Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận Triết Vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và cái chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.8 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH NGÂN
Chương HÀNG TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI GIẢM
1
NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ GÓC ĐỘ CỦA CẶP PHẠM
TRÙ RIÊNG VÀ CÁI CHUNG
1.
Cặp phạm trù riêng và cái chung
1.1.
Phạm trù
1.2.
Cái riêng và cái chung
1.3.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Vai trị của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa đói giảm
2.
nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và cái
chung
Ngành ngân hàng nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng góp phần
2.1.
thúc đẩy q trình tái sản xuất xã hội tại các địa phương cịn nhiều khó
khăn
Ngành ngân hàng là cánh tay nối dài của Chính phủ trong việc thực hiện
2.2.
các chính sách xa hội về xố đói, giảm nghèo
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
Chương NGÀNH NGÂN HÀNG TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XĨA


2
ĐĨI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ GÓC ĐỘ CỦA
CẶP PHẠM TRÙ CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG

1.
1.1.
1.2.
2.
2.1.
2.2.
2.3.

Thực trạng vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa
đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù cái riêng
và cái chung
Thành tựu
Hạn chế
Giải pháp phát huy vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù
riêng và cái chung
Chủ động trong công tác huy động vốn và đa dạng hoá các nguồn vốn
Mở rộng đối tượng cho vay, đồng thời tăng cường cơng tác kiểm tra,
giám sát tình hình sử dụng vốn vay ưu đãi của các hộ nghèo
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay đối với hộ nghèo và đối tượng chính
sách khác
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


3
4
7
5
5
5
9
10
15

15
16

17

15
17
19
20
21
22
23
26
27


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là vấn đề xã hội mà có thể gặp phải ở bất kỳ quốc gia nào trên thế
giới. Xố đói giảm nghèo vẫn luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng của

Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua và cả trong giai đoạn sắp tới nhằm thu
hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa phương và giữa các
nhóm dân cư. Trong bối cảnh vấn đề nghèo đói và sự phân hố giàu nghèo đang
diễn ra sâu sắc với khoảng cách ngày càng giãn rộng là một hệ quả tất yếu của quá
trình đổi mới và phát triển kinh tế, Nghị quyết số 24/2021/QH15 của Quốc hội
nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê duyệt chủ trương đầu tư
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bên vững giai đoạn 2021 – 2025 với
mục tiêu tổng quát là “Thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền
vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên
mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều
quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống; hỗ trợ các huyện nghèo, xã nghèo đặc
biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thốt khỏi tình trạng nghèo, đặc
biệt khó khăn” [1, tr.1].
Việc xố đói giảm nghèo được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đã cho
thấy đây là mục tiêu chính trị xã hội mang tính chiến lược lâu dài và theo đó là có
nhiều chính sách để thực hiện, trong đó, các chính sách thuộc lĩnh vực ngân hàng
để giải quyết nhu cầu về vốn cho hộ nghèo đóng vai trị quan trọng hàng đầu. Do
đó, việc nghiên cứu đề tài “Vai trị của ngành ngân hàng trong thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng
và cái chung” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích của đề tài:
Tiểu luận được thực hiện nhằm những mục đích luận giải cơ sở lý luận và
thực tiễn vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và cái chung.
2


2.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa đói

giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và cái chung.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù
riêng và cái chung.
- Đề xuất những giải pháp nâng cáo vai trị của ngành ngân hàng trong thực
hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm
trù riêng và cái chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trị của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo
ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và cái chung.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Ở Việt nam.
- Về thời gian: Từ năm 2016 - 2021.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh mà trực tiếp là kinh tế chính trị Mác - Lênnin, các quan điểm đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật của Nhà nước về đói nghèo,
cơng cuộc xóa đói giảm nghèo thời gian qua, và các cơ chế hoạt động của ngân
hàng, chức năng, nhiệm vụ của ngành ngân hàng trong giảm nghèo và cấp tín dụng
cho hộ nghèo cùng các đối tượng chính sách.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu và bằng việc sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời vận dụng quan điểm khách quan, quan
điểm toàn diện,quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực
tiễn.
3



5. Những đóng góp mới của đề tài
5.1. Về lý luận
Luận giải, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận vai trị của ngành ngân hàng
trong thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của
cặp phạm trù riêng và cái chung.
5.2. Về thực tiễn
Tiểu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu giảng dạy tại các
trường cao đẳng, đại học; tham khảo cho lãnh đạo các cấp, lãnh đạo các ngân hàng
tham khảo nhằm đề ra các biện pháp nâng cao vai trị xóa đói giảm nghèo thời gian
tới.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu gồm có 02 chương
7. Lời cảm ơn

4


NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRỊ CỦA NGÀNH
NGÂN HÀNG TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ GÓC ĐỘ CỦA CẶP PHẠM TRÙ
RIÊNG VÀ CÁI CHUNG
1. Cặp phạm trù riêng và cái chung
1.1. Phạm trù
Mỗi môn khoa học cụ thể đều có một hệ thống các phạm trù riêng của mình
phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến
thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu. Triết học cũng có phạm trù như: vật chất, ý
thức, lượng, chất, mẫu thuẫn, biện chứng,… Trong triết học, phạm trù là khái niệm
rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, phổ
biến và cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất

định, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Khác với các phạm trù của khoa học
cụ thể, phạm trù của phép biện chứng duy vật có tính khách quan. Mặc dù, phạm
trù là kết quả của tư duy, song nội dung mà nó phản ánh là khách quan, do hiện
thực khách quan mà nó phản ánh quy định. Nghĩa là, phạm trù khách quan về
nguồn gốc, về cơ sở, nội dung. Các phạm trù của phép biện chứng duy vật có tính
biện chứng. Điều này thể hiện ở chỗ, nội dung mà phạm trù phản ánh luôn vận
động, phát triển. Các phạm trù có thể thâm nhập, chuyển hố lẫn nhau. Tính biện
chứng của sự vật, hiện tượng mà phạm trù phản ánh quy định biện chứng của phạm
trù. Các phạm trù của phép biện chứng duy vật là cơng cụ của nhận thức, đánh dấu
trình độ nhận thức của con người.
Phạm trù triết học trang bị tri thức khoa học chung nhất có ý nghĩa phương
pháp luận, dùng để nghiên cứu và giải quyết những vấn đề cụ thể của các khoa học
chuyên ngành. Do đó, thực chất phạm trù triết học là phạm trù của phương pháp
nghiên cứu, phương pháp nhận thức thế giới khách quan.
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật có sự liên hệ và quan hệ với nhau
tạo thành tính chất cặp đơi. Tính cặp đơi là một trong những phương thức phản ánh
5


