lOMoARcPSD|14734974
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC
LEENIN VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ LIÊN HỆ
THỰC TIỄN VỚI VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện
:
Lớp
:
MSSV
:
Nguyễn Thanh
Lê Hữu Lực
LSIC K63
11219580
lOMoARcPSD|14734974
MỤC LỤC
Chương 1 GIỚI THIỆU CHUNG...........................................................................3
1.1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................3
1.2. Mục đích và mục tiêu của nghiên cứu đề tài...............................................3
1.3. Giới thiệu của đề tài......................................................................................3
Chương 2 LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC LEENIN VỀ SẢN XUẤT HÀNG
HÓA.......................................................................................................................... 4
2.1 Sản xuất hàng hóa.........................................................................................4
2.2 Hàng hóa........................................................................................................5
Chương 3 LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM...............................................10
3.1 Ưu nhược điểm của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam..................................10
3.1.3 Giải pháp nâng cao hoạt động sản xuất hàng hóa..................................11
3.2 Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa Việt Nam trước đổi
mới (1975 - 1986)...............................................................................................12
3.2 Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa Việt Nam sau thời kỳ
đổi mới (từ năm 1986 đến nay).........................................................................13
3
lOMoARcPSD|14734974
Chương 1
GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Lý do chọn đề tài
Con người trong thời đại thế kỉ này luôn luôn gắn với trao đổi và mua bán
hàng hóa và sản xuất hàng hóa tồn tại ở Việt Nam là một tất yếu. Tuy nhiên,
sản xuất hàng hóa lại mang tính hai mặt. Nguyên nhân vấn đề này là do đâu
và đã có những biện pháp gì để giải qut. Đó là một trong số lý do em chọn
đề tài “lý luận của CN Mác Lênin về sản xuất hàng hóa và liên hệ với thực
tiễn ở Việt Nam”.
1.2. Mục đích và mục tiêu của nghiên cứu đề tài
1.2.1. Mục đích
Nhằm hiểu rõ thực trạng trong sản xuất hàng hóa ở Việt Nam và ảnh
hưởng của nó đối với nền kinh tế
1.2.2. Mục tiêu
Giúp cho mọi người và bản thân em hiểu rõ lý luận chủ nghĩa Mác Leenin
về sản xuất hàng hóa và nhận thức một cách cơ bản cơ sở lý luận của các mối
quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường thông qua các phạm trù cơ bản về
hàng hóa
1.3. Giới thiệu của đề tài
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan hệ sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Sản xuất hàng hóa ở Việt Nam trong các thời kì
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu sử dụng phương pháp lý luận
4
lOMoARcPSD|14734974
Chương 2
LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC LEENIN VỀ SẢN XUẤT HÀNG
HĨA
2.1 Sản xuất hàng hóa
2.1.1 Khái niệm sản xuất hàng hóa
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa được hiểu là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế
mà trong đó, những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích mua bán, trao
đổi.
2.1.2 Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa khơng xuất hiện cùng lúc với sự xuất hiện của xã hội loài
người. Nền kinh tế hàng hóa có thể phát triển và hình thành khi có các điều
kiện:
Một là, phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
lĩnh vực, các ngành sản xuất khác nhau, tạo nên sự chun mơn hóa của
những người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người
thực hiện sản xuất một hoặc nhiều loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu
của họ lại yêu cầu nhiều loại sán phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của
mình thì những người sản xuất phải dung cách trao đổi sản phẩm với nhau.
Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những
người sản xuất độc lập với nhau và có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện
đó, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao
đổi, mua bán, tức là phải trao đồi dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ
có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào
nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa. Sự tách biệt về mặt kinh
tế giữa những người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời
và phát triền.
Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thề sản xuất thể hiện
khách quan dựa theo sự tách biệt về sở hữu. Xã hội lồi người càng phát triển
thì sự tách biệt về sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được sản xuất ra cũng càng
phong phú.
5
lOMoARcPSD|14734974
Khi còn sự tổn tại của hai diều kiện nêu trên, con người khơng thể dung
những ý chí chủ quan mà xóa bỏ đi nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình
xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa, sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và
khủng hoảng. Với ý nghĩa đó, cần khẳng định, nền sán xuất hàng hóa có ưu
thế tích cực vượt trội hơn so với nền sản xuất tự cấp, tự túc.
