Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

PHÂN BIỆT cổ PHIẾU và TRÁI PHIẾU (EN)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.13 KB, 2 trang )

PHÂN BIỆT CỔ PHIẾU VÀ TRÁI PHIẾU
Cổ phiếu và trái phiếu là hai hình thức đầu tư chứng khốn rất phổ biến khơng chỉ ở
Việt Nam mà cịn trên tồn thế giới. Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư khi mới tham gia thị
trường còn băn khoăn với việc lựa chọn đầu tư cổ phiếu hay trái phiếu. Để đưa ra lựa
chọn đầu tư phù hợp, trước hết cần phân biệt được những đặc điểm cơ bản giữa cổ
phiếu và trái phiếu.
Khái niệm cổ phiếu và trái phiếu
Theo quy định tại khoản 1, Điều 120 Luật Doanh nghiệp 2014, cổ phiếu là chứng chỉ
do công ty cổ phần phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở
hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cịn theo quy định tại khoản 2, Điều 6
Luật Chứng khoán 2006, cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp
pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.
Tương tự như cổ phiếu, trái phiếu cũng là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp
pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Tuy nhiên,
nếu cổ phiếu ghi nhận quyền sở hữu đối với một phần vốn điều lệ thì căn cứ vào
Khoản 3, Điều 6 Luật Chứng khoán 2006, trái phiếu ghi nhận quyền sở hữu đối với
một phần vốn nợ của tổ chức phát hành.
Phân biệt cổ phiếu và trái phiếu
Mặc dù cổ phiếu và trái phiếu có rất nhiều điểm chung như đều được thể hiện dưới
hình thức chứng chỉ, bút tốn ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, hay đều có thể mua bán,
chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, thừa kế v.v.., hai sản phẩm chứng khốn này lại có
những khác biệt rất cơ bản. Ta có thể phân biệt được cổ phiếu và trái phiếu dựa trên
những tiêu chí sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể phát hành, theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, công ty
cổ phần được phát hành cả cổ phiếu và trái phiếu. Ngồi ra, Chính phủ cũng là một
chủ thể phát hành trái phiếu. Theo quy định mới tại Khoản 4 Điều 46 Luật Doanh
nghiệp 2020, công ty TNHH hai thành viên trở lên cũng có quyền phát hành trái phiếu.
Thứ hai, về hệ quả của việc phát hành, việc phát hành cổ phiếu sẽ làm tăng vốn điều lệ
của công ty cổ phần và làm thay đổi cơ cấu cổ phần của các cổ đông hiện hữu, thậm
chí làm thay đổi quyền quản trị của các cổ đông, trong khi việc phát hành trái phiếu sẽ
làm tăng vốn vay, nghĩa vụ trả nợ của công ty nhưng không làm thay đổi cơ cấu cổ


phần của các cổ đông hiện hữu.


Thứ ba, về bản chất, cổ phiếu là chứng khoán vốn (người nắm giữ cổ phiếu là một chủ
sở hữu của công ty), làm tăng vốn của chủ sở hữu cơng ty, cịn trái phiếu là chứng
khốn nợ (người nắm giữ trái phiếu là chủ nợ của công ty), không làm tăng vốn của
chủ sở hữu công ty.
Thứ tư, về tư cách chủ sở hữu, người sở hữu cổ phiếu được gọi là cổ đông của công ty
cổ phần và được chia một phần lợi nhuận của công ty thông qua việc nhận cổ tức từ cổ
phần đang sở hữu. Vì trái phiếu là một loại giấy ghi nhận nợ nên người sở hữu trái
phiếu không phải là thành viên hay cổ đông của công ty, họ chỉ đơn giản được hiểu là
trở thành chủ nợ của công ty.
Thứ năm, về lợi tức thu được, người sở hữu cổ phiếu được nhận cổ tức. Cổ tức được
chia không cố định, phụ thuộc vào kết quả sản xuất, kinh doanh của cơng ty. Khi cơng
ty làm ăn có lãi mới được chia lợi tức, khi công ty làm ăn thua lỗ thì khơng được chi
trả cổ tức. Do đó, cổ phiếu có độ rủi ro cao.
So với cổ phiếu, trái phiếu có độ rủi ro thấp hơn. Tỷ lệ lãi suất ổn định của trái phiếu
được gọi là trái tức và kết quả kinh doanh của công ty không làm ảnh hưởng đến trái
tức mà người sở hữu trái phiếu được trả định kì.
Thứ sáu, về nguồn trả lãi của doanh nghiệp, nguồn trả cổ tức là phần trích từ lợi nhuận
sau thuế của cơng ty. Ngược lại, chi phí lãi từ trái phiếu phải trả cho người sở hữu trái
phiếu là chi phí trước thuế, được khấu trừ khi tính thuế.
Thứ bảy, về thời hạn sở hữu, cổ phiếu không có thời hạn xác định mà phụ thuộc vào ý
chí và quyết định của chủ sở hữu, đồng thời cũng khơng có tính hồn trả trực tiếp. Trái
phiếu được hồn vốn và có thời hạn xác định được ghi trong trái phiếu. Thời hạn này
có thể là ngắn hạn hoặc dài hạn.
Thứ tám, về quyền của chủ sở hữu, trong khi cổ đơng có quyền biểu quyết tại Đại hội
đồng cổ đông (Trừ cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đơng ưu đãi hồn lại khơng được dự
họp Đại hội đồng cổ đông và biểu quyết các vấn đề của công ty), quyền đề cử, ứng cử
cũng như tham gia hoạt động của cơng ty thì người sở hữu trái phiếu lại khơng có

những quyền này.
Thứ chín, về trách nhiệm của chủ sở hữu, người sở hữu cổ phiếu chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp vào cơng ty. Người
sở hữu trái phiếu không phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty.
Cuối cùng, về thứ tự thanh tốn khi cơng ty phá sản hoặc giải thể, trái phiếu được ưu
tiên thanh toán trước cổ phiếu. Chỉ khi đã thanh toán hết các nghĩa vụ khác, phần vốn
góp của cổ đơng mới được thanh tốn sau cùng.



×