phép biện chứng khách quan của thế giới bằng phép phép biện chứng của khái
niệm. Tính cặp đơi của các phạm trù chính là sự phản ánh biện chứng tính thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập của thế giới hiện thực khách quan. Sự thống
nhất và đối lập của các phạm trù, tính cặp đơi của chúng chính là nguồn gốc bên
trong sự chuyển hố giữa các phạm trù. Nhờ đó khi xem xét các khái niệm, phạm
trù, ta sẽ tránh được quan niệm coi chúng như là những tổng số của các hình thức
phản ánh, như là những quan hệ nối tiếp máy móc, mà là những quan hệ phụ thuộc,
rút từ cái này ra cái kia. V.I. Lênin viết: “Những khái niệm của con người khơng
đứng im, mà ln vận động, chuyển hố từ cái nọ sang cái kia. Không như vậy,
chúng không phải là phản ánh của đời sống sinh động” [2, tr.190].
Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các phạm trù trong từng cặp của phép

biện chứng duy vật là sự tác động biện chứng, có tính quy luật. Vì thế các cặp
phạm trù cịn được gọi là các quy luật khơng cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Trong lịch sử triết học, các trường phái triết học đã đưa ra những cách giải
quyết khác nhau về vấn đề bản chất của phạm trù. Những người thuộc “Chủ nghĩa
duy thực”1 cho phạm trù là những thực thể ý niệm, tồn tại ở ngoài và độc lập với ý
thức của con người. Trái lại, những người theo “Chủ nghĩa duy danh” 2 lại cho rằng,
phạm trù chỉ là những từ trống rỗng, do con người tưởng tượng ra, không biểu hiện
một cái gì trong hiện thực. I. Cantơ3 và những người thuộc phái của ơng lại coi
phạm trù chỉ là những hình thức tư duy có sẵn của con người một cách bẩm sinh,
có trước kinh nghiệm, khơng phụ thuộc vào kinh nghiệm, được lý trí của con người
đưa vào giới tự nhiên.
Khác với các quan điểm trên đây, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng,
các phạm trù được hình thành trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn của
con người. Mỗi phạm trù xuất hiện là kết quả của q trình nhận thức trước đó,
đồng thời lại là bậc thang của quá trình nhận thức tiếp theo của con người để tiến
1 Chủ nghĩa duy thực, hay chủ nghĩa hiện thực trong triết học là niềm tin rằng hiện thực, hoặc vài khía cạnh của nó,
là độc lập về mặt bản thể với nhận thức, đức tin, hệ hình, ngơn từ,...
2 Chủ nghĩa duy danh là một quan điểm siêu hình trong triết học mà theo đó những thuật ngữ phổ quát và trừu
tượng và các tiên đề (hay mệnh đề vị ngữ) tồn tại, trong khi cái phổ qt hay những vật trừu tượng, thì khơng.
3 Immanuel Kant (24/4/1724 – 12/02/1804), triết gia người Đức có ảnh hưởng lớn đến Kỷ nguyên Khai sáng.

6


gần đến nhận thức đầy đủ hơn bản chất của sự vật. V.I. Lênin viết: “Trước con
người có màng lưới những hiện tượng tự nhiên. Con ngươì bản năng, người man
rợ, khơng tự tách khỏi giới tự nhiên. Người có ý thức tự tách khỏi giới tự nhiên,
những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức là của sự nhận thức thế
giới, chúng là những điểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức và nắm vững được
màng lưới” [2, tr.278].

Các phạm trù được hình thành bằng con đường khái quát hoá, trừu tượng
hoá những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có bên trong của bản thân sự vật. Vì
vậy nội dung của nó mang tính khách quan, do thế giới khách quan quy định, mặc
dù hình thức thể hiện của nó là chủ quan. V. I. Lênin viết: “Những khái niệm của
con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của
chúng, nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong
khuynh hướng, trong nguồn gốc” [2, tr.287].
Các phạm trù là kết quả của quá trình nhận thức của con người, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan, phản ánh thế giới hiện thực khách quan. Thế
giới hiện thực khách quan không chỉ tồn tại độc lập với ý thức của con người, mà
cịn ln vận động, phát triển và chuyển hố lẫn nhau. Mặt khác, khả năng nhận
thức của con người về thế giới cũng phát triển, ngày càng trở nên sâu sắc và toàn
diện hơn, do vậy các phạm trù cũng phải vận động và phát triển theo. Không như
vậy, các phạm trù không thể phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan được. Vì
vậy, hệ thống phạm trù của phép biện chứng duy vật khơng phải là một hệ thống
đóng kín, bất biến, mà có thể và cần phải được bổ sung bằng những phạm trù mới
cùng với sự phát triển của thực tiễn và nhận thức khoa học.
1.2. Cái riêng và cái chung
Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình
riêng lẻ, hay một hệ thống các sự vật mang tính độc lập tương đối so với các hệ
thống khác.
Cái riêng được xem như một chỉnh thể mang tính độc lập tương đối với một
chỉnh thể khác, có những đặc điểm không lặp lại ở các chỉnh thể (sự vật, hiện
7


tượng, quá trình) khác. Song chỉnh thể (cái riêng) ấy ln được xác định bởi tổng
hồ các mặt, các thuộc tính hợp thành những tính quy định riêng về chất lượng và
số lượng của mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình.
Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính giống nhau

