Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phân tích và đánh giá tư tưởng nhân quyền trong triết học Phương Tây thời cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.82 KB, 19 trang )

Bài tập nhóm

Mơn Triết học
BÀI TẬP NHĨM - MƠN TRIẾT HỌC

Đề tài:
Phân tích và đánh giá tư tưởng nhân quyền trong triết học Phương Tây
thời cận đại, từ đó có suy nghĩ gì về vấn đề nhân quyền trong quá trình xây
dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam.
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, vấn đề con người nổi lên ở vị trí trung tâm trong những suy tư của
nhân loại. Sự ra tăng ngày càng lớn của những quan điểm ngày càng lớn về
vấn đề con người, khơng chỉ từ phía các nhà khoa học mà cả từ phí chính trị
gia, các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý… đương nhiên gắn liền
vai trò quyết định của nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của sự phát
triển, đặc biệt trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay. Để có phương
hướng nhận thức và giải quyết đúng đắn những vấn đề liên quan đến con
người, đối với chúng ta có một điều kiện khơng thể thiết là phải nắm được
những quan điểm cơ bản về nhân quyền và phương pháp luận nghiên cứu
con người trong triết học phương Tây. Chính vì vậy việc phân tích và đánh
giá tư tưởng con người trong triết học nhân bản phương Tây cận đại giúp
chúng ta có được một cái nhìn đúng đắn và giá trị của triết học phương Tây
cận đại đạt được trong quan niệm nhân quyền của mình.

Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính

1



Bài tập nhóm

Mơn Triết học

I. Tổng quan triết học phương Tây thời cận đại:
1. Lịch sử ra đời triết học phương Tây thời cận đại:
Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các
nước Tây Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị
trước giai cấp phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành
công: Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng tư sản Anh
(1642-1648); Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794).
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành
phương thức sản xuất thống trị, nó đã đặt ra những yêu cầu mới cho khoa
học và kỹ thuật phát triển. Đây là thời kỳ khoa học tự nhiện bắt đầu phân
ngành mạnh, hình thành các bộ mơn độc lập như tốn học, vật lý, hóa học,
sinh vật học,… Đặc trưng của khoa học thời kỳ này là khoa học tự nhiên
thực nghiệm, các tri thức khoa học hầu hết là những sản phẩm của thực
nghiệm, vì vậy dẫn tới thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự
trừu tượng tách rời, cô lập, khơng vận động, khơng phát triển…
Chính điều kiện kinh tế - xã hội và khoa học tự nhiên thời cận đại quy
định đặc trưng về mặt triết học thời kỳ này:
• Thứ nhất, đây là thời kì thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ
nghĩa duy tâm, của những tư tưởng vơ thần đối với hữu thần luận.
• Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời kì này mang hình thức của chủ nghĩa
duy vật siêu hình, máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ
biến trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học.
• Thứ ba, đây là thời kì xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về
lĩnh vực xã hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thốt khỏi quan điểm duy
tâm trong việc giải thích xã hội và lịch sử.Những đặc điểm ấy thể hiện

rõ nét trong quan niệm của một số triết gia, điển hình như B.Xpinơda,
Ph.Bêcơn. T.Hơpxơ, R.Đêcactơ, G.Lamettri, Đ.Điđơrơ, P.Hơnbách,
G.G.Rutxơ.
Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính

2


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

• Thứ tư, trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật vô thần của
thời cận đại, chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những cải
cách nhất định. Nhu cầu ấy được phản ánh đặc biệt trong triết học duy
tâm chủ quan của nhà triết học thần học người Anh G.Beccơli.
2. Đặc điểm của triết học phương Tây thời cận đại:
Triết học phương Tây thời kỳ cận đại là thế giới quan của giai cấp tư
sản mới, một giai cấp cách mạng đấu tranh chống quý tộc và nhà thờ Cơ đốc
giáo cho nên nó đặc trưng của chủ nghĩa duy vật tiến bộ.
Bên cạnh đó sự phản kháng của nhà thờ Cơ đốc giáo và sự dung hịa
về lợi ích của hai giai cấp địa chủ và tư sản trong những cuộc cách mạng
thiếu triệt để ở Anh, Hà Lan làm cho chủ nghĩa duy tâm và các hình thực
thần luận hay phiếm thần luận tiếp tục tồn tại.
Ngoài vấn đề bản thể luận triết học thời kỳ này đặc biệt quan tâm đến
vấn đề nhận thức luận, vấn đề phương pháp nhận thức được ưu tiên phát
triển làm xuất hiện các đường lối duy cảm và duy lý. Phương pháp siêu hình

dần dần thắng thế phương pháp tư biện duy lý thời trung cổ.
II. Các tư tưởng nhân quyền trong triết học phương Tây thời cận đại;
1. Phranxis Bêcơn (1561-1621):
Phranxis Bêcơn (Francis Bacon) là nhà triết học vĩ đại thời cận đại.
C.Mác coi Ph.Bêcơn là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực
nghiệm. Bắt đầu từ Ph.Bêcơn, lịch sử triết học Tây Âu bước sang một giai
đoạn phát triển mới với những màu sắc riêng.
Ph.Bêcơn sinh trong một gia đình quý tộc Anh. Sau khi tốt nghiệp
Trường Đại học Kembritgiơ, ông công tác nhiều năm trong ngành ngoại giao
cho vương triều Xtiua. Mặc dù sống ở nước Anh trước thời kì cách mạng tư
sản, nhưng Ph.Bêcơn là người nhiệt liệt ủng hộ những cải cách tư sản nhằm
phát triển đất nước, ủng hộ sự phát triển của khoa học và triết học. Những
Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính

3


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

tác phẩm lớn của ơng là Đại phục hồi các khoa học (1605), Công cụ mới
(1620)...
Nhân bản học và quan niệm về tôn giáo
Ph.Bêcơn coi con người là sản phẩm cuả tạo hoá, do vậy khoa học về
con người cũng là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của Arixtốt về
con người, Ph.Bêcơn chia linh hồn thành các dạng "linh hồn thực vật", "linh

hồn động vật", "linh hồn lý tính". Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm tính,
có cả ở thực vật và động vật. Trong con người, linh hồn cảm tính là một dạng
chất lỏng, pha loãng trong cơ thể. Chúng vận động theo các dây thần kinh,
tựa như các đường ống, tác động lên các giác quan, điều khiển chức năng
sống của cơ thể. Bộ phận linh hồn này có thể bị huỷ hoại cùng cơ thể khi con
người chết đi. Linh hồn lý tính có nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là một khả
năng kì diệu mà chúa đã ban cho con người, mang tính thần thánh. Vì con
người có cả hai dạng linh hồn nên con người vừa rất gần với động vật lại vừa
có cái gì đó siêu phàm, và do đó, bản chất con người khơng cho phép con
người theo lập trường hồn tồn vơ thần. Con người cần có tơn giáo để vượt
qua những lúc con người mềm yếu, bất lực. Tôn giáo mang lại cho con người
niềm tin nhưng nhà thờ không được phép dùng các biện pháp chống lại các
nhà vô thần, không được cản trở các hoạt động khoa học, nghệ thuật của con
người.
Nhìn chung, quan niệm trên của Ph.Bêcơn thể hiện sự thoả hiệp giai
cấp tư sản Anh thời đó với các vấn đề tôn giáo.
2. Tômát Hôpxơ (1588-1679)
Tômát Hôpxơ (Thomas Hobbs) là nhà triết học nổi tiếng, đại biểu của
chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII, người có cơng cụ thể hoá và phát triển
nhiều quan niệm duy vật của Ph.Bêcơn. Ơng sinh trong một gia đình linh
mục ở nơng thôn nước Anh. Ngay từ nhỏ ông đã học và thơng thạo tiếng
Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chun ngành: Quản lý chính

4


Bài tập nhóm


Mơn Triết học

Latinh và tiếng Hy Lạp cổ. Khi cịn là sinh viên Trường đại học Tổng hợp
Ơxpho, ông tích cực nghiên cứu các vấn đề vật lý và lôgic. Trong thời gian
nổ ra cách mạng tư sản Anh (1642-1648), ông cùng nhiều bạn bè lưu vong
sang Pháp và nhiều nước khác. Đây là thời kì ơng viết nhiều tác phẩm triết
học.
a. Quan niệm của T.Hôpxơ về bản chất và đối tượng của triết học
Cũng như Ph.Bêcơn, T.Hôpxơ cho rằng tri thức là sức mạnh, do vậy
phải tăng cường phát triển các khoa học, nhất là triết học. Lý luận triết học
phải phục vụ thực tiễn của con người vì nó giúp cho con người hiểu biết về
các sự vật. T.Hơpxơ là người cụ thể hố và phát triển các quan niệm duy vật
của Ph.Bêcơn trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Ông loại bỏ nhiều yếu
tố thần học và tiếp tục cuộc đấu tranh cho thế giới quan khoa học duy vật.
Các vấn đề chính trị xã hội được ông đặt lên hàng đầu.
Khác với Ph.Bêcơn, T.Hơpxơ khẳng định thần học là lĩnh vực hồn
tồn thuộc về tôn giáo; sự ngu dốt, sợ hãi sinh ra tơn giáo. Cịn triết học là
hoạt động trí tuệ của con người nhằm khám phá ra bản chất của sự vật. Tất
cả những lĩnh vực khoa học như hình học, vật lý học, đạo đức... đều chỉ là
những lĩnh vực khác nhau của triết học. Trong một mức độ nhất định,
T.Hôpxơ đã đồng nhất đối tượng của triết học với đối tượng của các khoa
học cụ thể. Tuy nhiên cách đặt vấn đề của ơng mang tính tiến bộ, với mong
muốn loại bỏ hoàn toàn thần học và chống lại thuyết về chân lý hai mặt của
Ph.Bêcơn.
Theo T.Hôpxơ, vấn đề trung tâm của triết học là vấn đề con người.
Các tác phẩm Về con người (1658), Về người công dân (1642)...của ông đều
bàn về vấn đề này. Từ việc coi con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa
là một thực thể đạo đức và tinh thần, ông chia triết học thành triết học tự
nhiên và triết học đạo đức, hay cịn gọi là triết học xã hội.


Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính

5


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

b. Quan niệm về thế giới
T.Hơpxơ thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới. Đó là sự tồn tại
có trước con người, khơng phải do chúa trời sinh ra. Theo quan điểm duy
danh, ông khẳng định thế giới chỉ tồn tại những sự vật riêng lẻ. Mọi khái
niệm như "thực thể", "vật chất"... đều chỉ là những tên gọi. Ơng nói, "trong
thế giới chẳng có gì chung cả, ngồi các tên gọi". Tuy nhiên ông không phủ
nhận cái chung trong trí tuệ con người, mặc dù quy nó thành các ngơn từ, tên
gọi. Từ đây, ông phủ nhận nội dung bản thể luận của tất cả các phạm trù
mang tính khái quát của khoa học. Thậm chí ơng coi "chân lý khơng phải là
tính chất của các sự vật mà là tính chất của các suy diễn của chúng ta về các
sự vật". "Giữa các tên gọi và các sự vật chẳng có sự giống nhau nào cả, và
khơng thể có một sự so sánh nào cả".
Nói chung, trong quan niệm của T.Hơpxơ về thế giới, ông là nhà duy
vật nhưng lập trường duy danh đã làm giảm giá trị các quan niệm duy vật
của ơng. Ơng triệt để hơn so với Ph.Bêcơn trong quan niệm về giới tự nhiên,
về quan hệ giữa triết học và thần học, v.v.. nhưng chủ nghĩa duy danh đã dẫn
ơng đến xa rời lập trường đó.