2.2 Hàng hóa
2.2.1 Khái niệm và thuộc tính của hàng hỏa
* Khái niệm hàng hóa:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, cỏ thể thỏa mãn nhu cầu nào đỏ của con
người thông qua trao đôi, mua hán.
Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi được đưa ra trao đổi, mua bán trên thị
trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thề hoặc phi vật thê.
* Thuộc tính của hàng hóa
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng của sản phẩm, có thế thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người.
Nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần; có thể là nhu
cầu cho tiêu dùng cá nhân, có thể là nhu cầu cho sản xuất.
Giá trị sử dụng chỉ được thực hhiện trong việc sử dụng hay tiêu dùng. Nền
sản xuất càng phát triển, khoa học kĩ thuật càng hiện đại, càng có thể giúp con
người tìm ra nhiều và phong phú hơn các giá trị sử dụng của sản phẩm.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của
người mua. Cho nên, nếu là người sản xuất, phải chú ý hoàn thiện giá trị sử
dụng của hàng hóa do mình sản xuất ra sao cho ngày càng dáp ứng được nhu
cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua.
- Giá trị của hàng hóa
Đẻ nhận biết được thuộc tính giá trị, xét trong quan hệ trao đổi.
Thí dụ, có một quan hệ trao đổi: xA = yB
6
lOMoARcPSD|14734974
Trong đó, số lượng x đơn vị hàng hóa A, được trao đổi để lấy số lượng y đơn
vị hàng hóa B. Tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau này được gọi
là giá trị trao đổi.
Vấn đề đặt ra là: vì sao giữa các hàng hóa có giá trị sừ dụng khác nhau lại có
thể trao đổi được với nhau, theo những tỷ lệ nhất định?
Sở dĩ các hàng hóa trao đồi được với nhau bởi giữa chúng có một điểm
chung. Điểm chung đó khơng phải là giá trị sử dụng mặc dù giá trị sử dụng là
yếu tố cần thiết đề quan hộ trao đồi được diễn ra. Điểm chung đó phải nằm ở
trong cả hai hàng hóa.
Nếu gạt bỏ giá trị sừ dụng hay tính có ích của các sản phẩm sang một bên thì
giữa chúng có một điểm chung duy nhất: đều là sản phẩm của lao động; một
lượng lao động bằng nhau đã hao phí để tạo ra số lượng các giá trị sử dụng
trong quan hệ trao đồi đó.
Trong trường hợp quan hệ trao đổi đang xét, lượng lao động đã hao phí để tạo
ra x đơn vị hàng hóa A bằng lượng lao động đã hao phí để tạo ra y đơn vị
hàng hóa B. Đó là cơ sở để để các hàng hóa có giá trị sừ dụng khác nhau trao
đôi được với nhau với tỷ lệ nhất định; một thực thể chung giống nhau đó là
lao động xã hội đã hao phí để sản xuất ra các hàng hóa với giá trị sử dụng
khác nhau. Lao dộng xã hội đã hao phí để tạo ra hàng hóa là giá trị hàng hóa.
- Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa được kết tỉnh ở trong
hàng hóa.
Giá trị hàng hóa biểu hiện cho mối quan hệ kinh tế giữa nhũng người sản xuất
và trao đổi hàng hóa và là phạm trù có tính lịch sử. Ở đâu có sản xuất và trao
đổi hàng hóa, Ở đó có phạm trù giá trị hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức
biểu hiện ra bên ngoài của giá trị; giá trị là nội dung và là cơ sở của trao đổi.
Khi trao đối người ta ngầm so sánh lao động đã hao phí ẩn dấu trong hàng hóa
với nhau.
Trong thực hiện sản xuất hàng hóa, đề thu được hao phí lao động đã kết tinh
người sản xuất cần chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng để có được sự chấp nhận
của thị trường. Hàng hóa phải được bán đi.
2.2.2 Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa với lao động
sản xuất hàng hóa, C.Mác hiểu ra rằng, hàng hóa có hai thuộc tính là bởi lao
động của người sản xuất hàng hóa mang tính hai mặt: mặt cụ thể và mặt trừu
tượng của lao động.
