm bảo


12

vai trò chủ đạo của NSTW, ngân sách cấp trên, vừa phải phát huy tính năng động sáng
tạo trong quản lý, điều hành ngân sách của các cấp chính quyền địa phương và cơ sở.
Vì vậy, NSĐP có vị trí độc lập tương đối trong hệ thống NSNN, thể hiện ở chỗ: các
cấp chính quyền có quyền lập, chấp hành và quyết tốn ngân sách của mình trên cơ sở
các chính sách, chế độ đã ban hành; Chính quyền địa phương được phép ban hành quy
định về một số khoản thu (phí và lệ phí, huy động đóng góp ...) và một số chính sách
phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn trong phạm vi được phân cấp, đồng thời phát huy

tính chủ động sáng tạo trong việc khai thác các thế mạnh của địa phương để tăng nguồn
thu, đảm bảo chi, thực hiện cân đối ngân sách.
Căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSĐP được Luật NSNN quy định,
HĐND cấp tỉnh quyết định phân cấp cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân
sách của chính quyền địa phương (bao gồm ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện và
ngân sách cấp xã) theo những nguyên tắc nhất định. Như vậy, mỗi một tỉnh sẽ có một
nội dung, cơ cấu và mức độ nguồn thu và nhiệm vụ chi khác nhau phù hợp với nhiệm
vụ kinh tế- xã hội, quốc phòng an ninh đối với từng lĩnh vực và đặc điểm kinh tế, địa
lý, dân cư và trình độ quản lý của từng tỉnh.

1.2 Thu và chi NSĐP
Luật NSNN quy định cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa NSTW và NSĐP được ổn
định từ 3 - 5 năm, bao gồm các khoản thu mà từng cấp được hưởng 100%, các khoản thu
phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) cũng như nhiệm vụ chi trên cở sở quán triệt các nguyên
tắc của phân cấp quản lý ngân sách.
1.2.1 Thu NSĐP
Luật quy định cụ thể các loại thuế trung ương được hưởng, các loại thuế được địa
phương được hưởng và các loại thuế được phân chia giữa trung ương và địa phương.


13

Tổng Cục thuế là cơ quan trung ương, tiến hành thu thuế thông qua các chi cục thuế
tỉnh và huyện. Trong trường hợp số thu vượt chỉ tiêu được giao, các tỉnh được trung
ương thưởng theo một tỉ lệ do Thủ tướng quyết định.
Có thể phân thành 3 loại thu ở Việt nam: thu trung ương, thu địa phương và thu
phân chia giữa trung ương và địa phương. Các khoản thu trung ương bao gồm thuế
tiêu thụ đặc biệt, thu từ doanh nghiệp nhà nước và thu từ các khoáng sản chính như
dầu, than (chi tiết xem ở Bảng 1.1). Các khoản thu này do Tổng Cục thuế thu và được
nộp vào kho bạc trung ương. Các Sở thuế ở mỗi tỉnh tiến hành thu các khoản thu địa

phương và các khoản thu phân chia giữa trung ương và địa phương. Các tỉnh được giữ
lại toàn bộ các khoản thu địa phương để chi tiêu theo các kế hoạch ngân sách đã được
phê duyệt. Các khoản thu địa phương chủ yếu bao gồm thuế nông nghiệp, thuế nhà,
đất, các khoản phí và thuế mơn bài và trước bạ, và thuế thu nhập cá nhân. Các khoản
thu phân chia giữa trung ương và địa phương bao gồm thuế xuất nhập khẩu, thuế lợi
tức và thuế doanh thu. Các khoản thu phân chia được phân chia giữa chính quyền các
tỉnh, là nơi tiến hành thu, và chính quyền trung ương. Mức phân chia được xác định
bằng % tổng số thu dự kiến, là số tiền mà mỗi tỉnh cần có để đáp ứng các nhu cầu chi
tiêu theo kế hoạch đã được phê chuẩn, sau khi đã hạch toán số thu địa phương dự kiến.
Nếu tổng số thu phân chia thực tế thu được lớn hơn số thu phân chia dự kiến thì
mỗi tỉnh, trước hết, vẫn phải chuyển vào kho bạc trung ương tỷ lệ % đã thống nhất của
số thu lớn hơn này. Sau đó, tỉnh sẽ giữ lại tỷ lệ % đã thống nhất của số thu lớn hơn này
mà trong thực tế là lớn hơn số cần có để trang trải các khoản chi tiêu đã được duyệt.
Các tỉnh được tuỳ ý sử dụng số thu vượt mức này. ở một số tỉnh, nếu tổng số thu phân
chia dự kiến không đủ để bù đắp thiếu hụt giữa số thu địa phương dự kiến và số chi
theo kế hoạch của tỉnh đã được phê duyệt thì tỉnh được phép giữ lại 100 % số thu phân
chia và chính phủ trung ương sẽ tiến hành cấp phát bổ sung ngân sách để bù đắp số
thiếu hụt này.