c. Quan niệm về con người
Con người, theo T.Hôpxơ là một thực thể thống nhất giữa tính tự nhiên
và tính xã hội. Về bản tính tự nhiên, mọi người khi sinh ra đều như nhau, sự
khác nhau nhất định giữa họ không lớn. Nhưng con người ai cũng có khát
vọng và nhu cầu riêng của mình. Đây là tiền đề để con người làm điều ác.
Mỗi người đều ích kỉ, vì lợi ích riêng của mình mà có thể chà đạp tất cả.
"Con người là một động vật độc ác và ranh ma hơn cả chó sói, gấu và rắn".
Mỗi người hành động trước tiên là "vì tính ích kỉ u bản thân mình chứ
Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chun ngành: Quản lý chính

6


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

khơng phải vì xã hội, khơng phải vì lợi ích của người khác". Vì thế mà đẩy
loài người đến chiến tranh liên miên, gây ra bao nhiêu đau khổ và chết chóc.
Cơng lý và khoa học về pháp quyền, bởi vậy, luôn luôn bị bác bỏ bởi những
ngịi bút và thanh kiếm. Theo T.Hơpxơ, bản tính tự nhiên của con người đó
là tính ích kỉ; trạng thái xã hội mà con người sống là "một cuộc chiến tranh
của tất cả chống lại tất cả".
Tuy nhiên, theo T.Hôpxơ, "trạng thái tự nhiên" trên đây của con người
ngày nay khơng cịn nữa; nó tồn tại một cách trọn vẹn ở thời nguyên thuỷ xa
xưa. Tư tưởng của T.Hôpxơ được Đácuyn áp dụng vào thế giới động vật và
phát hiện ra quy luật đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên của các lồi sinh

vật. Sau đó những người theo chủ nghĩa Đácuyn xã hội truyền bá, áp dụng
trở lại xã hội.
Quam niệm của T.Hôpxơ mặc dù chưa đánh giá đúng mức đặc trưng
riêng của loài người so với lồi vật, chưa thấy được bản tính xã hội, tính
nhân loại của con người, nhưng nó mang những yếu tố hợp lý nhất định: Một
mặt, nó cho thấy sự tương đồng nào đó giữa lồi người và lồi vật, mặt khác,
nó chỉ ra rằng, chính lợi ích của các cá nhân là một trong những động lực
trực tiếp của hoạt động của con người và phát triển của xã hội.
d. Quan niệm về xã hội và tôn giáo
Xuất phát từ quan niệm trên đây về trạng thái tự nhiên của con người,
T.Hôpxơ khẳng định khả năng bẩm sinh của con người càng bình đẳng bao
nhiêu thì nó càng bất hạnh bấy nhiêu, vì cuộc đấu tranh sinh tồn của mỗi
người càng khó khăn và phức tạp. Ai cũng phải lo sợ cho tính mạng và cuộc
sống của mình. Và chính điều đó đã thúc đẩy mọi người đi đến kí kết khế
ước xã hội, thiết lập nên nhà nước. Do vậy, mỗi dân tộc đều phải trải qua hai
giai đoạn phát triển: giai đoạn tự nhiên và giai đoạn xã hội cơng dân (giai
đoạn có nhà nước).

Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính

7


Bài tập nhóm

Mơn Triết học


Nhà nước là sự sáng tạo cao nhất mà con người có thể làm được. Sau
khi nhân dân lập ra nhà nước, nhà nước đóng vai trò điều hành sự phát triển
của xã hội, xử phạt những ai vi phạm lợi ích chung của mọi người. Nhà nước
"tựa như một con người nhân tạo" mà chính phủ là linh hồn của con người
đó. Tuy nhiên sự xuất hiện của nhà nước cũng có mặt hạn chế, ở chỗ nó làm
giảm các khát vọng tự nhiên của con người, do đó tự do của con người bị thu
hẹp. Nhưng con người cần phải có nhà nước để được sống yên ổn. Đạo luật
của nhà nước là tất yếu. Nhiệm vụ của nhà nước là phải trừng phạt, nhưng
cơng minh; mỗi cá nhân có nghĩa vụ phải tn theo.
Mặc dù cho rằng, sự ngu dốt, sự sợ hãi sinh ra tôn giáo nhưng
T.Hôpxơ lại khẳng định bản thân tôn giáo là cần thiết để khuyên răn mọi
người làm theo các chuẩn mực của nhà nước, tức làm theo luật pháp. Đó là
cơng cụ để nhà nước dễ dàng chỉ đạo xã hội hơn, nhưng nhà nước không
phải tuân theo nhà thờ mà nhà thờ phải phục tùng nhà nước. Các nhà vơ thần
tuy khơng có tội nhưng là những người suy nghĩ nơng cạn.
Nhìn chung, triết học xã hội của T.Hơpxơ có nhiều mặt hạn chế trong
quan niệm về bản chất, nguồn gốc của nhà nước, cũng như về bản chất con
người. Ơng cịn chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật tự nhiên trong
việc xem xét các hiện tượng xã hội. Tuy nhiên, việc ông coi nhà nước là do
con người lập ra để phục vụ con người là một đòn giáng mạnh vào các quan
niệm duy tâm, thần thánh hoá chế độ phong kiến đang thối nát, suy tàn. Việc
khẳng định cần thiết phải xoá bỏ trạng thái tự nhiên của con người là thể
hiện xu hướng tư sản tiến bộ địi đấu tranh xố bỏ thần quyền và đẳng cấp
của chế độ phong kiến, mở rộng dân chủ và xã hội.
3. Rơnê Đêcáctơ (1596-1654)
Rơnê Đêcáctơ (Rene Descartes) là nhà triết học, nhà bách khoa tồn
thư vĩ đại người Pháp. Có thể nói, cùng với Ph.Bêcơn, "Đêcáctơ đã tạo ra
một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học" Tây Âu cận đại.
Nhóm 4 Lớp K20Q
sách