7
lOMoARcPSD|14734974
- Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích thơng qua một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng lao động, cơng cụ, phương pháp
lao động riêng và có kết quả riêng. Lao động cụ thể làm ra giá trị sử dụng của
hàng hoá.
Các loại lao động cụ thể khác nhau tạo ra những sản phẩm có giá trị sừ dụng
khác nhau. Phân cơng lao động xã hội càng phát triển thì xã hội càng có nhiều
ngành nghề khác nhau, các hình thức lao động cụ thể càng phong phú và đa
dạng thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
- Lao động trừu tượng
Lao động trừu tượng là lao dộng xã hội của người sản xuất hàng hố mà
khơng kể đến hình thức cụ thể; đó là sự hao phí sức lao động nói chung của
người sản xuất hàng hố về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hố.
Đến đây, có thể nêu, giá trị hàng hỏa là lao động trừu tượng của người sản
xuất kết tinh trong hàng hoá. Lao động trừu tượng là cơ sở được dùng để so
sánh, trao đồi các giá trị sử dụng khác nhau.
Trước C.Mác, D.Ricardo cũng đã tìm ra được các thuộc tính của hàng hóa.
Nhưng D.Ricardo đã khơng lý giải được tại sao lại có hai thuộc tính đó. Vượt
lên so với lý luận của D.Ricardo, C.Mác phát hiện, với cùng một hoạt động
lao động nhưng hoạt động lao động đó lại có tính hai mặt. C.Mác là người
đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Phát
hiện này chính là cơ sở đề C.Mác phân tích một cách khoa học sự sản xuất giá
trị thặng dư.
Lao động cụ thề phản ánh tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa
bởi việc sản xuất cái gì, như thế nào là việc riêng của mỗi chủ thề sản xuất.
Lao động trừu tượng phản ánh tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng
hóa, bởi lao động của mỗi người là một bộ phận của lao động xã hội, nằm
trong hệ thong phân công lao động xã hội. Do ycu cầu của mối quan hệ này,
việc sản xuất và trao đồi phải được xem là một thể thống nhất trong nên kinh
tê hàng hóa. Lợi ích của người sản xuất thơng nhất với lợi ích của người tiêu
dùng. Người sản xuất phải thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người tiêu
8
lOMoARcPSD|14734974
dùng, người tiêu dùng đến lượt mình lại thúc đầy sự phát triển sản xuất. Mâu
thuân giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng xuất hiện khi sản phẩm do
những người sản xuât hàng hóa riêng biệt tạo ra không phù hợp với nhu câu
xã hội, hoặc khi mức hao phí lao động cá biệt cao hơn mức hao phí mà xã hội
có thể chấp nhận được. Khi đó, sẽ có một số hàng hóa khơng bán được. Nghĩa
là có một số hao phí lao động cá biệt không được xã hội thừa nhận. Mâu
thuẫn này tạo ra nguy cơ khủng hoàng tiềm ẩn.
2.2.3 Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng
hóa
Lượng giá trị của hàng hóa
Giá trị của hàng hóa là từ lao động xã hội, trừu tượng do người sản xuất ra
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao
dộng đã hao phí để tạo được ra hàng hóa.
Lượng lao động đã hao phí tính bằng thời gian lao động. Thời gian lao động
này phải được xã hội chấp nhận, không phải là thời gian lao động bởi đơn vị
sản xuất cá biệt, mà phải là thời gian lao động xã hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một giá
trị sử dụng nào đỏ trong những điều kiện bình thường của xã hội với trình độ
thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình.
Trong thực hành sản xuất, người sản xuất thường phải tích cực đồi mới, sáng
tạo nhằm giảm thời gian hao phí lao động cá biệt tại đơn vị sản xuất của mình
xuống mức thấp hơn mức hao phí trung bình cần thiết. Khi đó sẽ có được ưu
thế trong cạnh tranh.