được lặp lại trong nhiều (nhóm, loại) sự vật, hiện tượng, hay nhiều quá trình riêng.
Như vậy, cái chung chỉ là cái bộ phận, được tách ra một cách trừu tượng khỏi tất cả
các cái riêng (sự vật, hiện tượng, q trình) khác. Nó là cái đồng nhất trừu tượng
của tất cả hay rất nhiều sự vật, hiện tượng trong một quan hệ xác định, không phải
cái toàn bộ trong chỉnh thể cái riêng. Song cái bộ phận (cái chung) ấy được lặp lại
trong nhiều cái riêng khác (nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình khác).
“Cái riêng” khác với “cái đơn nhất”. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng
để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính,… chỉ có ở một sự vật, một hiện
tượng, một kết cấu vật chất mà không lặp lại ở bất cứ sự vật, hiện tượng, kết cấu
vật chất khác. Ví dụ: “Thủ đơ Hà Nội” là một cái riêng, ngoài các đặc điểm chung
giống các thành phố khác của Việt Nam, cịn có những nét riêng như có “phố cổ”,
“Hồ Gươm”, những “nét văn hóa truyền thống mà chỉ ở Hà Nội mới có”, đó là
những cái đơn nhất.
“Cái chung” khác “cái đặc thù” và “cái phổ biến”. Cái đặc thù là phạm trù
dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính… có ở một số sự vật, hiện tượng, quá
trình hay một số kết cấu vật chất nhất định. Cái phổ biến là phạm trù dùng để chỉ
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ giống nhau của nhiều
nhóm, loại sự vật, hiện tượng, quá trình hay nhiều kết cấu vật chất khác nhau. Sự
phân biệt giữa cái đặc thù và cái phổ biến chỉ có ý nghĩa tương đối, tuỳ thuộc vào
quan hệ khi xem xét. Chẳng hạn, theo C. Mác, “đấu tranh giai cấp” là quy luật phổ
biến của mọi xã hội có giai cấp, tuy nhiên, đây cũng có thể coi là là quy luật đặc
thù của những xã hội có sự phân chia thành giai cấp.
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
Trong lịch sử triết học, mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung được quan
niệm khác nhau. Chủ nghĩa duy thực có quan điểm đồng nhất thượng đế với cái
8


chung và cho rằng chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguồn sản
sinh ra cái riêng. Đối lập lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học theo trường phái

duy danh như P. Abơla4 hay J. Đumxcot5 cho rằng chỉ những sự vật, hiện tượng tồn
tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là có thực cịn khái niệm
cái chung chỉ là sản phẩm của tư duy của con người. Thấy được và khắc phục hạn
chế của hai quan niệm trên, triết học duy vật biện chứng cho rằng cái chung và cái
riêng có mối liên hệ biện chứng mật thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách
khách quan.
Quan niệm Chủ nghĩa duy danh cho rằng, chỉ cái riêng là tồn tại thực sự, có
trước cái chung, cịn cái chung (khái niệm chung) là những tên gọi trống rỗng do
con người nghĩ ra, không liên quan với sự vật riêng (cái riêng). Mặt tích cực của
quan niệm này ở chỗ, nó có khuynh hướng duy vật, chống chủ nghĩa duy tâm, tơn
giáo khi thừa nhận sự vật có trước, khái niệm có sau. Mặt hạn chế của nó là phủ
nhận nội dung khách quan của các khái niệm; không thấy mối liên hệ giữa cái
riêng (sự vật) với cái chung (khái niệm).
Trái với quan niệm của Chủ nghĩa duy danh, Chủ nghĩa duy thực cho rằng,
chỉ cái chung (khái niệm chung) là tồn tại thực sự, vĩnh viễn, độc lập với ý thức
của con người và sinh ra cái riêng; còn cái riêng (sự vật) chỉ tồn tại trong một thời
gian rồi biến đi (Platôn6). Hạn chế của quan niệm này là có khuynh hướng duy tâm
khi cho rằng khái niệm có trước sự vật; tách rời cái riêng và cái chung.
Tóm lại, quan niệm của cả hai phái trên đều sai lầm ở chỗ họ đã tách cái
riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hoá cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại.
Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Trái với cách giải quyết của cả hai phái trên, triết học Mác - Lênin cho rằng,
cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau.
4 Pierre Abélard (1079 – 1142), nhà triết học, nhà thần học người Pháp thời Trung Cổ
5 John Duns Scotus (1266 – 1308), nhà triết học, nhà thần học người Scotland thời Trung Cổ
6 Platon, nhà triết học người Athen trong thời kỳ Cổ điền ở Hy lạp cổ đại, người sáng lập trường phái tư tưởng
Platon và Học viện, cơ sở giao dục đại học đầu tiên ở Tây dương

9



Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thơng qua cái riêng. Nghĩa là,
khơng có cái chung thuần tuý, trừu tượng tồn tại tách rời cái riêng. Chẳng hạn, các
thuộc tính: “tồn tại khách quan”, “phản ánh”, “vận động” là những thuộc tính
chung của thế giới vật chất, song những thuộc tính chung này khơng tồn tại trừu
tượng, chúng biểu hiện sự tồn tại của mình thơng qua các sự vật, hiện tượng cụ thể
của thế giới vật chất. Như vậy, những cái chung này tồn tại thực sự, nhưng chỉ tồn
tại thông qua những dạng vật chất cụ thể, chứ khơng tồn tại ngồi những dạng vật
chất cụ thể.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Nghĩa là,
khơng có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, khơng có liên hệ với cái chung.
Bởi vì, một mặt, bất cứ cái riêng (sự vật, hiện tượng) nào cũng tồn tại trong một
mơi trường, hồn cảnh nhất định, có liên hệ với các sự vật, hiện tượng xung quanh.
Các mối liên hệ cứ trải rộng dần và trong số chúng sẽ có những mối liên hệ đưa
đến một cái cái chung nào đấy. Mặt khác, bất cứ cái riêng nào trong q trình tồn
tại và phát triển của nó cũng chịu sự chi phối của cái chung, quy luật chung. Ví dụ:
Mọi cuộc chiến tranh đều chịu sự quy định của quy luật phổ biến của nó là “mạnh
được, yếu thua”.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; cái chung là cái
bộ phận, nhưng sâu sắc hơn, bản chất hơn cái riêng. Nghĩa là, cái riêng là cái chỉnh
thể, nó khơng gia nhập hết vào cái chung; cịn cái chung chỉ là một mặt, một khía
cạnh hay một bản chất của cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung: vì ngồi
những thuộc tính gia nhập cái chung, cái riêng cịn có những “cái đơn nhất”, riêng
có, khơng lặp lại ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào. Ví dụ: ngồi những “cái chung”
của ngân hàng hay tổ chức tín dụng, Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam cịn
có “cái đơn nhất” là hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận. Chính điều này đã tạo
nên sự đa dạng, phong phú của cái riêng. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng: vì nó
phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái
riêng cùng loại. Do vậy, nó gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn

tại và phát triển của cái riêng. Chẳng hạn, quy luật bóc lột giá trị thặng dư của
10


phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là cái chung, sâu sắc vì nó vạch trần quan
hệ bóc lột của tư bản với lao động, của tư sản với vơ sản.
Thứ tư, trong q trình phát triển khách quan của sự vật (cái riêng), trong
những điều kiện nhất định, cái đơn nhất có thể biến thành cái chung, và ngược lại.
Đây là sự chuyển hoá của hai mặt đối lập: giữa cái vốn có chỉ của một cái riêng,
khơng lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Sự chuyển hố ở đây là sự chuyển hố
của những thuộc tính: những thuộc tính chung biến thành những thuộc tính đơn
nhất, và ngược lại. Ví dụ: năm 1948, “khốn sản phẩm tới người lao động” là cái
đơn nhất chỉ có ở ngành sản xuất nơng nghiệp của Hải Phịng. Sau khốn 10 và
khốn 100, nó được nhân rộng và trở thành cái chung của cả nước và của mọi
ngành kinh tế.
Cái chung là bộ phận,nhưng sâu sắc hơn cái riêng, còn cái riêng là toàn bộ
nhưng phong phú hơn cái chung. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngồi đặc
điểm chung ,cái riêng cịn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái
riêng phản ánh những thuộc tính ,những mối liên hệ ổn định,tất nhiên, lặp lại ở
nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với bản chất,quy định
phương hướng tồn tại và phát triển của cái chung.
Có thể khái quát một công thức như sau:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Cơng thức này có thể khơng hồn tồn đúng một cách tuyệt đối, nhưng trong
một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính xác quan hệ bao
trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên
chiều sâu của sự vật, cịn cái riêng là cái tồn bộ vì nó là một thực thể sống động.
Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất. Nhờ thế,
giữa những cái riêng vừa có sự tách biệt, vừa có thể tác động qua lại với nhau,
chuyển hóa lẫn nhau. Sự “va chạm” giữa những cái riêng vừa làm cho các sự vật

xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái đơn nhất.
Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung có thể được phát
hiện. Về điểm này, Lênin nói: “... Cái riêng chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ với
11


cái chung”. Ví dụ, mọi ngân hàng đều khác nhau, đều là “cái riêng”, các ngân hàng
khác nhau có số vốn khác nhau, chính sách cho vay khác nhau, bộ máy nhân sự
khác nhau… Tuy nhiên, tất cả ngân hàng đều có cái chung: mọi ngân hàng đều
thực hiện cho vay, nhận gửi tiền; đều có chức năng huy động nguồn vốn. Chính
nhờ có những điểm chung, những điểm giống nhau giữa các ngân hàng mà người
tiêu dùng có thể dễ dàng lựa chọn bất kỳ ngân hàng nào để phục vụ mục đích
chung như gửi tiền hay vay vốn. Ngân hàng, cũng như bất cứ sự vật, hiện tượng
nào khác trong thế giới khách quan, là sự thống nhất của cái khác nhau và cái
giống nhau, cái đơn nhất và cái phổ biến.
Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hố thành cái
đơn nhất và ngược lại. Ví dụ: trước Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường, khoán
sản phẩm chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp; nhưng từ sau Đại
hội Đảng VI thì kinh tế thị trường lại dần trở thành cái chung, còn kinh tế tập trung
bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số ngành như an ninh quốc
phòng...
Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tương
đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất, nhưng nếu
xét ở trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ cơng ty tài chính là điểm
chung khi xét tập hợp các cơng ty tài chính như Cơng ty tài chính Trách nhiệm hữu
hạn một thành viên Bưu điện, Cơng ty tài chính cổ phần Điện Lực, Cơng ty tài
chính cổ phần Handico… nhưng nếu xét trong phạm vi tổ chức tín dụng thì cơng ty
tài chính là một đặc điểm đơn nhất chỉ một loại tổ chức tín dụng, mà ngồi ra tổ
chức tín dụng cịn có ngân hàng, cơng ty cho th tài chính, quỹ tín dụng nhân
dân,...

Trong một số trường hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng định
cái riêng là cái chung. Ví dụ như những câu sau: “ngân hàng thương mại cổ phần là
ngân hàng”, “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là kinh tế thị trường”...
Những trường hợp đó thể hiện mâu thuẫn giữa cái riêng và cái chung. Quan hệ bao
trùm của cái riêng đối với cái chung đã trở thành quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên
12


những định nghĩa như trên chỉ nhằm mục đích tách sự vật ra khỏi những phạm vi
không thuộc sự vật ấy, chứ khơng dùng để chỉ tồn bộ những đặc tính của sự vật.
Trong q trình phát triển của sự vật hiện tượng,trong những điều kiện nhất
định “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại “cái chung” có thể
biến thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo
điều kiện thuận lợi để “cái đơn nhất” có lợi cho con người trở thành “cái chung” và
“cái chung” bất lợi trở thành “cái đơn nhất”.
2. Vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù riêng và cái chung
2.1. Ngành ngân hàng nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng góp
phần thúc đẩy q trình tái sản xuất xã hội tại các địa phương cịn nhiều khó
khăn
Thứ nhất, vai trị quan trọng của ngành ngân hàng là cung ứng vốn một cách
kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội.
Nhờ đó mà các chủ thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu
thụ sản phẩm. Trong hệ thống ngân hàng, các ngân hàng chính sách xã hội có thể
được coi là kênh chủ lực phục vụ hỗ trợ cho người nghèo vay vốn. Đây là mơ hình
tín dụng đặc thù của Việt Nam khác với các nước trên thế giới. Mơ hình tín dụng
đối với người nghèo này được đánh giá là một thành công lớn của Việt Nam trong
cơng cuộc xóa đói giảm nghèo dựa trên tính hiệu quả của nó, trước hết là trên cơ
sở nỗ lực của ngành ngân hàng khi tổ chức triển khai chính sách xuống tận bản
làng, tận người dân.

Thứ hai, một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng của hệ thống ngân
hàng không những thoả mãn nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm
cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch
và giảm bớt các chi phí nguồn vốn cho các chủ thể kinh doanh. Điều này thể hiện
qua việc ngoài cơ chế chính sách ưu đãi về lãi suất, điều kiện vay vốn, không thể
không nhắc đến một trong những điều đặc biệt nhất đó là sự chăm sóc đối với
người nghèo đến từng gia đình. Cán bộ tín dụng của ngân hàng đến trực tiếp gia
13


đình hộ nghèo để tư vấn, cho vay, thu nợ, giải ngân, để hướng dẫn sử dụng vốn
hiệu quả hơn. Hiện tại, nguồn vốn tín dụng ngân hàng đã được đưa đến toàn bộ các
địa phương trong phạm vi cả nước, trong đó, đã có những chính sách ưu đãi cho
vay ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng
xa, biên giới, hải đảo…
Thứ ba, việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức tín dụng sẽ tạo sự
chủ động trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh cho các hộ gia đình,
các doanh nghiệp trên địa bàn cịn khó khăn khi khơng cịn phải phụ thuộc q
nhiều vào nguồn vốn tự có. Ngành ngân hàng đã đặt mục tiêu tập trung tín dụng
ngân hàng vào các ngành, lĩnh vực thuộc ba khâu đột phá trong Chiến lược phát
triển kinh tế và xã hội giai đoạn 2021-2030 (bao gồm: (i) Hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mơi trường cạnh
tranh bình đẳng và cải cách hành chính; (ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục
quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ; và, (iii) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một
số cơng trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đơ thị lớn),
cùng với đó, các ngân hàng vẫn ln xây dựng những hệ thống sản phẩm tín dụng
để phục vụ người nghèo theo tiến trình phát triển của họ, hỗ trợ người dân không
chỉ giảm nghèo mà cịn thốt nghèo bền vững.