14

1.2.2 Chi NSĐP
Chính quyền trung ương và tỉnh sẽ cùng nhau xác định dự toán thu và chi. Ngân
sách Nhà nước bao gồm tất cả các khoản chi ở cấp trung ương (chi tiết các khoản chi ở
Bảng 1.1) và thông qua ngân sách tỉnh, tổng hợp các khoản chi đã được phê duyệt cho
các tỉnh, huyện và xã. Một phần đáng kể số thu thuế nhà nước được thu ở tỉnh và tỉnh
được giữ lại theo tỉ lệ qui định để trang trải cho các dịch vụ đã được Quốc hội thơng
qua. Bộ Tài chính lập báo cáo cho tiêu vào cuối năm để báo cáo số chi thực tế từ ngân
sách dự toán. Một số tỉnh huy động được thêm nguồn thu thơng qua việc có khả năng

thu vượt số thu địa phương và thu phân chia và thơng qua một số loại thuế và phí đã
được trung ương đồng ý. Chính quyền địa phương đã được phép huy động một số
nguồn thu từ phí, lệ phí và phí giao thơng. Chẳng hạn như phí trường học và bệnh viện,
phí sử dụng đường và các khoản đóng góp tự nguyện của cộng đồng. Đồng thời, chính
quyền địa phương được phép huy động vốn đầu tư trong nước trong một số trường hợp
cụ thể do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Ngồi ra, nhiều dịch vụ có thể giao cho
Doanh nghiệp Nhà nước thực hiện như xử lý chất thải, cung cấp nước và điện và giao
thông địa phương. Các doanh nghiệp này có thể đi vay trong và ngoài nước sau khi
được trung ương cho phép (bảo lãnh chính phủ) và phải tuân thủ Luật Doanh nghiệp.
Chi NSĐP chủ yếu gắn liền với nhiệm vụ quản lý kinh tế – xã hội, quốc phòng,
an ninh, chi giáo dục đào tạo, y tế, trợ cấp xã hội do địa phương trực tiếp quản lý. Việc
đẩy mạnh phân cấp quản lý ngân sách trong điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ quản
lý của các vùng, miền khác nhau là động lực quan trọng để khơi dậy các khả năng của
địa phương, xử lý kịp thời các nhiệm vụ của nhà nước trên phạm vi của từng địa
phương. Luật NSNN cùng đã phân cấp nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ
thông quốc lập các cấp, điện chiếu sáng, cấp thốt nước, giao thơng đơ thị, vệ sinh đơ
thị và các cơng trình phúc lợi cơng cộng khác cho thị xã, thành phố thuộc tỉnh.


15

1.2.3 Cân đối NSĐP
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính quan trọng được nhà nước sử dụng để
phân phối thu nhập. Chức năng phân phối của ngân sách được thể hiện trong quá trình
huy động và sử dụng các nguồn tài chính để hình thành nên các khoản thu và các
khoản chi của ngân sách. Về nội dung, các khoản thu và chi này có quan hệ hữu cơ với
nhau và dựa trên nguyên tắc hai bộ phận này phải được cân đối.
Trước đây trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, việc cân đối ngân sách nhà nước
được thực hiện theo nguyên tắc: Ưu tiên cho các khoản chi đầu tư phát triển sau đó mới
dành cho chi tiêu dùng thường xuyên. Trong thực tế do số thu thường rất thấp, thậm