Xét về mặt cấu thành, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa được sản xuất ra
bao hàm: hao phí lao động quá khứ (chứa trong các yêu tố vật tư, nguyên
nhiên liệu đã tiêu dùng dồ sản xuất ra hàng hóa đó) + hao phí lao động mới
kết tinh thêm.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
Lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa được đo lường bởi thời gian lao động
xã hội cân thiết đê sản xuât ra hàng hóa đó, cho nên, về nguyên tắc, những
nhân tố nào ảnh hưởng tới lượng thời gian hao phí xã hội cần thiết đề sản xuất
ra một đơn vị hàng hóa tất sẽ ảnh hưỏrng tói lượng giá trị của đơn vị hàng
hóa. Có những nhân tố chủ yếu sau:
Một là, năng suất lao động.
9
lOMoARcPSD|14734974
Năng suất lao động là là năng lực sản xuất của người lao động, được tính
hằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hay số lượng
thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất lao động tăng lên sẽ làm giảm lượng thời gian hao phí lao động cần
thiêt trong một đơn vị hàng hóa. Do vậy, năng suât lao động tăng lên, sẽ làm
cho lượng giá trị trong một đơn vị hàng hóa giảm xng. “Như vậy là đại
lượng giá trị của một hàng hóa thay đồi theo tỷ lệ thuận với lượng lao động
thể hiện trong hàng hóa đó và tỷ lệ nghịch với sức sản xuất của lao động”.
Vì vậy, trong thực hành sản xuất, kinh doanh cần chú ý, để có thồ giảm hao
phí lao động cá biệt, cần phải thực hiện các biện pháp để góp phần tăng năng
suất lao động.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động gồm: i) trình độ khéo léo trung
bình của người lao động; ii) mức độ phát triển của khoa học và trình độ áp
dụng khoa học vào quy trình cơng nghệ; iii) sự kết hợp xã hội của q trình
sản xt; iv) quy mơ và hiệu xuât của tư liệu sản xuât; v) các điều kiện tự
nhiên.
Khi xem xét về mối quan hệ giữa tăng năng suất với lượng giá trị của một đơn
vị hàng hóa, cằn chú ý thêm về mối quan hệ giữa tăng cường độ lao động với
lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa.
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động
trong sản xuất.
Tăng cường độ lao động là tăng mức độ khấn trương, tích cực của hoạt động
lao động. Trong chừng mực xót riêng vai trị của cường độ lao động, việc tăng
cường độ lao động làm cho tổng số sản phâm tăng lên. Tổng lượng giá trị của
tất cả các hàng hóa gộp lại tăng lên. Song, lượng thời gian lao động xã hội cần
thiết hao phí để sán xuất một đơn vị hàng hóa khơng thay đổi. Do chỗ, tăng
cường độ lao động chỉ nhấn mạnh tăng mức độ khấn trương, tích cực của hoạt
động lao động thay vì lười biêng mà sản xuất ra số lượng hàng hóa ít hơn.
Tuy nhiên, trong điều kiện trình độ sản xuất hàng hóa cịn thấp, việc tăng
cường độ lao động cũng có ý nghĩa rất quan trọng tronạ việc tạo ra số lượng
các giá trị sử dụng nhiều hơn, góp phần thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Cường độ lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố sức khỏe, thể chất, tâm lý,
trình độ tay nghe thành thạo của người lao động, công tác tô chức, ký luật lao
động... Neu giải quyết tốt những vấn đề này thì người lao động sẽ thao tác
nhanh hơn, thuần thục hơn, tập trung hơn, do đó tạo ra nhiều hàng hóa hơn.
10
lOMoARcPSD|14734974
Hai là, tính chất phức tạp của lao động.
Căn cứ vào mức độ phức tạp của lao động mà chia thành lao động gian đơn
và lao động phức tạp.
Lao động giàn đơn là lao động khơng địi hỏi có q trình đào tạo một cách hệ
thống, chuyên sâu về chuyên mơn, kỹ năng, nghiệp vụ cũng có thể thao tác
được.
Lao động phức tạp là những hoạt dộng lao dộng yêu cầu phải trải qua một quá
trình đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ theo yêu cầu của những nghề nghiệp
chuyên môn nhất định.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra
nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động
giản đơn được nhân bội lên. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để cả nhà quản
trị và người lao động xác định mức thù lao cho phù hợp với tính chất của hoạt
động lao dộng trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
Chương 3
LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
3.1 Ưu nhược điểm của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
3.1.1 Ưu điểm
Ở Việt Nam sản xuất hàng hóa đã tận dụng được những thuận lợi tự nhiên
trong từng vùng miền. Như ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nơi có sự thuận
lợi cho trồng lúa nước nên ở nơi đây đã được tận dụng để trở thành nơi cung
cấp lương thực chủ yếu trong nước.