Chuyên ngành: Quản lý chính

8


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

Rơnê Đêcáctơ sinh trong một gia đình q tộc miền Nam nước Pháp.
Mồ cơi mẹ từ nhỏ, ông được bố cho học ở một trường phổ thơng nổi tiếng ở
Liaflet. Bất mãn với chương trình học thời đó, ơng tun bố rằng, kết quả
duy nhất trong thời gian học phổ thông là làm cho ông dốt thêm! Ông đặc
biệt say mê nghiên cứu về triết học và khoa học tự nhiên. Ông để lại nhiều
tác phẩm nổi tiếng như Các quy tắc chỉ đạo lý tính (1630), Thế giới (1633),
Các nguyên lý của triết học (1644), Suy diễn về phương pháp (1637-1638).
R.Đêcactơ là nhà triết học nhị nguyên, chủ yếu bàn về nhận thức luận
và phương pháp luận và là người sáng lập chủ nghĩa duy lý.
a. Quan niệm của R.Đêcactơ về bản chất và vai trò của triết học
Cũng như Ph.Bêcơn, R.Đêcactơ đặc biệt đề cao vai trò của triết học
đối với đời sống của con người. Theo ơng, trình độ phát triển của tư duy triết
học là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá mức độ văn minh của con
người và sự ưu việt của dân tộc này so với dân tộc khác. Bởi vì, "chỉ có triết
học là phân biệt chúng ta khác với bọn thổ dân và bọn mọi rợ, và dân tộc nào
văn minh hơn, có học thức hơn thì dân tộc đó có triết lí tốt hơn". "Triết học
là sự thể hiện cơ bản nhất sự thông thái của con người không chỉ trong lĩnh
vực nhận thức mà cả trong các công việc khác."
Trong quan niệm của R.Đêcactơ, triết học theo nghĩa rộng là tổng thể
tri thức của con người về nhiều lĩnh vực; theo nghĩa hẹp là siêu hình học,

được coi như nền tảng của hệ thống thế giới quan. R.Đêcactơ cho rằng có sự
thống nhất hữu cơ giữa các khoa học vì đối tượng chung của chúng là
Thượng đế, giới hiện thực và con người như một chỉnh thể thống nhất. Mục
đích chung của chúng là khám phá ra chân lý. Toàn bộ thế giới quan khoa
học của con người "tương tự như một cái cây, mà bộ rễ của nó là siêu hình
học, thân cây là vật lý học, cịn tồn bộ các khoa học khác có thể quy thành y
học, cơ học và đạo đức học thì như những chiếc cành mọc ra từ thân cây đó".

Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chun ngành: Quản lý chính

9


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

Nhiệm vụ của triết học là: thứ nhất, xây dựng nguyên lý, phương pháp
luận cơ bản làm cơ sở cho các khoa học khám phá chân lý, đồng thời hoàn
thiện và phát triển chúng; thứ hai, giúp con người thống trị và làm chủ được
giới tự nhiên trên cơ sở nhận thức các quy luật của nó. Muốn vậy, "cần phải
thay thế thứ triết học tư biện bằng một thứ triết học thực tiễn, theo đó nhận
biết được sức mạnh... tất cả các sự vật xung quanh chúng ta cũng rõ ràng như
chúng ta biết các nghề thủ công khác nhau của những người thợ lành nghề.
Từ đó chúng ta có thể ngang tầm với họ, sử dụng những lực lượng đó trong
tất cả mọi lĩnh vực, và như vậy trở thành chủ nhân và chúa tể giới tự nhiên".
Quan niệm trên là quan niệm mang tính cách mạng. Nó khẳng định vai trị

đặc biệt quan trọng của sự phát triển của khoa học đối với đời sống xã hội,
đồng thời là bước tiếp cận ban đầu cho một quan niệm duy vật về bản chất
và nhiệm vụ của triết học.
Để xây dựng một thứ triết học mới, ông bắt đầu từ việc phê phán
mạnh mẽ các tư tưởng của giáo hội và kinh viện. Gạt bỏ những đạo lý kinh
viện của tôn giáo, R.Đêcactơ đưa lý trí lên hàng đầu trong lý luận nhận thức.
R.Đêcactơ cho rằng phải coi lý tính, trí tuệ con người là toà án thẩm định và
đánh giá mọi tri thức, quan niệm mà nhân loại đã đạt được, nghi ngờ mọi cái
mà thường ngày vẫn cho là đúng. Nghi ngờ là điểm xuất phát của phương
pháp khoa học; nghi ngờ là để tìm ra chân lý, đó chỉ là tiền đề chứ không
phải kết luận. Sở dĩ R.Đêcactơ coi nghi ngờ là điểm xuất phát là vì, theo ơng,
khơng thể nghi ngờ được là chính bản thân chủ thể đang nghi ngờ. Ơng viết:
Tơi đang hồi nghi sự tồn tại của tất cả, nhưng tơi khơng thể hồi nghi sự tồn
tại của chính mình, vì tơi đang nghi ngờ. Nếu tơi khơng tồn tại thì làm sao tơi
lại có thể đnag nghi ngờ được. Nhưng mặt khác, chính vì tơi đang nghi ngờ
thì tơi mới biết rằng mình đang tồn tại. Bởi vậy, tôi đang tồn tại là nhờ việc
tôi đang nghi ngờ. Mà nghi ngờ thì cũng là suy nghĩ, là tư duy. Do đó, ơng
đưa ra ngun lí: "Tơi tư duy, vậy tơi tồn tại" (Cogito, ergo sum).

Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính

10


Bài tập nhóm

Mơn Triết học


Ở đây, R.Đêcactơ đã lầm khi chứng minh sự tồn tại của con người
thông qua tư duy. Đáng chú ý là từ tiền đề trên, R.Đêcactơ đi đến xây dựng
tồn bộ thế giới quan của mình, chứng minh sự tồn tại của các sự vật thông
qua ý niệm về chúng trong ý thức của con người. Ví dụ, theo ơng, lửa là vật
có thật, nếu khơng có thật thì tại sao ai cũng có một ý tưởng nhất định về nó.
Tuy nhiên, R.Đêcactơ khơng coi tồn bộ thế giới chỉ là sản phẩm của tư duy,
không có ý định chứng minh tính ý niệm của tồn bộ thế giới hiện thực;
ngược lại, ông vẫn khẳng định sự tồn tại khách quan của chúng. Điều đó
cũng có nghĩa là R.Đêcactơ không phải nhà duy tâm chủ quan như
G.Béccơli.
Bên cạnh những hạn chế nói trên, luận điểm "Cogito, ergo sum" của
R.Đêcactơ, xét trong bối cảnh bấy giờ, có ý nghĩa tích cực: nó chống lại
quan niệm giáo điều, giáo lý nhà thờ, đồng thời nó đề cao vai trị đặc biệt của
lý tính, của trí tuệ con người, coi đó là chuẩn mực đánh giá suy nghĩ và hành
động của con người; nó có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ sự phát triển của khoa
học lý thuyết hồi đó.
b. Quan niệm về con người
Ơng khẳng định, con người được cấu thành từ linh hồn và thể xác.
Theo quan điểm nhị ngun luận, ơng hồn tồn tách biệt thể xác và linh
hồn, coi chúng có nguồn gốc từ hai thực thể tư duy và quảng tính hồn tồn
tách biệt. Ông coi linh hồn con người là một thực thể mà bản chất của nó là
tư duy, tồn tại khơng cần đến và khơng phụ thuộc vào bất kì một sự vật vật
chất nào. Linh hồn là bất diệt, nó khơng bị phân huỷ khi con người chết. Con
người có được là do Thượng đế ghép linh hồn vào thể xác. Cơ thể con người
là chỗ trú chân tạm thời của linh hồn khi anh ta sống.
Tóm lại, quan niệm triết học của R.Đêcactơ là hệ thống có nhiều yếu
tố hợp lý nhưng cũng có nhiều mâu thuẫn. Điều đó thể hiện sự bế tắc của lập
trường nhị nguyên trong việc giải quyết hàng loạt vấn đề của triết học và
Nhóm 4 Lớp K20Q

sách

Chun ngành: Quản lý chính

11


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

khoa học. Nó thể hiện sự trăn trở của ông khi muốn xây dựng một hệ thống
triết học và khoa học thực sự trong bối cảnh ảnh hưởng của các thế lực tôn
giáo trong xã hội cịn đang rất mạnh. Cơng lao vĩ đại của R.Đêcactơ là ở chỗ
ông đã đặt ra hàng loạt lý luận mới đối với sự phát triển của triết học và khoa
học sau này. Học thuyết của ơng có ảnh hưởng to lớn đối với nhiều nhà khoa
học và triết học. Một trong những người chịu ảnh hưởng lớn của ông là nhà
triết học duy vật vô thần người Hà Lan, Bêkênit Xpinôda (1632-1677).
4. Giooc Beccơli (1685-1753)
Giooc Beccơli (George berkeley) là nhà triết học nổi tiếng người Anh,
đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Ông sinh trong một gia
đình quý tộc miền Nam Ailen. Năm 15 tuổi ông đã học tại Đại học Tổng hợp
Đublin. Ông say mê nghiên cứu thần học, toán học, triết học cho đến cuối
đời. Ơng có nhiều tác phẩm như Kinh nghiệm của thuyết thị giác mới
(1709), Khái niệm về các nguyên lý của nhận thức con người (1710)...
Quan niệm về con người
Cũng như các nhà duy tâm khác, G.Beccơli quan niệm con người bao
gồm linh hồn và thể xác; linh hồn là cái quyết định. Thể xác thuộc về các vật
thể tự nhiên, tức các cảm giác. Do vậy, thể xác tồn tại được là nhờ linh hồn
cảm nhận nó. Thể xác phải tuân theo cái gậy chỉ huy của linh hồn.