chí nhiều khi khơng đủ cho chi đầu tư phát triển nên việc cân đối ngân sách ln lâm
vào tình trạng bị động, trong khi đó nhu cầu chi tiêu dùng thường xuyên lại rất cấp
bách. Do đó, chính phủ thường phải phát hành tiền ngồi dự kiến là nguyên nhân gây
ra lạm phát.
Trong cơ chế thị trường, yêu cầu đổi mới hoạt động của ngân sách nhà nước địi
hỏi phải xây dưng mơ hình quản lý ngân sách thích hợp và phù hợp với thơng lệ quốc
tế, mơ hình này cho phép xác định cơ cấu ngân sách với nội dung các khoản thu và chi
để đảm bảo sự cân đối của ngân sách nhà nước.
Cụ thể đối với ngân sách địa phương quản lý ngân sách được xây dựng dựa trên
mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng:
- Thu ngân sách từ thuế, phí, lệ phí và một số khoản thu khơng mang tính chất
thuế như: thu lợi tức cổ phần nhà nước, thu từ cho thuê và bán tài sản thuộc sở hữu nhà
nước…là những khoản thu thường xuyên và được hình thành theo ngun tắc khơng
hồn trả. Các khoản thu này còn được gọi là các khoản thu trong cân đối ngân sách
được sử dụng ưu tiên cho các khoản chi tiêu dùng thường xuyên, phần còn lại sẽ dành
cho chi đầu tư phát triển.


16

- Thu từ bổ sung từ ngân sách cấp trên. Nguồn thu này dùng để bù đắp số thiếu
hụt của ngân sách địa phương do chênh lệch giữa tổng số chi và tổng số thu trong cân
đối ngân sách để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.
Cơ chế cân đối ngân sách này tạo ra thế chủ động rất lớn cho chính quyền địa
phương cho phép giải quyết trước hết các nhu cầu cấp bách để ổn định đời sống và trật
tự xã hội, hơn nữa nó cũng vạch ra một ranh giới rõ ràng về phạm vi tiêu dùng nằm
trong giới hạn các khoản thu nhập do nền kinh tế tạo ra. Các khoản thu bù đắp thiếu hụt
chỉ phục vụ cho chi đầu tư phát triển nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của chính phủ.
1.3 Thực trạng ngân sách nhà nước hiện nay
1.3.1 Thực trạng ngân sách nhà nước thời gian qua

Thứ nhất, ngân sách nhà nước nói riêng, tài chính cơng nói chung ngày càng trở
thành công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.
- Công tác quản lý ngân sách nhà nước góp phần làm cho tiềm lực tài chính quốc
gia phát triển liên tục, đạt được sự ổn định tương đối vững chắc.
Với chiến lược ưu tiên tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển, tốc độ tăng chi
thời gian qua đã đạt trung bình khoảng 19%/năm, cao gấp 2 lần tốc độ tăng chi thường
xuyên so với năm trước. Trong đó, tập trung đầu tư phát triển các hệ thống giao thông,
thủy lợi quan trọng, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như: cơng trình thể dục thể
thao, trường học, bệnh viện. . . Tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo đã liên
tục tăng từ 12,8% (1997) lên 15,2% (2001) và đạt xấp xỉ 16,1% (2003), đến năm 2006
đã đạt gần 55000 tỷ đồng.
- Ngân sách nhà nước góp phần cho Nhà nước thực hiện cải thiện đời sống cán
bộ, công chức và thực hiện các chính sách xã hội. Mức tiền lương cơ bản của các công


17

chức được điều chỉnh từ 210.000đ/tháng năm 1997 lên 540.000đ/tháng năm 2008.
Trong 4 năm 1999-2002, NSNN đã đầu tư khoảng 3.500 tỷ đồng thực hiện
Chương trình 135, trong đó nguồn vốn của ngân sách Trung ương là 3.200 tỷ đồng. Sự
đầu tư này đã góp phần tích cực trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân, giảm nhanh tỷ lệ hộ đói, hộ nghèo, góp phần tích cực trong giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội.
- Việc thực hiện hỗ trợ từ NSNN để mở rộng hợp lý tín dụng ưu đãi và hỗ trợ lãi
suất sau đầu tư, thực hiện các ưu đãi nhằm khuyến khích hoạt động xuất, nhập khẩu đã
giúp đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và toàn cầu, tạo điều kiện thu
hút nhà đầu tư trong và ngồi nước.
Thứ hai, kiểm sốt tốt mức bội chi ngân sách, mức dư nợ vốn vay và thực hiện
nghĩa vụ trả nợ đầy đủ, đúng hạn.