Sản xuất hàng hóa để trao đổi và đáp ứng nhu cầu xã hội nên người trao đổi
qua đó có thể tích lũy kinh nghiêm nâng cao tay nghề, tiếp thu những tri thức
mới. Các công cụ được cải tiền và kĩ thuật phát triên do sự cạnh tranh càng
gay gắt từ đó năng suất và chất lượng sản phẩm được cải thiện
11
lOMoARcPSD|14734974
Dưới sự tác động của các quy luật: quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy
luật cung - cầu, … buộc người sản xuất phải nhạy bén với những cái mới để
nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Sản xuất hàng
hóa phát triển làm cho đời sống vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng được
tăng cao, phong phú và đa dạng. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường
ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hoá vận dụng có hiệu quả hơn và từ đó
ngồi các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ pháp lý xã hội, tập quán,
tác phong cũng thay đổi.
3.1.2 Nhược điểm
Làm Phân hóa đời sống dân cư, phân hóa giàu nghèo dẫn đến khủng hoảng
kinh tế, thất nghiệp, lạm phát. Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội
gắn liền với hiện trạng kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội
Chỉ vì để có được lợi nhuận tối đa mà nhiều người sản xuất dẫn sử dụng bừa
bãi, tàn phá tài nguyên và hủy diệt môi trường. Năm 2004, 5 doanh nghiệp tư
nhân đã nhập khẩu 230 tấn phế liệu không đúng với thực tế khai báo về cảng
sài gòn đã vi phạm về quy định bảo vệ mơi trường. Đặc biệt phải kể đến đó là
vụ Formosa Hà Tĩnh năm 2016 đã dội lên một làn sóng phẫn nộ của người
dân trên cả nước. Nước thải công nghiệp của công ty TNHH gang thép Hưng
Nghiệp Formusa Hà Tĩnh thải trái phép chưa qua xử lý ra môi trường biển đã
làm cho hải sản chết hàng loạt ven biển bốn tỉnh miền Trung, gây thiệt hại
nặng nề về tài sản và môi trường sinh thái dưới biển, ảnh hưởng tới hoạt động
kinh doanh, du lịch và đời sống cũng như sức khỏe của người dân. Ở Việt
Nam, các “làng ung thư” xuất hiện ngày càng nhiều.
Để tối thiểu hóa đầu tư, tối đa hóa lợi nhuân, các doanh nghiệp bất chấp sức
khỏe người tiêu dùng, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Các vụ
việc sản xuất thực phẩm bẩn gây ra ngộ độc ngày càng xuất hiện nhiều hơn.
3.1.3 Giải pháp nâng cao hoạt động sản xuất hàng hóa
Để giảm thiểu những khuyết điểm, hạn chế của nền sản xuất hàng hóa cần có
vai trị của nhà nước. Chính từ tính ưu việt rất riêng, rất có lợi (tuy bên cạnh
đó vẫn cịn có những khuyết điểm) của sản xất hàng hoá mà tại Đại hội VII
Đảng ta đã xác định phương hướng: Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng XHCN vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước.
Nhà nước vẫn cần phải tăng cường điều chỉnh và quản lý một cách kiên quyết
và khôn khéo để mọi hoạt động đi vào khuôn khổ và đều tuân theo pháp luật.
Nhà nước cần thiết lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế kết hợp với các luật về
bảo vệ môi trường sinh thái để xác định hành vi kinh doanh là hợp pháp hay
khơng và có biện pháp xử lý ngay khi có cá nhân hoặc tổ chức vi phạm. Nước
ta cũng cần phải sử dụng có ý thức các quy luật kinh tế khách quan vào quản
lý nền kinh tế sản xuất hàng hóa để từ đó phát huy những ưu thế vốn có và
12
Downloaded by quang tran ()
lOMoARcPSD|14734974
giảm thiểu những hạn chế. Chính vì vậy, Nhà nước đóng vai trị quan trọng
trong việc tạo ra cho nền kinh tế thị trường vận động theo định hướng XHCN.
