Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

NGÔN BẢN VÀ DẠY HỌC HỘI THOẠI Ở TIỂU HỌC: NGÔN BẢN VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.47 KB, 16 trang )

Học phần
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGÔN BẢN
VÀ DẠY HỌC HỘI THOẠI Ở TIỂU HỌC

TÊN ĐỀ TÀI:
NGÔN BẢN VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO DẠY HỌC
TẬP LÀM VĂN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC.

MỤC LỤC
Nội dung
Mở đầu

Trang


2

1. Lý do chọn đề tài:
Nội dung
NỘI DUNG
Nội dung 1: Những vấn đề chung về ngôn bản
1.1. Khái niệm, nội dung và hình thức của ngơn bản
1.2. Đích của ngơn bản và hiệu quả giao tiếp
1.3. Các nhân tố giao tiếp và mối quan hệ với ngôn bản
1.3.1. Nhân vật giao tiếp:

1
1
3
4
5



1.3.2. Thực tế được nói tới.
1.3.3. Hồn cảnh giao tiếp
Nội dung 2: Vận dụng lí thuyết ngơn bản vào dạy học tập làm
văn ở tiểu học
2.1. Những thuận lợi và khó khăn trong dạy học tập làm văn ở
Tiểu học dưới góc độ lí thuyết ngơn bản
2.2. Vận dụng lí thuyết về ngơn bản vào việc đổi mới dạy học tập
làm văn ở Tiểu học
2.2.1. Sự ứng dụng lí thuyết hoạt động lời nói vào việc dạy Tập
làm văn:
2.2.2.Các dạng lời nói và sự ứng dụng vào dạy Tập làm văn ở tiểu
học.
1.3.Sự ứng dụng các hiểu biết về các dạng lời nói vào dạy Tập
làm văn ở tiểu học.
1.4.Ngữ pháp văn bản và sự ứng dụng vào dạy học Tập làm văn.
1.5.Các kiến thức về loại thể và tác phẩm văn học và sự ứng dụng
vào dạy Tập làm văn.
Nội dung 3: Thiết kế một bài dạy (giáo án tiết dạy) hội thoại ở
tiểu học
Kết luận
Tài liệu tham khảo

6

7

10
11
12

14
16


3

ĐỀ TÀI
NGÔN BẢN VÀ VIỆC VẬN DỤNG VÀO DẠY HỌC
TẬP LÀM VĂN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Dạy học là một nghệ thuật, dạy học cịn là một q trình hết sức quan trọng. Đặc
biệt, bậc tiểu học là một bậc nền tảng có vai trị quan trọng, tạo những cơ sở ban đầu rất
cơ bản bền vững về trí thức, hình thành những đường nét phát triển nhân cách, giúp trẻ có
thể tiếp tục học lên bậc học cao hơn.
Tiếng Việt ở trường tiểu học được dạy và học thông qua tám phân môn (hay bảy
loại bài học) khác nhau: Học vần, tập đọc, tập viết, chính tả, luyện từ và câu, kể chuyện,
tập làm văn. Phân mơn Tập làm văn có vị trí đặc biệt trong việc dạy và học tiếng Việt xét
trên hai phương diện:
Phân môn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về tiếng Việt do các phân
môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hồn thiện chúng. Để làm được
một bài văn nói hoặc viết, học sinh phải hồn thiện cả bốn kĩ năng nói, đọc, viết, nghe ;
phải vận dụng các kiến thức về tiếng Việt. Trong quá trình vận dụng này, các kĩ năng và
kiến thức đó được hồn thiện và nâng cao dần.
Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh kĩ năng sản sinh văn bản (nói và
viết). Nhờ vậy tiếng việt khơng chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần,
từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao
tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác, phân mơn Tập làm văn đã góp phần hiện thực hóa
mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng
Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh học sinh lĩnh hội các tri thức khoa học.