Mức bội chi NSNN đã được kiểm soát tốt. Liên tục từ năm ngân sách 1997 tới
2004, bội chi NSNN luôn được giữ ở mức dưới 5% GDP, tuy mấy năm gần đây bội chi
ngân sách có xu hướng tăng lên (năm 2007 là 14,8%) nhưng vẫn nhỏ hơn chi đầu tư
phát triển, nên đã góp phần tạo thế ổn định kinh tế vĩ mô một cách chắc chắn.
Công tác quản lý nợ đảm bảo chi trả các khoản vay theo đúng cam kết, đồng thời
chủ động đàm phán để giảm, giãn hoặc hỗn nợ, khai thơng quan hệ với các tổ chức
tiền tệ thế giới và các nước, nhờ đó đã giảm được trên 50% số nợ. Tổ chức thành công
nhiều hội nghị tài trợ nhằm thu hút vốn dài hạn, mức ưu đãi để đầu tư hạ tầng, hỗ trợ
cho các doanh nghiệp phát triển, hỗ trợ xóa đói giảm nghèo. Tổ chức có kết quả việc
kiểm sốt vay thương mại thông qua quản lý hạn mức vay hằng năm. Nhờ đó, tổng
mức dư nợ quốc gia và dư nợ chính phủ vẫn nằm trong giới hạn an tồn, khơng gây
ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh tế - xã hội và NSNN.


18

Thứ ba, cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' trong quản lý ngân
sách nhà nước đã và đang từng bước được triển khai thực hiện.
Từ khi quy chế dân chủ ở cơ sở được Chính phủ ban hành, ngân sách của các cấp
chính quyền địa phương, ngân sách của các đơn vị dự toán các cấp đã được công bố
công khai. Một số lĩnh vực: chi đầu tư xây dựng cơ bản, sự nghiệp giáo dục - đào tạo,
sự nghiệp y tế, sự nghiệp khoa học - công nghệ và môi trường, sự nghiệp kinh tế và các
sự nghiệp khác, chi quản lý hành chính và chi chương trình mục tiêu... đã được cơng
khai chi tiết.
1.3.2 Những vấn đề đặt ra đối với ngân sách nhà nước
Thứ nhất, chống thất thu NSNN. Thu ngân sách có nhiều nội dung, song có 2 nội
dung quan trọng nhất, đồng thời cũng dễ bị thất thu nhất là: thuế và các khoản thu
mang tính chất thuế, thu từ kinh tế nhà nước. Đây là vấn đề rất lớn, luôn nổi cộm trong
quản lý ngân sách nhà nước. Để xử lý vấn đề này hiện nay có thể có một số phương
pháp sau:

Một là, Nhà nước cần có chính sách, biện pháp vĩ mơ tích cực nhằm khuyến
khích mọi người dân, các tổ chức khai thác triệt để các tiềm lực phát triển mở rộng sản
xuất kinh doanh. Cần có sự đổi mới nhiều hơn nữa hệ thống các công cụ tài chính để
kích thích nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh.
Hai là, chống thất thu thuế đang là vấn đề nóng bỏng hiện nay. Để chống thất thu
thuế cần xử lý một số vấn đề chủ yếu sau:
- Thường xuyên đổi mới thuế sao cho mức thuế suất đáp ứng được yêu cầu giải
quyết hài hòa quan hệ lợi ích: lợi ích nhà nước, lợi ích nhà kinh doanh và lợi ích người
lao động.
- Đổi mới phương thức thu đáp ứng yêu cầu ''thuận lợi nhất cho người nộp''