3.2 Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa Việt Nam trước đổi mới
(1975 - 1986).
Ở Việt Nam, thời kỳ bao cấp chủ yếu bao gồm lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp và thương mại. Công nghiệp được chia thành công nghiệp nặng (như
điện, than, thép, chế tạo máy cơng cụ, ...); cơng nghiệp hóa chất; cơng nghiệp
nhẹ; công nghiệp thực phẩm (thuốc lá, đường, rượu, đồ hộp ...). Lực lượng lao
động bao gồm có cơng nhân, nơng dân và lao động tri thức. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV khẳng định nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế
dựa trên hai thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh (công thương nghiệp) và
tập thể (khốn nơng nghiệp với hợp tác xã cấp cao làm nòng cốt) [1].
Trong một thời gian dài, ở Việt Nam và nhiều nước khác, nền sản xuất hàng
hoá dựa trên hai điều kiện: sự phân công lao động xã hội và sự ra đời của tư
hữu. Chính vì hiểu như vậy nên điều kiện thứ hai là sự ra đời của sở hữu tư
nhân, tức là tồn tại khái niệm sản xuất hàng hóa gắn liền với sở hữu tư nhân
(nghĩa là chỉ tồn tại trong xã hội thuộc sở hữu tư nhân). Tài sản cá nhân). Vì
vậy, tất cả các nước, trong đó có Việt Nam, đang đi theo con đường chủ nghĩa
xã hội nhằm mục tiêu xác lập sở hữu cơng cộng và xóa bỏ sở hữu tư nhân. Do
khơng tồn tại sản xuất hàng hố trong chế độ sở hữu công cộng và hệ thống
xã hội nên các nước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (trong đó có Việt
Nam) đều sử dụng cơ chế tập trung. Cơ chế quan liêu bao cấp, phủ nhận sự
tồn tại của sản xuất hàng hóa, phủ nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư
nhân. Vì vậy, trong thời kỳ bao cấp ở Việt Nam, sản xuất hàng hố chỉ là hình
thức, có sự phân cơng lao động, chưa có sự tách biệt tương đối về kinh tế giữa
những người sản xuất.
Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu thông qua mệnh lệnh hành chính, dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết được thực hiện từ trên xuống dưới.
Doanh nghiệp hoạt động theo quyết định và nghị định chỉ định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Mọi phương hướng sản xuất, nguồn nguyên liệu,
kinh phí, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương ... đều do
cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước cấp quỹ và mục tiêu, kế hoạch phân
phối vật chất cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà
nước. Lỗ thì nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu.
Quan hệ tiền tệ hàng hóa bỏ qua, chỉ quan hệ hình thức, quan hệ vật chất là
chính. Nhà nước quản lý nền kinh tế thơng qua hệ thống “phân phối - bàn
giao”. Vì vậy, nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, sáng chế, tư liệu
sản xuất quan trọng, ... không phải là hàng hóa hợp pháp.