2.2. Ngành ngân hàng là cánh tay nối dài của Chính phủ trong việc thực
hiện các chính sách xa hội về xố đói, giảm nghèo
Các chính sách xã hội, về mặt bản chất được đáp ứng bằng nguồn tài trợ
khơng hồn lại từ Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, phương thức tài trợ khơng hồn
lại thường bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục hạn chế này,
phương thước tài trợ không hồn lại có xu hướng được thay thế bởi phương thức
tài trợ có hồn lại với sự hỗ trợ của ngành ngân hàng nhằm duy trì nguồn vốn cung
cấp tài chính và có điều kiện mở rộng quy mơ tín dụng chính sách. Thơng qua
phương thức tài trợ này, các mục tiêu chính sách được đáp ứng một cách chủ động
14


và hiệu quả hơn. Khi các đối tượng chính sách buộc phải quan tâm đến hiệu quả sử
dụng vốn để đảm bảo hồn trả đúng thời hạn thì kỹ năng lao động của họ cũng sẽ
được cải thiện từng bước. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho sự ổn định tài chính
của các đối tượng chính sách và từng bước làm cho họ có thể tồn tại độc lập với
nguồn tài trợ. Nói cách khác, ngành ngân hàng là chìa khố trong việc thực hiện
mục tiêu sau cùng của chính sách xố đói, giảm nghèo, giúp người dân ở các vùng
khó khăn có thể thốt nghèo một cách bền vững và có thể từng bước phát triển mà
dần khơng cần phải lệ thuộc vào nguồn hỗ trợ bên ngoài. Thật vậy, không chỉ hỗ
trợ thông qua cho vay trực tiếp người nghèo, ngành ngân hàng trong cả nước cũng
có những hoạt động gián tiếp hỗ trợ người nghèo như cho vay lĩnh vực nơng
nghiệp nơng thơn, vùng khó khăn, có nhiều chương trình đầu tư cho các dự án, các
cơng trình, các doanh nghiệp phục vụ phát triển kinh tế cho các địa phương cịn
khó khăn…, qua đó tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm cho người nghèo, tạo
hạ tầng cơ sở tốt hơn, thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa sản xuất ra cho người
nghèo thoát nghèo bền vững. Đây là kết quả chung hoạt động tín dụng của tồn
ngành thời gian vừa qua.
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
NGÀNH NGÂN HÀNG TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI

GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ GÓC ĐỘ CỦA CẶP PHẠM
TRÙ CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG
1. Thực trạng vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm trù cái riêng
và cái chung
1.1. Thành tựu
Tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và cận nghèo đã góp phần quan trọng vào
giải quyết vấn đề giảm nghèo. Trong khoảng 5 năm trở lại đây, từ nguồn vốn tín
dụng đã giúp cho 11,24 triệu lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo được vay vốn để sản
xuất.

15


Trong thời gian gần đây, chỉ tính riêng năm 2020, ngành ngân hàng đã cấp
tín dụng ưu đãi cho 42.000 hộ nghèo, dư nợ bình quân đạt 114,7 triệu/hộ; tăng
thêm 11,7 triệu/hộ so với năm trước. Giải quyết vấn đề thiếu vốn sản xuất kinh
doanh, ngành ngân hàng đã góp phần quan trọng trong giảm nghèo, giảm tỷ lệ hộ
nghèo từ 2,66% cuối năm 2013 xuống còn 1,91 vào cuối năm 2018. Theo đánh giá
của ngành ngân hàng, từ nguồn vốn chính sách xã hội được giải ngân trong 5 năm
qua đã góp phần tích cực trong việc thực hiện mục tiêu quốc gia về giảm nghèo
bền vững; góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 6,09% năm 2015 xuống còn 1,91%
năm 2019; đồng thời, đã giúp cho các đối tượng chính sách có điều kiện tự lực
vươn lên, tạo việc làm, nâng cao đời sống, thu nhập, đảm bảo an sinh xã hội trên
địa bàn thành phố.
Tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác đã góp
phần nâng cao trình độ dân trí và khả năng tiếp cận giáo dục của người dân thơng
qua chương trình tín dụng cho học sinh, sinh viên. Trong 5 năm qua, từ nguồn vốn
tín dụng đã hỗ trợ cho 738 nghìn sinh viên có hồn cảnh khó khăn được vay vốn
học tập. Riêng năm 2018, ngành ngân hàng đã góp phần trang trải chi phí học tập

cho 31.000 lượt sinh viên. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi của ngành ngân hàng đã góp
phần quan trọng trong hỗ trợ giải quyết việc làm cho người dân, giảm tỷ lệ thất
nghiệp.
Trong các năm qua, số trường hợp được hỗ trợ vốn vay giải quyết việc làm
ngày càng gia tăng. Cụ thể, năm 2015, số trường hợp khách hàng được vay vốn là
92.100; ngành ngân hàng góp phần tạo thêm 66.700 việc làm cho lao động. Ngoài
ra, ngành ngân hàng cịn cấp tín dụng ưu đãi cho các đối tượng chính sách đi lao
động ở nước ngồi có thời hạn. Nguồn vốn tín dụng này đã góp phần giúp cho các
đối tượng chính sách có thể tìm kiếm cơ hội việc làm ở thị trường nước ngoài.
Ngành ngân hàng đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngồi
các hình thức cấp tín dụng chủ yếu cho hộ nghèo, đối tượng chính sách và học
sinh, sinh viên, ngành ngân hàng cịn cấp tín dụng cho các hình thức cho vay hộ