19

- Đổi mới chính sách, chế độ đối với các cán bộ, công chức hoạt động trong các
ngành, lĩnh vực thu NSNN theo hướng thực hiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng. Đây là điều
kiện đảm bảo cho số công chức này yên tâm làm việc, tâm huyết với công việc được
Nhà nước giao (thỏa đáng ở đây được hiểu là họ được bảo đảm thu nhập theo chế độ
nhà nước đủ để bảo đảm cho bản thân và gia đình họ có cuộc sống ổn định theo mặt
bằng giá từng thời kỳ); đồng thời, có chế tài xử phạt mang tính răn đe mạnh khi số cán
bộ cơng chức này có hành vi tiêu cực. Điều này có tác dụng chủ động ngăn chặn mọi
hành vi tiêu cực của cán bộ, công chức hoạt động trong ngành thu NSNN.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà
nước về đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, cần đổi mới
cơ chế quản lý vốn, tài sản của nhà nước ở các doanh nghiệp theo hướng gắn trách
nhiệm vật chất chặt chẽ của từng cán bộ công chức được Nhà nước giao làm đại diện
chủ sở hữu và chủ sử dụng tài sản nhà nước với việc bảo toàn, phát huy tài sản của nhà
nước ở doanh nghiệp. Xóa bỏ tình trạng: doanh nghiệp bị thua lỗ, tài sản của Nhà nước
bị thất thoát, song giám đốc doanh nghiệp, kế tốn trưởng giàu lên và ''hạ cánh an
tồn''.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả chống thất thoát trong quá trình thực hiện chi NSNN.
Chi NSNN có nhiều khoản mục, song hai khoản mục quan trọng nhất, đồng thời
cũng thất thốt, lãng phí nhiều nhất là chi thường xun và chi đầu tư phát triển.
- Đối với chi thường xuyên, cần tiết kiệm, đáp ứng được hai yêu cầu:
+ Hợp lý. Hợp lý trong chi thường xuyên là phải thực hiện đúng nguyên tắc ''tiền
nào, của nấy''. Những công việc cần chi, mạnh dạn chi đúng, chi đủ, không cắt xén.
+ Hiệu quả. Việc chi phải tính đến hiệu quả của khoản tiền bỏ ra. Ở đây cần
chống hiện tượng tiêu cực trong chi từ NSNN.


20

- Triệt để triển khai thực hiện Quyết định 192/2001/QĐ-TTg ngày 17-12-2001 và
Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 31-12-2002 đối với tất cả các cơ quan hành chính
nhà nước và các đơn vị sự nghiệp có thu.
- Chi đầu tư phát triển là lĩnh vực lớn, phức tạp, đồng thời cũng là nơi dễ thất
thoát lớn nhất các nguồn vốn đầu tư từ NSNN. Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả
đầu tư được quyết định bởi thị trường. Nói một cách khác, đầu ra là yếu tố quyết định
hiệu quả đầu tư. Nhằm tránh lãng phí trong đầu tư như thực tế xảy ra vừa qua do đầu tư
dàn trải, đầu tư mang tính chất bình qn, khi thẩm định hiệu quả đầu tư của các dự án,
tiêu chí có tính quyết định cần xem xét kỹ là thị trường (đầu ra) của dự án. Chỉ đầu tư
cho những dự án có thị trường chắc chắn, khả thi.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới phân cấp quản lý ngân sách nhà nước giữa các cấp chính
quyền.
Trong hoạt động thực tiễn ở nước ta, muốn đạt được mục đích đó, cần giải quyết
hai vấn đề:
Một là, năng lực của cơ quan chính quyền nhà nước mỗi cấp ở địa phương, đặc
biệt là cơ quan quyền lực nhà nước, thực sự đủ sức thực hiện nhiệm vụ đã được phân
cấp trong quản lý ngân sách nhà nước.
Hai là, tính đồng bộ về mặt thể chế trong việc quy định sự phối hợp giữa các cơ

quan nhà nước trong cùng một cấp chính quyền để quản lý ngân sách nhà nước.
Thứ tư, nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động của các cơ quan có nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát kết quả quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước.
Cấp phát vốn của ngân sách nhà nước phải gắn liền với công tác ''hậu kiểm''.
Công việc này do các cơ quan chức năng (kiểm tốn nhà nước, thanh tra tài chính, cơ
quan tài chính) thực hiện. Bên cạnh đó, một hoạt động hậu kiểm vơ cùng quan trọng và
mang tính quyết định sẽ do cơ quan quyền lực nhà nước tại mỗi cấp (Quốc hội, HĐND



×