Đối với linh hồn con người, G.Beccơli cho rằng, "tồn tại nghĩa là cảm
nhận". Có nghĩa là linh hồn chỉ tồn tại khi nó cảm nhận các sự vật khác mà
trước hết là cảm nhận thể xác của con người.
5. Điđơrô và các nhà triết học Khai sáng Pháp thế kỉ XVIII
Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là một giai đoạn phát triển
quan trọng trong tiến trình phát triển tư tưởng triết học Tây Âu và thế giới.
Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là sự kế tục và phát triển mới về chất
Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính

12


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

các khuynh hướng tư tưởng bài trừ siêu hình học thế kỉ XVII, cũng như đánh
giá lại các giá trị tuyền thống. Nó bắt đầu từ việc phê phán không thương
tiếc các quan niệm cũ về thế giới và con người.
Là vũ khí lí luận của giai cấp tư sản Pháp trong thời kì chuẩn bị cho
cộc đại cách mạng tư sản Pháp 1789, được hình thành bởi các nhà Khai sáng
Pháp, triết học Khai sáng Pháp có nhiệm vụ thu hút, giác ngộ, tập hợp đông
đảo mọi tầng lớp tiến bộ trong xã hội, hướng họ tới cuộc đấu tranh cách
mạng lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng chế độ tư sản. Chính vì vậy mà
triết học Khai sáng Pháp có nội dung cơ bản là duy vật, tiến bộ, nó đề cập
nhiều đến tiến bộ xã hội, tự do của con người...
Cùng với sự hưng thịnh của văn hố Pháp thời kì này, trên lĩnh vực tư

tưởng có nhiều nhà khai sáng, họ vừa là các nhà triết học, vừa là những
người uyên bác về nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, khoa học. Tiêu biểu là
Sáclơ Đờ Môngtexkiơ (1689-1775), Phrăngxoa Mari Vônte (1694-1778),
Giăng Giắc Rutxơ (1712-1778), Đeni Điđrơ (1713-1784), Giulen Ơphrơ
Lamettri (1709-1751), Hônbách (1729-1789), Henvêtiúyt (1715-1771)... Ở
đây chỉ đề cập đến tư tưởng triết học của các nhà duy vật vô thần Pháp mà
người giữ vai trị lãnh đạo là Đ.Điđrơ.
Các nhà triết học duy vật vô thần Pháp thế kỷ XVIII mà các đại biểu
xuất sắc là Lamettri, Hônbách, Điđrô, Henvêtiúyt (nhóm Bách khoa tồn thư
Pháp) đã góp phần quan trọng vào sự phát triển triết học duy vật vô thần. Họ
đấu tranh kiên quyết chống lại tôn giáo, kêu gọi đẩy mạnh nghiên cứu giới tự
nhiên. Họ cho rằng, không nắm được các quy luật của tự nhiên thì con người
khơng thể có hạnh phúc. Mục đích của khoa học và triết học là phải nhận
thức và chinh phục giới tự nhiên.
Tư tưởng triết học của Đ.Điđrô
Đ.Điđrô sinh tại một thành phố ở Đơng Bắc nước Pháp, trong một gia
đình thợ thủ công. Sau nhiều năm học ở Pari, do chịu ảnh hưởng tư tưởng
Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính

13


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

của các nhà khai sáng, ơng từ bỏ ý định thành nhà hoạt động tôn giáo, như

mong muốn của người cha. Ông là người khởi xướng và chủ biên bộ Bách
khoa toàn thư của khoa học, nghệ thuật và thủ công nghiệp (1751-1780).
Đây là một trong những bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của thế giới - một
trong những di sản văn hoá vĩ đại không chỉ của nước Pháp mà cả Tây Âu
thế kỉ XVIII nói chung. Nó có vai trị rất to lớn trong việc xây dựng và
truyền bá thế giới quan khai sáng. Ơng có nhiều tác phẩm như Tư tưởng triết
học (1746), Cuộc dạo chơi của nhà hoài nghi luận hay là Alleax (1747), là
tác giả nhiều tác phẩm văn học mang đầy tính triết lý như Nữ tu sĩ, Người
cháu của ông Ramô...

a. Quan niệm về con người
Đ.Điđrô cho rằng con người được cấu thành từ thể xác và linh hồn.
Thể xác và linh hồn thống nhất hữu cơ với nhau. Linh hồn khơng có nguồn
gốc từ chúa mà là một tổng thể các hiện tượng tâm lý. Bản thân nó cũng là
đặc tính của vật chất. Ơng viết: "Khơng có cơ thể con người thì nó (tức linh
hồn) khơng là cái gì cả. Tơi khẳng định rằng, khơng có cơ thể con người thì
khơng thể giải thích được cái gì cả". Ơng nhấn mạnh, cơ thể con người là khí
quan vật chất của tư duy, ý thức cũng như mọi q trình tâm lý của anh ta.
Ơng đã nhận thấy, nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh môi
trường xung quanh nhưng chưa hiểu được rằng, bản thân mơi trường và hồn
cảnh đó cũng là sản phẩm của hoạt động con người, và vì vậy, cả con người
lẫn hồn cảnh sống của nó đều mang tính lịch sử. Đây cũng là hạn chế chung
của các triết học trước Mác.
b. Quan niệm về xã hội - tơn giáo

Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính


14


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

Là nhà triết học duy vật triệt để và vô thần nhất của triết học Khai
sáng Pháp thế kỷ XVIII, Đ.Điđrô phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, coi
Thượng đế chỉ là sự thần thánh hố các điều kiện sống hiện thực của con
người. Khơng phải tôn giáo sáng tạo ra con người mà là con người sáng tạo
ra tơn giáo.
Ơng viết: "Nếu như lý tính là của trời cho và tín ngưỡng cũng tương tự
như vậy, nghĩa là trời cho chúng ta hai vật không thể dung hợp được với
nhau… Để loại trừ bế tắc đó, cần phải thừa nhận rằng tín ngưỡng là một
ngun lý huyền thoại, khơng tưởng". Ơng chỉ ra sự khác biệt giữa khoa học
và tơn giáo: Khoa học thì hướng tới vũ trang cho chúng ta quan niệm đúng
về thế giới, làm cho con người lớn mạnh thêm lên, cịn tơn giáo thì chỉ đem
lại những điều ảo tưởng, làm cho con người mềm yếu đi. "Thượng đế của
những người Cơ đốc giáo - đó là người bố chỉ coi trọng những đám mây, chứ
chẳng để tâm gì đến những đứa con của mình" trên trần gian cả.
Đ.Điđrơ kịch liệt phê phán những quan niệm đạo đức của tôn giáo, coi
đó chỉ là trị giáo dục con người tới chỗ cả tin vào số mệnh. Thực chất, tôn
giáo chỉ là sợi dây cương yếu ớt ngăn chặn các hành vi phạm tội của con
người. Khẳng định chính mơi trường và hồn cảnh tạo nên bộ mặt trí tuệ và
đạo đức của con người, Đ.Điđrơ kêu gọi xố bỏ các quan hệ phong kiến của
nước Pháp, cái đã thông qua tôn giáo làm hư hỏng con người, đồng thời kêu
gọi xây dựng một cuộc sống hiện thực chứ đừng tin vào tôn giáo.
Tuy nhiên Đ.Điđrô chưa nhận thấy cơ sở kinh tế - xã hội của sự tồn tại
tôn giáo. Ông mới chỉ thấy được nguồn gốc nhận thức của nó là từ sự kém

hiểu biết và từ tâm lý sợ chết của con người. Vì vậy, ơng đã sai lầm khi cho
rằng, để xố bỏ tơn giáo chỉ cần xoá bỏ nỗi lo sợ của con người, chỉ cần mở
rộng hệ thống giáo dục trong nhân dân, đồng thời tiêu diệt giới tu hành.
Tuy còn hạn chế như trên nhưng sự phê phán tôn giáo của Đ.Điđrô đã
mang nhiều yếu tố tích cực trong bối cảnh lịch sử lúc đó của nước Pháp và
Tây Âu.
Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính

15


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

III. Đánh giá về tư tưởng nhân quyền trong triết học phương Tây thời
kỳ cận đại:
Sau thời kỳ Phục hưng là thời kỳ Cận đại. Thời kỳ này khoa học tự
nhiên rất phát triển, đã có rất nhiều nhà khoa học đã dám đứng lên chống lại
hệ tư tưởng thống trị tơn giáo thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình để bảo
vệ khoa học. Đây là giai đoạn phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa đang
dần thay thế phương thức sản xuất Phong kiến. Các cuộc cách mạng Tư sản
nổ ra ở khắp nơi và một trong các cuộc cách mạng triệt để nhất là cuộc cách
mạng Tư sản Pháp. Các nhà triết học Khai sáng thực hiện cuộc đấu tranh này
là J. Lamêtri, D. Điđrô, C. Henvêtiuýt, H. Hônbách. Họ xây dựng nên thế
giới quan vơ thần, chống lại siêu hình học.
Theo các nhà triết học Khai sáng thì con người là một bộ phận của giới

tự nhiên, là một động vật suy nghĩ nhờ giác quan. Tư tưởng của con người
chịu sự quy định của cấu trúc cơ thể trong sự tác động qua lại với môi trường
và điều kiện sống. Con người là một thể thống nhất hữu cơ giữa hai mặt thể
xác và linh hồn. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của xã hội nên cần
thay đổi hoàn cảnh xã hội, quan hệ phong kiến…Cơ sở để cải tạo cuộc sống
hiện tại, để vươn tới con người là lý tính. Lý tính của con người là sản phẩm
do sự tác động của vật chất đến các giác quan gây nên cảm giác. Cảm giác là
nguồn gốc của lý tính, lý tính của con người bắt nguồn từ kinh nghiệm.
Phương pháp để đạt tới lý tính là quan sát và thực nghiệm. Như vậy, các nhà
Khai sáng đấu tranh vì thắng lợi của “vương quốc trí tuệ” trên cơ sở tự do
chính trị, bình quyền. Các nhà Khai sáng coi đấu tranh vì quyền lợi mà
thiên nhiên ban tặng cho mình là “con người tự nhiên”. Việc tuyên truyền
cho “con người tự nhiên” dẫn đến khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” là
khẩu hệu phổ biến thời cách mạng Tư sản Pháp. Các nhà triết học Khai sáng
cho rằng bản tính con người là khơng ác và con người cần được giáo dục
đúng đắn có nghĩa là được khai sáng. Con người được giáo dục đúng đắn sẽ
Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chun ngành: Quản lý chính

16


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

trở thành “kẻ ích kỷ sáng suốt”với nguyên tắc của nó là “hãy tự lo liệu cuộc
sống cho mình và người khác cũng được sống”. Theo ngun tắc này thì một