NỘI DUNG
Nội dung 1: Những vấn đề chung về ngôn bản
1.1. Khái niệm, nội dung và hình thức của ngơn bản
Khái niệm: Ngôn mà theo các biểu tượng hiện nay là sản phẩm dạng nói dẫn gián
tiếp của ngơn ngữ theo cách quan niệm này một rưỡi các yếu tố ngôn ngữ mạch lạc được
người tham gia dự tiếp tạo nên để truyền đạt những nội dung giao tiếp nào đó sẽ được gọi
là văn bản.
Nội dung: Như chúng ta vừa nói tới ở trên, văn bản là những người nói ra hoặc
viết ra trong hoạt động giao tiếp. nói một cách khác ngon bạn là do một chuỗi lời nói
mạch lạc ngành truyền đạt một nội dung giao tiếp nào đó của người tham dự giao tiếp tạo
nên. Bởi đặc điểm này, ta có thể nhận ra rằng bất kỳ môn bản nào cũng bao gồm hai
thành phần: Thành phần nội dung và thành phần hình thức.


4

Thành phần nội dung trong văn bản là thành phần phản ánh thực tế, phản ánh thái
độ, tình cảm, cảm ơn sự đánh giá hiện thực được nói tới và phản ánh những ý muốn tác
động tới hành động ảnh ở người nghe của những người tham dự giao tiếp. nếu tiếp tục đi
sâu hơn nữa vào nội dung văn bản, chúng ta lại có thể chia nội dung văn bản thành 2
phần nhỏ hơn: Thành phần nội dung sự vật và thành phần nội dung liên cá nhân.
Thành phần nội dung sự vật: (Còn gọi là thành phần nội dung miêu tả), được coi
là phần nội dung quan trọng nhất của văn bản, bao gồm tất cả những điều có liên quan tới
hiện thực được nói tới trong văn bản đó. trong bất kỳ một mơn bản nào, thành phần nội
dung sự vật cũng là thành phần luôn luôn có mặt.
Thành phần nội dung sự vật của mơn bản chính là thành phần chủ yếu thực hiện
được thuyết phục về nhận thức.
Bên cạnh thành phần nội dung thực vật, trong văn bản thành phần nội dung liên cá
nhân. Tất cả những gì thuộc thái độ, tình cảm sự đánh giá... của người nói đối với hiện
thực được nói tới trong văn bản, cũng như những ý muốn về hành động mà người nói nói

muốn mình hoặc muốn người nghe thực hiện đều thuộc về nội dung liên quan cá nhân
của mơn bạn đó.
Như vậy, Thành phần nội dung liên cá nhân có ngun bản chính là thành phần
chủ yếu được thực hiện mục đích thuyết phục về tình cảm và hành động.
Nhưng khi ta có được nội dung muốn chuyển được nội dung đó đến mọi người
nha người nói cần phải sử dụng một hình thức nhất định. hình thức đó là cách tổ chức bản
thân các yếu tố ngôn ngữ lẫn việc sử dụng các yếu tố đi kèm như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ
dễ thể hiện nội dung. Người nghe sẽ tiếp nhận nội dung văn bản thơng qua việc tiếp nhận
các yếu tố hình thức của văn bản đó. Hình thức nào nội dung ấy và ngược lại nội dung
nào hình thức ấy. nhưng mối tương quan ấy không phải là tương quan một- một, nghĩa là
mỗi một nội dung không phải chỉ duy nhất phù hợp với hình thức mà có thể được thể
hiện ra bằng Nhiều hình thức khác nhau.
Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của văn bản, nội dung quyết định
hình thức, quy định việc lựa chọn hình thức, nhưng cũng khơng thể vì mà coi nhẹ vai trị
của hình thức. Hình thức khơng phải chỉ nằm trong mối tương quan với nội dung mà còn
nằm trong mối quan hệ rất chặt chẽ đối tượng tiếp nhận văn bản. Có khi chỉ với sự thay
đổi nhất định nào đó về hình thức mà một nội dung nào đó có thể trở nên khó hiểu hoặc
ngược lại trở thành dễ hiểu đối với người nhận. Chính vì lẽ đó, trong giao tiếp, nhiệm vụ
của chúng ta là vừa phải làm sao cho những điều chúng ta nói ra được tiếp thu một cách