13
Downloaded by quang tran ()
lOMoARcPSD|14734974
Trước đổi mới,
Do chưa nhận thức rõ cơ chế sản xuất hàng hóa và thị trường nên chúng ta
cho rằng kế hoạch hóa là đặc điểm quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là then chốt; chúng ta coi thị
trường là công cụ phụ trợ để bổ sung quy hoạch. Khơng thừa nhận thực sự có
nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ mà kinh tế quốc doanh và
tập thể là chính, đẩy nhanh việc xóa bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư
nhân. Nền kinh tế trì trệ và khủng hoảng. Nói về tình hình kinh tế trong 10
năm đầu sau chiến tranh, GS Trần Văn Thọ viết: “Mười năm sau 1975 là một
trong những giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử Việt Nam. Chỉ nói về mặt
kinh tế, là một nước nông nghiệp.” (Trong năm 1980, 80% dân số sống ở
nông thôn và 70% lực lượng lao động là nông dân) nhưng ở Việt Nam vẫn
cịn tình trạng thiếu lương thực. Lương thực trên đầu người giảm mạnh từ
năm 1976 đến năm 1979, rồi lại tăng lên, nhưng không trở lại như năm 1976
cho đến năm 1981. Công thương nghiệp cũng từ đó đình trệ, sản xuất đình trệ,
nhu yếu phẩm thiếu thốn, đời sống nhân dân vô cùng khốn khó, ngồi những
khó khăn sau chiến tranh và tình hình quốc tế khơng thuận lợi thì những
ngun nhân chính dẫn đến tình hình trên là những sai lầm về chính sách và
chiến lược phát triển là sự nóng vội đưa miền Nam áp dụng mơ hình xã hội
chủ nghĩa vào nền kinh tế ... Xuất hiện nguy cơ thiếu ăn kéo dài và những khó
khăn khác đã làm phát sinh hiện tượng "phá rào" trong nông nghiệp, thương
mại và việc định giá lương thực ở một số nơi đã cải thiện được tình hình,
nhưng phải đợi đến thời kỳ Đổi mới (tháng 12 năm 1986) mới thấy những
chuyển biến thực sự, kết quả là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam
chỉ tăng 35%. 10 năm trước đổi mới dân số tăng 22% trong thời kỳ này% nên
GDP bình quân đầu người chỉ tăng 1% (năm) ”[2]
Qua trên ta thấy,
Cơ chế, chính sách trong thời kỳ bao cấp ở Việt Nam không phù hợp với quy
luật sản xuất hàng hóa, thậm chí vi phạm quy luật sản xuất hàng hóa.
3.2 Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa Việt Nam sau thời kỳ đổi
mới (từ năm 1986 đến nay).
Trước sức ép của hoàn cảnh khách quan, để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã đưa ra quyết định xóa bỏ
cơ chế quản lý cũ và bắt đầu thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.[3]
14
Downloaded by quang tran ()
lOMoARcPSD|14734974
Ở đất nước ta, có một hệ thống phân cơng lao động để lại từ lịch sử, và có rất
nhiều ngành nghề. Với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, nhiều
ngành nghề mới đã xuất hiện làm phong phú thêm sự phân công lao động ở
nước ta và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển hàng hố. Sự phân cơng lao
động xã hội làm cơ sở cho trao đổi khơng những khơng biến mất mà cịn phát
triển theo chiều rộng và chiều sâu. Xét về phạm vi, phân công lao động xã hội
không chỉ diễn ra trên phạm vi quốc gia, mà còn diễn ra trên phạm vi quốc tế.
Nền kinh tế của các nước đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới,
và quan hệ hợp tác và kinh tế đối ngoại đang phát triển từng ngày. Mỗi quốc
gia chỉ lựa chọn phát triển một số ngành và phát triển lợi thế riêng của mình
trong một số lĩnh vực. Việt Nam là quốc gia trên thế giới phát triển nông
nghiệp thuận lợi. Vì vậy, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ra nước ngồi chủ
yếu là nơng sản. Hiện Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế
giới (sau Thái Lan). Sự phân công lao động xã hội phá vỡ mối quan hệ truyền
thống của nền kinh tế tự nhiên khép kín, đồng thời tạo ra cơ sở thống nhất và
phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất trong hệ thống hợp tác lao
động.
Sự phân công lao động của chúng ta ngày càng chi tiết hơn đến từng ngành,
từng thể chế và rộng hơn là đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, có sự
chun mơn hố, hình thành các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế. Hiện
nước ta có 4 vùng kinh tế trọng điểm, đó là: vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
(gồm Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Ninh và
Vĩnh Phúc); vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (bao gồm Huế, Đà Nẵng
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định); các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
(bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng
Nai, Tây Ninh, Bình Phước, Long An, Tiên Giang); và các khu kinh tế lớn ở
Đồng bằng sông Cửu Long (bao gồm Cần Thơ, An Giang, Kiến Giang, Cà
Mau) [4]. Hiện nay, chúng ta có hàng loạt thị trường được hình thành do phân
cơng lao động, đó là: thị trường công nghệ, thị trường yếu tố sản xuất ... Tạo
đà cho nền kinh tế hàng hoá nhiều yếu tố phát triển, giúp chúng ta nhanh
chóng hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Trong thời kỳ sau chuyển đổi của Việt Nam, sự tách biệt về kinh tế giữa các
nhà sản xuất rất rõ ràng. Việt Nam thừa nhận sự tồn tại của tài sản tư nhân.