16


sản xuất kinh doanh vùng khó khăn, cho vay dự án chăn ni bị sinh sản hay cho
vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay thương nhân vùng khó khăn.
Kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát vào cuối năm 2019, mọi thành phần
của nền kinh tế, đã chịu ảnh hưởng tiêu cực nặng nề, cơng tác xố đói, giảm nghèo
cũng vì đó mà gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, đến tháng 07/2021 Chính
phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày
01/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động
gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg quy định
về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao
động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Trên cơ sở đó, Tổng giám đốc Ngân
hàng Chính sách xã hội Dương Quyết Thắng đã chỉ đạo toàn hệ thống ngân hàng
"Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Quyết định
số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ là nhiệm vụ chính
trị trọng tâm. Khơng để người sử dụng lao động có nhu cầu, đủ điều kiện vay vốn

không tiếp cận được nguồn vốn từ chính sách của Chính phủ". Hơn nữa, Ngân
hàng Chính sách xã hội đã phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan trình Chính phủ
sửa đổi Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Quyết định số
23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ theo hướng rút gọn
trình tự, thủ tục, giảm điều kiện, đơn giản hóa tối đa thủ tục, mở rộng đối tượng,
rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động và
người sử dụng lao động tiếp cận chính sách [3].
Từ năm 2020 đến nay, hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội đã thực hiện
hỗ trợ cơng tác phịng, chống dịch Covid-19 với tổng số tiền trên 47 tỉ đồng. Riêng
năm 2021 hỗ trợ trên 40,7 tỉ đồng cho các tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng nặng nề
bởi dịch bệnh để mua dụng cụ, thiết bị y tế, mua vaccine, mua nhu yếu phẩm.
1.2. Hạn chế
Hình thức hoạt động tín dụng chưa thực sự phong phú, đa dạng. Mặc dù
phấn đấu đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của đối tượng vay vốn nhưng chủ yếu là
cho vay một số chương trình cơ bản dành cho hộ nghèo, cận nghèo… Cơ cấu tín
17


dụng của ngành ngân hàng còn chủ yếu tập trung vào một số chương trình tín dụng
ưu đãi như đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, học sinh, sinh viên… các hình thức tài
trợ tín dụng ưu đãi cịn tương đối hạn chế. Chính vì vậy, trên thực tế vốn tín dụng
ưu đãi của ngành ngân hàng chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu vay vốn đa dạng
của người dân.
Hình thức cấp tín dụng ưu đãi cho đối tượng chính sách đi làm việc có thời
hạn ở thị trường nước ngồi cịn hạn chế. Mặc dù đây là giải pháp vừa góp phần
giảm tỷ lệ thất nghiệp, vừa tạo điều kiện cho đối tượng chính sách có thu nhập cao
hơn và gia tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia nhưng dư nợ tín dụng cịn thấp. Số
trường hợp được cấp tín dụng cịn ít, chưa đáp ứng nhu cầu của người dân.
Các hình thức cho vay ưu đãi thúc đẩy sản xuất kinh doanh khác của ngành
ngân hàng còn hạn chế như cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay thương

nhân vùng khó khăn…. Mặt khác, khi cấp tín dụng thì hiệu quả sử dụng vốn của
các đối tượng này cũng khơng cao. Việc cấp tín dụng cho vay chương trình nước
sạch và vệ sinh mơi trường, cho vay hỗ trợ về nhà ở đối với hộ nghèo còn hạn chế,
chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của người dân.
Hiệu quả xã hội trong hoạt động cho vay ưu đãi của ngành ngân hàng vẫn
còn hạn chế, chưa bền vững. Mặc dù tín dụng ưu đãi của ngành ngân hàng đã góp
phần quan trọng vào cơng tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn.
Đối tượng hộ mới thoát nghèo hiện nay rất nhiều nhưng tiếp cận nguồn vốn chính
sách cịn hạn chế dẫn đến nguy cơ tái nghèo, tái cận nghèo, công tác giảm nghèo
còn chưa đảm bảo bền vững. Mặt khác, thời gian vay vốn phát triển sản xuất kinh
doanh của hộ nghèo chưa thực sự phù hợp. Thời gian vay vốn của hộ nghèo ngắn,
nên khi thoát khỏi thực trạng hộ nghèo họ dễ dàng bị tái nghèo.
2. Giải pháp phát huy vai trò của ngành ngân hàng trong thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay từ góc độ của cặp phạm
trù riêng và cái chung
Xóa đói giảm nghèo là trách nhiệm của chung tồn xã hội, của cả Đảng, Nhà
nước. Đó là trách nhiệm chung (cái chung). Tuy nhiên, từng ngành, từng lĩnh vực,
18


thực hiện vai trị xóa đói giảm nghèo là cái riêng, trong đó ngành ngân hàng ln
đóng vai trị tích cực. Vận dụng quy luật cái chung, cái riêng trong phát huy vai trị
của ngành ngân hàng trong xóa đói giảm nghèo cần thực hiện các giải pháp sau:
2.1. Chủ động trong công tác huy động vốn và đa dạng hố các nguồn
vốn
Để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xố đói giảm nghèo giai đoạn
2021 – 2025 và các năm tiếp theo, khi nguồn lực của Nhà nước có hạn, ngành ngân
hàng cần phải huy động nguồn vốn lớn, lâu dài với lãi suất phù hợp. Để làm được
điều đó, hệ thống ngân hàng cần có giải pháp chiến lược, đồng bộ mang tính lâu
dài và bền vững như:

- Tăng cường cơ cấu huy động vốn tập trung vào nguồn tiền gửi có lãi suất
thấp hoặc tiền gửi không lấy lãi của các tổ chức, cá nhân làm từ thiện, tiếp cận với
nguồn vốn của các tổ chức quốc tế, vốn tiền gửi ký quỹ của các nhà đầu tư để có
vốn lãi suất thấp bổ sung nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính
sách. Tuy nhiên muốn tạo lập nguồn vốn bền vững cho hệ thống ngành ngân hàng
thì nguồn vốn chủ yếu phải có nguồn gốc từ ngân sách, vốn tài trợ ODA, vốn vay
nước ngồi có lãi hoặc khơng lãi… ngành ngân hàng chỉ huy động vốn theo lãi
suất thị trường sau khi đã huy động tối đa các nguồn vốn không phải trả lãi hoặc
huy động với lãi suất thấp, vì ngành ngân hàng không thể thực hiện phương châm
“đi vay để cho vay”. Công cuộc giảm nghèo là sự nghiệp của tồn Đảng tồn dân,
địi hỏi sự huy động tổng hợp các nguồn lực tài chính để thực hiện nhiệm vụ đặt ra.
Nguồn vốn ngân sách vẫn được xác định là nguồn vốn đóng vai trị quan trọng tuy
nhiên cũng cần phải huy động thêm các nguồn lực tài chính khác của các thành
phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để cùng thực hiện tốt
nhiệm vụ này.
- Nâng cao tỷ lệ nguồn vốn trung – dài hạn. Để thực hiện các chính sách thì
nhu cầu vay vốn trung, dài hạn sẽ ngày càng tăng. Do đó, hình thức huy động vốn
bằng trái phiếu trung, dài hạn được chuyển nhượng và có sự bảo lãnh của Chính
phủ hoặc của ngành ngân hàng cần được coi trọng hơn. Mặt khác, ngành ngân
19