5

đầy đủ, chính xác ở người nhận, vừa phải làm sao tạo được điều kiện tâm lý thuận lợi
nhất cho việc tiếp thu đó. Nhưng việc tiếp thu lại phụ thuộc đáng kể thuyết phục về hình
thức.
Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng thuộc về nội dung văn bản chủ yếu là những yếu
tố hướng tới hiện thực, tạo nên cơ sở logic cho văn bản, rất cho ngon bản phản ánh chính
xác nhất hiện thực. trong khi các yếu tố thuộc thành phần nội dung hướng nhiều tới hiện
thực thì các yếu tố thuộc hình thức lại hướng nhiều tới người chấp nhận, giúp cho việc

tiếp nhận nội dung ở người đọc diễn ra một cách dễ dàng nhất, có hiệu quả nhất.
1.2. Đích của ngơn bản và hiệu quả giao tiếp
Ngôn bản bao giờ cũng nhằm đạt tới một đích nào đó. Đích của ngơn bản cũng
chính là đích của giao tiếp. Đích ấy tùy thuộc những cuộc giao tiếp cụ thể mà có sự khác
nhau.
Có khi biết đó đơn thuần chỉ là sự làm quen, nhưng cũng có thêm ít đó lại là sự
bọc bạch. Tâm sự mong một sự cảm thông ở người nghe hoặc đưa ra những kiến nghị,
chỉ yêu cầu hay những thông báo hết sức quan trọng về một vấn đề nào đó… Có thể nói
đích trong giao tiếp, trong ngơn bản rất đa dạng và phong phú.
Trong một ngôn bản, không phải lúc nào chúng ta cũng chỉ tìm thấy một đích. Bên cạnh
đích chính, trong mơn bản cịn có thể có một hay nhiều đích phụ.
Như vậy, nhìn một cách chung nhất chúng ta có thể nói rằng chính sự thống nhất
về đích tạo nên sự liên kết nội dung trong ngơn bản. Đích được coi là dấu hiệu đầu tiên
để xác lập một ngôn bản và quyết định định tính hồn chỉnh của văn bản. đích một ngơn
bản có thể chia nhỏ ra thành:
- Đích tác động về nhận thức:( hay còn gọi là thuyết phục về nhận thức).
- Đích tác động về tình cảm.
- Đích tác động về hành động.
Hiệu quả của việc giao tiếp sẽ được đánh dấu bằng những đích giao tiếp đã đạt
được đến chừng mực nào. Nhưng việc có đạt được đích hay khơng và đạt đến chừng mực
nào thì phải lúc nào cũng có thể được nhận ra ngay tức thời. Tất nhiên là, không đại đa số
trường hợp, hiệu quả của việc giao tiếp, chúng ta có thể nhận ra ngay lập tức. Nhưng


6

trong thực tế, có những cuộc giao tiếp người ta chỉ có thể nhận ra hiệu quả của nó sau
một thời gian dài, thậm chí năm, mười năm sau chỉ có thể thấy được.
Tuy vậy vẫn có thể nói một cách khái quát là ngôn bản đạt được hiệu quả giao tiếp
Khi ngơn bản đó có sự tác động tới người nghe làm cho họ thay đổi về nhận thức, biến