chế độ thích hợp sẽ là chế độ đảm bảo sự bình đẳng của mọi cơng dân,
không phụ thuộc vào tầng lớp, dân tộc… Một chế độ như vậy sẽ mở ra khả
năng làm lợi cho mỗi người, ít bị đau khổ và thoả mãn một cách tối đa,
không làm thiệt hại tới những quyền lợi cá nhân của những người khác.
Tư tưởng nhân quyền xuất hiện rất phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại. Trong khi quan hệ sản xuất. Phong kiến không cịn phù hợp thì sự ra
đời của phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa đã thay thế một cách hoàn
chỉnh. Tư tưởng nhân quyền cũng đã tạo ra một tiền đề vơ cùng quan trọng
để thúc đẩy sự hình thành và phát triển chủ nghĩa Tư bản. Như chúng ta đã
biết, một trong hai điều kiện để có được nền kinh tế thị trường đó là sự “tự
do”. Để có thể phát triển nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường thì tư
tưởng của các nhà Tư sản lúc bấy giờ là tìm cách giải phóng con người, giải
phóng sức lao động. Con người phải được tự do về thân thể, tự do đi lại, tự
do cư trú, tự do tín ngưỡng v.v… và được tự do bán sức lao động của mình.
Thời kỳ này quyền con người rất được đề cao. Điều này hoàn toàn phù hợp
với quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất thì nó sẽ mở đường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, còn nếu khơng phù hợp thì nó sẽ kìm hãm thậm chí cịn đẩy lùi sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chính nhờ sự phù hợp đó mà kinh tế Tư bản
chủ nghĩa thời kỳ này vô cùng phát triển.
IV. Ảnh hưởng của tư tưởng nhân quyền trong quá trình xây dựng và
phát triển kinh tế thị trường Việt Nam:
“Ôn cố tri tân”, nhìn lại lịch sử để rồi liên hệ và ứng dụng cho thực tiễn
của chúng ta hiện nay những giá trị của lịch sử. Nước Việt Nam ta đang
Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chun ngành: Quản lý chính


17


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

trong giai đoạn chuyển mình, xây dựng chủ nghĩa Xã hội có nền kinh tế phát
triển cao và tồn diện nhằm đưa nước ta thốt khỏi tình trạng nghèo nàn lạc
hậu. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng nền kinh tế thị
trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa. Phấn đấu cho một xã hội tốt đẹp, dân
giầu - nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Qua hơn 20 năm đổi
mới chúng ta đã giành được rất nhiều những thành tựu kinh tế đáng kể, bộ
mặt của đất nước đã thay đổi từng ngày, đời sống của nhân dân ngày một
được nâng cao.
Nhìn lại thời kỳ trước đổi mới (thời kỳ bao cấp). Chúng ta thực hiện
nền kinh tế tập trung bao cấp, ngăn sông cấm chợ, thị trường bị chia cắt,
khơng có sự thơng thương giữa các vùng miền và điều đó đã đẩy nền kinh tế
Việt nam tới sự khủng hoảng nghiêm trọng. Tất nhiên cái gì cũng có tính hai
mặt của nó. Thực hiện cơ chế kinh tế này chúng ta đã huy động một cách tối
đa các nguồn lực cho việc giành lại độc lập và thống nhất đất nước và kết
quả không thể phủ nhận được là việc chúng ta đã đánh đuổi được hai thế lực
hùng mạnh bậc nhất thế giới là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành lại độc
lập và toàn vẹn lãnh thổ. Tuy vậy, cái gì cũng có cái giá của nó, nền kinh tế
Việt nam từ những năm 1980 cho đến trước đổi mới đã phải trải qua một giai
đoạn khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng, tồi tệ. Cơ sở vật chất kỹ thuật
lạc hậu, chậm đổi mới, năng suất lao động thấp, lạm phát cao tới ba con số
làm cho đời sống của nhân dân rất khó khăn. Xã hội ẩn chứa và xuất hiện
nhiều thói hư tật xấu, các loại tệ nạn xã hội và lòng tin của quần chúng nhân
dân bị hao tổn .

Đứng trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới cơ
chế kinh tế, chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Giai đoạn này bắt đầu từ Đại hội VI tức là từ cuối năm 1986. Nền
kinh tế đã bước đầu tìm được quỹ đạo phát triển của nó là: Phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần (đây chính là tư tưởng tự do kinh tế). Thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm khơi dậy những tiềm năng mà
Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính

18


Bài tập nhóm

Mơn Triết học

trước đó đã ngủ qn và huy động mọi nguồn lực, phát huy tối đa các ưu thế
của các nguồn lực để phát triển nền kinh tế mà đã. Một trong những tiềm
năng to lớn đó là tiềm năng về con người. Khi đã được cởi trói bỏi cơ chế,
được tự do trong tư duy, tự do tìm kiếm cơng việc thì các thành viên trong xã
hội sẽ phát huy được khả năng tìm tịi, sáng tạo cùng góp sức xây dựng nền
kinh tế, được tự do làm ăn buôn bán để làm giàu cho bản thân và cho xã hội.
Hội nghị Trung ương 6 đã họp vào tháng 3 năm 1989, tổng kết 2 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tìm ra những chỗ đúng, sai và đã đưa ra
một quan điểm mới trong quản lý kinh tế; thừa nhận cả nước chỉ có một thị
trường thống nhất do nhiều lực lượng kinh tế thuộc các thành phần cùng
tham gia. Cả nước chỉ có một thị trường nên chỉ có một cơ chế giá là giá
thỏa thuận, giá kinh doanh.

Như vậy nhờ có chính sách đúng đắn mà chúng ta đã từng bước vượt
qua được khó khăn, đưa nền kinh tế tăng trưởng một cách ổn định trong
những năm qua. Vậy chính sách đúng đắn đó là cái gì? Đó chính là tư tưởng
nhân quyền triết học phương Tây đã đề cập đến từ thời Cận đại.

Kết luận
Triết học phương Tây thời cận đại đề cao quyền con người, nó chỉ ra
những điểm phù hợp khi xuất hiện nhân quyền. Con người được tự do về cả
thể xác và tinh thần, tự do tư duy, tự do học hỏi vè tự do lao động. Tư tưởng
nhân quyền thúc đẩy con người phát triển là nên tảng vững chắc cho qua
trình xây dựng kinh tế xã hội. Trong xã hội hiện nay con người là nhân tố
trung tâm, nhân tố quyết định tương lai của nền kinh tế và xã hội.

Nhóm 4 Lớp K20Q
sách

Chuyên ngành: Quản lý chính

19



×