Ngoài các doanh nghiệp nhà nước như: Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập
đồn xăng dầu Việt Nam, Tổng cơng ty xăng dầu Việt Nam, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng công ty Công nghiệp mỏ và than Việt
Nam,… Hiện nay cịn có nhiều doanh nghiệp tư nhân hoạt động ở Việt Nam,
như Vingroup, Trường Hải Auto Công ty Cổ phần, Cơng ty Cổ phần Tập đồn
Vàng bạc Đá quý Doji, công ty điện thoại di động hàng đầu thế giới. Công ty
Cổ phần FPT. Không chỉ vậy, các doanh nghiệp tư nhân cũng đã có những
15
Downloaded by quang tran ()
lOMoARcPSD|14734974
thành tích đáng kể trong sản xuất và hoạt động. Vingroup xếp hạng Top 10
Doanh nghiệp Tư nhân lớn nhất Việt Nam 3 năm liên tiếp, theo công bố của
Vietnam Report ngày 26/11/2019. Đồng thời, Vingroup là doanh nghiệp tư
nhân duy nhất nằm trong Top 10 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, bao gồm
các công ty nhà nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài và tư nhân [5].
Trong nền kinh tế tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản
phẩm lao động: sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể những
người sản xuất hàng hóa nhỏ, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, sở hữu hỗn
hợp, sở hữu chung ..., sở hữu nhà nước doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân,
v.v.
Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trực tiếp tư liệu sản xuất
cũng thể hiện rõ. Lấy doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam làm ví dụ, hình
thức sở hữu là do nhà nước (nhà nước bỏ vốn đầu tư, lợi nhuận thuộc về ngân
sách nhà nước, nhà nước chịu lỗ), và nhà nước có quyền quyết định “số phận”
của doanh nghiệp: thành lập, giải thể, tổ chức lại, yêu cầu phá sản ... Tuy
nhiên, tuy sở hữu là nhà nước nhưng doanh nghiệp nhà nước có quyền sử
dụng trực tiếp tư liệu sản xuất. Đó là quyết định chiến lược, phương án sản
xuất kinh doanh, phương án đầu tư; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, đề
xuất bổ nhiệm, cách chức các chức danh quản lý quan trọng trong công ty;
quyết định đầu tư vào công ty khác, tăng, giảm công ty; quyết định tổ chức
lại, chuyển đổi hình thức sở hữu, và giải thể cơng ty; quản lý nội bộ, tổ chức,
quản lý. Quy chế tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật và các quy định khác để
thực hiện quản lý kinh doanh [6]. Ví dụ, Cơng ty Cổ phần Sữa Việt Nam Vinamilk (vốn nhà nước) có quyền quyết định việc thực hiện chương trình
quảng cáo sản phẩm. Vinamilk cũng là một điển hình cho mơ hình cổ phần
hóa thành cơng của doanh nghiệp nhà nước.
Phương thức xã hội hoá sản xuất giữa các ngành và các xí nghiệp có cùng sở
hữu vẫn khơng bình đẳng. Đó là do cơ cấu kinh tế nước ta hiện nay là cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần, sự tồn tại của các thành phần kinh tế là một tất yếu
khách quan. Ở nước ta, tư liệu sản xuất còn có quan hệ sở hữu đa dạng, tương
ứng với nền kinh tế nhiều thành phần. Điều này tạo ra sự độc lập về kinh tế
giữa các thành viên và doanh nghiệp. Nó cũng có tác dụng làm cho hàng hóa
phát triển.
Có thể thấy
Việt Nam hiện nay tồn tại đầy đủ hai điệu kiện của sản xuất hàng hóa. Do đó,
sản xuất hàng hóa tồn tại ở Việt Nam là một tất yếu. Tuy nhiên, sản xuất hàng
hóa lại mang tính hai mặt.
16
Downloaded by quang tran ()
lOMoARcPSD|14734974
Nguồn tham khảo
[1] />[2] />[3] />[4] />mquocgia?articleId=10000721
[5] />[6] />Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin
17
Downloaded by quang tran ()