hàng phải quan tâm làm các dịch vụ, trong đó có dịch vụ thanh tốn, để có được
loại tiền gửi không kỳ hạn gần như không phải trả lãi suất đầu vào và khó có một
giá thành nguồn vốn thấp để cho vay ưu đãi.
2.2. Mở rộng đối tượng cho vay, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát tình hình sử dụng vốn vay ưu đãi của các hộ nghèo
Việc mở rộng đối tượng hộ nghèo vay vốn cần được triển khai để tất cả các
hộ nghèo cần vốn kinh doanh thoát nghèo được tiếp cận nguồn vốn vay, các hộ cận
nghèo cũng nên có chính sách ưu đãi. Tuy nhiên việc mở rộng phải đi đôi với kiểm

sốt để khơng có tình trạng người khơng thuộc diện hộ nghèo vẫn vay được vốn ưu
đãi cũng như đảm vào nguồn vốn vay ưu đãi được sử dụng một cách hiệu quả.
Hiện nay vẫn còn nhiều hộ cận nghèo, tuy nhiên số đối tượng này không đủ
điều kiện để được vay vốn ưu đãi từ ngành ngân hàng. Đồng thời, họ cũng không
đủ điều kiện để tiếp cận với nguồn vốn của các ngân hàng thương mại. Do vậy,
ngành ngân hàng đã đề xuất với cấp có thẩm quyền cho phép đối tượng này được
vay vốn ưu đãi để đầu tư sản xuất. Theo quy định hiện hành, hộ cận nghèo không
thuộc đối tượng vay vốn của ngành ngân hàng. Còn đối với các ngân hàng thương
mại, muốn vay được vốn buộc phải có thế chấp hoặc chứng minh được năng lực tổ
chức sản xuất để đảm bảo khả năng trả nợ thì mới đủ điều kiện tiếp cận vốn. Qua
đó, giúp cho hộ cận nghèo được tiếp cận với vốn của ngân hàng để làm ăn, phát
triển cuộc sống, khơng rơi vào tình trạng tái nghèo. Cịn đối với ngành ngân hàng
phục vụ thêm đối tượng này cũng khơng ảnh hưởng đến chi phí hoạt động của
ngân hàng. Ngoài được ưu đãi về lãi suất thấp, các hộ cận nghèo nếu được vay vốn
từ ngành ngân hàng còn được hưởng những ưu đãi đặc biệt mà không ngân hàng
thương mại nào đáp ứng được. Đó là ưu đãi về cách thức cho vay. Cụ thể, vay vốn
từ ngành ngân hàng, người dân được nhận ưu đãi lớn nhất là vay mà không phải
thế chấp tài sản; đồng thời, thủ tục vay vốn người dân sẽ được các tổ, nhóm, hội,
đồn thể giúp. Một ưu đãi khác mà người dân được hưởng là cách xử lý nợ, cũng
như cách kết hợp vừa cho vay vốn, vừa hướng dẫn làm ăn. Đặc biệt là ưu đãi bằng
cách cho người dân vay vốn tại xã, do đó chi phí vay vốn của người dân rất thấp và
20


người dân khơng phải lo gì cả. Bởi vì, để được vay vốn ngành ngân hàng, người
dân chỉ mất công đi lại 2 lần. Lần thứ nhất đến họp tổ tại thơn để bình xét, sau đó
các tổ chức chính trị - xã hội giúp làm thủ tục. Lần thứ hai người dân đem theo
giấy hẹn để đến xã nhận tiền, hàng tháng có người đến tận nhà thu lãi.
Mặt khác, phương thức giải ngân vốn tín dụng ưu đãi chủ yếu là uỷ thác
thơng qua các tổ chức chính trị - xã hội. Vì vậy, nếu khơng thực hiện công tác kiểm

tra, giám sát chặt chẽ và thường xuyên sẽ dẫn tới việc vốn vay bị sử dụng sai mục
đích, thậm chí bị bịn rút bất hợp pháp. Do đặc điểm chung của tín dụng ưu đãi với
hộ nghèo là đối tượng vay vốn tập trung rải rác ở các vùng nơng thơn là chủ yếu,
mục đích sử dụng vốn đa dạng nên côn tác kiểm tra, giám sát rất phức tạp và mất
nhiều thời gian. Tuy nhiên, việc làm này là rất cần thiết. Kiểm tra, giám sát việc sử
dụng vốn sẽ góp phần nhắc nhở hộ nghèo sử dụng vốn vay đúng mục đích, phát
hiện ra những sai phạm và có biện pháp xử lý kịp thời, đồng thời góp phần tìm ra
những bất hợp lý của chính sách tín dụng ưu đãi để sửa đổi cho phù hợp.
Tăng cường cơng tác kiểm tra, kiểm sốt theo chuyên đề, theo kế hoạch
kiểm tra điểm hoặc đột xuất để kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những thiếu sót
trong quy trình, thủ tục cho vay. Phối hợp, đơn đốc các tổ chức hội cần tích cực
tham gia kiểm tra vốn vay, nhắc nhở người vay trả nợ, lãi đúng hạn, đầy đủ; phát
hiện và thông báo cho NH những trường hợp sử dụng vốn sai mục đích, bị rủi ro.
Nâng cao vai trò và trách nhiệm của tổ chức hội trong việc kiểm tra vốn vay, đảm
bảo việc kiểm tra phải kịp thời và có chất lượng.
2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay đối với hộ nghèo và đối tượng
chính sách khác
Ngành ngân hàng cần tiếp tục thực hiện phương thức cho vay ủy thác từng
phần qua các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội. Phối hợp với chính quyền địa
phương cấp xã thực hiện tốt “biên bản thỏa thuận về việc phối hợp thực hiện các
chương trình tín dụng chính sách”. Thực hiện nghiêm túc quy trình cho vay hộ
nghèo và các đối tượng chính sách khác theo quy định của ngành ngân hàng, giải
21


ngân kịp thời vụ khơng để thất thốt, gây lãng phí vốn. Cơng tác xử lý nợ bị rủi ro
nên thực hiện kịp thời.
Đại bộ phận hộ nghèo và các đối tượng chính sách đều cư trú ở nơng thơn,
miền núi, vùng sâu vùng xa, nơi có mơi trường sản xuất kinh doanh không thuận
lợi, lại chịu sự tác động lớn của diều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Chính vì vậy, để

đồng vốn tín dụng đầu tư cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác phát huy
được hiệu quả về kinh tế và xã hội, cần phải được tổ chức lồng ghép với các
chương trình mục tiêu quốc gia và an sinh xã hội.
Việc hỗ trợ tài chính cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác thơng
qua “con đường” tín dụng chỉ mới là điều kiện “cần”, ví như trao cho họ “chiếc cần
câu”, cịn việc “câu” ở đâu và bằng cách nào để “câu” được nhiều “cá”, đó là trách
nhiệm của nhiều cấp, nhiều ngành, mà quan trọng là vai trị của cơng tác khuyến
nơng, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao công nghệ, ứng dụng những tiến bộ
khoa học, kỹ thuật vào sản xuất - kinh doanh, hướng dẫn cách làm ăn cho người
nghèo và các đối tượng chính sách.
Ngành ngân hàng cần phối hợp với các ngành đẩy mạnh công tác khuyến
nông, khuyến lâm, cung cấp kiến thức làm ăn cho hộ nghèo, tập huấn chuyển giao
khoa học kỹ thuật và giải quyết đầu ra cho sản phẩm nhằm tăng khả năng phát huy
cao nhất hiệu quả vốn đầu tư của ngành ngân hàng đối với chương trình xố đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế địa phương.
Một trong những rủi ro khi cho vay là do trình độ hiểu biết của người nghèo
có hạn nên đồng vốn vay thường được sử dụng kém hiệu quả. Người nghèo khơng
chỉ thiếu vốn mà cịn thiếu kiến thức về tổ chức quản lý sản xuất, về khoa học cơng
nghệ và thị trường… Chính vì lẽ đó cùng với việc cung ứng vốn cho hộ nghèo cần
phải giúp đỡ họ khắc phục những yếu kém nói trên thì mới có thể nâng cao năng
suất lao động, hồn trả nợ và thoát nghèo bên vững. Việc kết hợp vay vốn với
những chương trình khuyến nơng, khuyến ngư sẽ hạn chế rủi ro trng đầu tư, giúp
người nghèo sử dụng vốn có hiệu quả, nâng cao đời sống và trả nợ đúng hạn.

22


Để nguồn vốn vay có hiệu quả cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ba nhà, ngành
ngân hàng (đầu tư vốn), Trung tâm khuyến nông, khuyến lâm (hướng dẫn kỹ thuật
chăn ni,trồng trọt) và các tổ chức hội đồn thể (quản lý vốn vay, chuyển giao kỹ

thuật…) giúp hộ nghèo nắm vững kỹ thuật ngành nghề mà họ bỏ vốn đầu tư. Từ đó
vốn đầu tư có hiệu quả hơn, tăng thu nhập cho hộ nghèo, thời gian xoá đói giảm
nghèo được rút ngắn hơn.
Để dự án tín dụng cho người nghèo có hiệu quả, đảm bảo sự giám sát của xã
hội, của cộng đồng đúng với mục tiêu của dự án thì việc điều tra, phân loại hộ
nghèo tại các địa phương thông qua việc củng cố ban xố đói giảm nghèo của xã,
huyện là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Điều tra phân loại rõ từng nguyên
nhân dẫn đến đói nghèo của từng hộ để có những giải pháp phù hợp, chẳng hạn
những hộ đói nghèo khơng có sức lao động do già cả, tàn tật, neo đơn… phải dùng
các biện pháp hỗ trợ khác chứ không thể dùng phương pháp tiếp cận bằng vốn tín
dụng được. Những hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa mà ở những nơi đó chưa có cơ sở
hạ tầng, khơng có chợ, sức mua hạn chế… thì trước khi được sử dụng vốn tín dụng
của ngành ngân hàng phải được hỗ trợ từ các giải pháp khác phù hợp.

23


KẾT LUẬN
Trên cơ sở quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh
tế phải được tiến hành đồng thời với tiến bộ và công bằng xã hội, xố đói, giảm
nghèo đã và vẫn đang là một chủ trương chính sách xã hội của Đảng và Chính phủ
mang tính nhân văn sâu sắc. Những thành tựu đạt được trong cơng cuộc thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia về xố đói, giảm nghèo trong giai đoạn 2015 –
2021 đã thể hiện sự quyết tâm, nỗ lực, cố gắng, cùng tính hiệu quả của tồn Đảng,
tồn dân, trong đó có đóng góp khơng nhỏ đến từ Ngành ngân hàng nói chung và
hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội nói riêng, đồng thời góp phần xây dựng
hình ảnh, vị thế tốt đẹp của Việt Nam trên trường quốc tế, được thế giới coi là điểm
sáng trong xoá đói, giảm nghèo. Qua phân tích những lý luận khoa học kết hợp với
thực tiễn mà trong đó góc nhìn từ cặp phạm trù cái chung và cái riêng đóng vai trị
chủ đạo, nghiên cứu đã góp phần làm rõ một số vấn đề: Hệ thống hoá lý luận về

vai trị của ngành ngân hàng trong việc thực hiện chính sách xố đói, giảm nghèo ở
Việt Nam hiện nay; quan điểm của Đảng, Chính phủ về xố đói, giảm nghèo cũng
như những đóng góp của ngành ngân hàng trong lĩnh vực xố đói, giảm nghèo thời
gian qua. Từ việc đánh giá thành tựu và hạn chế trong việc thực thi các chính sách
xố đói, giảm nghèo của hệ thống ngân hàng, nghiên cứu đã có cơ sở để đưa ra một
số giải pháp, và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng nói
chung và trong lĩnh vực xố đói, giảm nghèo nói riêng.
Tuy nhiên do những hiểu biết có hạn về lĩnh vực tài chính – ngân hàng nói
chung và hoạt động tín dụng xố đói giảm nghèo nói riêng nên chun đề cịn
nhiều thiếu sót, chưa đạt được kết quả như mong muốn. Hy vọng trong thời gian
tới, đề tài tiếp tục được nghiên cứu, hồn thiện, góp phần giúp Ngành ngân hàng,
nhất là Hệ thống Ngân hàng Chính sách xã hội nâng cao được hiệu quả tín dụng
xố đói giảm nghèo.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội, Nghị quyết số 24/2021/QH15, 2021.
2. V.I.Lênin, toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
3. Việt Hải, NHCSXH: 19 năm góp sức cho mục tiêu “khơng để người
nghèo bị bỏ lại phía sau”, 01/10/2021.

25


×