đổi về tình cảm và từ đó hành động theo hướng mà người nói mong muốn. những ngơn
bản đạt được đầy đủ cả ba đích: tác động về nhận thức, tác động về tình cảm và tác động
và hành động là những ngôn bản đạt hiệu quả giao tiếp cao. Ngược lại, những mơn bản
khơng đạt được mục đích đặt ra là những văn bản không đạt hiệu quả giao tiếp.
1.3. Các nhân tố giao tiếp và mối quan hệ với ngôn bản
Chúng ta đều thấy rõ ràng trong hoạt động giao tiếp có nhiều nhân tố ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc tổ chức, xây dựng văn bản. tất cả những nhân tố này đều
có để lại dấu ấn của mình trong ngơn bản. Có thể lúc này nhưng tố này để lại dấu ấn đậm
nét hơn. Lúc khác nhân tố khác để lại dấu ấn đậm nét hơn, nhưng tất cả đều có tác động
tới việc tạo lập văn bản. chúng ta gọi tất cả các nhân tố ảnh hưởng xa gần và để lại những
dấu ấn đó trong ngơn bản là các nhân tố giao tiếp.
Để hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa nhân tố giao tiếp đối với việc xây dựng ngôn
bản, chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng nhân tố.
1.3.1. Nhân vật giao tiếp:
Người phat (người viết, người nói nói) và người nhận ( người đọc, người nghe)những nhân vật tham dự trong quá trình giao tiếp- được chúng ta gọi chung là những
nhân vật giao tiếp.
Trong hoạt động giao tiếp, nếu người phát ln ln là một, thì người nhận khơng
phải lúc nào cũng như vậy. Có khi người nhận là một, có khi người nhận lại là số đơng
(như trường hợp giáo viên dạy trong nhà trường, trường hợp một báo cáo viên nói trước
cơng chúng…) Nhưng cũng có những trường hợp, mặc dù người nhận là số đông song
chỉ có một mặt một số nhất định trong số đơng đó đó là đối tượng giao tiếp đích thực mà
người phát hướng tới. ở những trường hợp ấy, người nhận đích thực sẽ nhận ra trong
ngơn bản những tín hiệu riêng dành cho bản thân mình.
Có người đã nghĩ rằng khi mình đã là người khác thì mình muốn trình bày nội
dung văn bản thế nào cũng được, tùy vào ý thích của bản thân. Đây là một ý nghĩ sai lầm.
Bởi lẽ, vẽ trong hoạt động giao tiếp, như chúng ta đã nói tới ở trên, bao giờ cũng gồm


7


người khác và người nhận. Vì vậy, hiệu quả giao tiếp khơng phải chỉ phụ thuộc vào người
khác mà cịn phụ thuộc vào cả người nhận. nói, viết những vấn đề mà người nhận không
hiểu hoặc không muốn nhận, hoặc nói viết những vấn đề khơng phù hợp với nếp nghĩ,
với thói quen trong đời sống thường ngày của người nhận... Thì có thể nói rằng cuộc giao
tiếp đã khơng đạt hiệu quả.
Như vậy, hiểu biết về người tiếp nhận ngôn bản là điều không thể thiếu đối với
người phát. hiểu biết này càng cụ thể, để càng phong phú thì hiệu quả giao tiếp càng cao.
Đó là những hiểu biết về thói quen sử dụng ngơn ngữ, lợi ích, kinh nghiệm, hồn cảnh
sống... của người giao tiếp. đó là những hiểu biết về nhu cầu, thu hứng thú, tâm lý... của
họ. Họ hiểu biết thói quen ngơn ngữ để có cách lựa chọn phương tiện ngơn ngữ phù hợp
với khẩu vị của họ, từ cách dùng từ, đặt câu với cách sử dụng hình ảnh. một chi tiết đáp
ứng được nhu cầu, “ gãi đúng chỗ ngứa” của họ, sức thuyết phục của ngơn bản sẽ thay
đổi hẳn. Có thể nói rằng sự hiểu biết về đối tượng giao tiếp càng phong phú, càng sâu sắc
thì hiệu quả của việc giao tiếp càng cao.
Từ những sự phân tích trên, chúng ta có thể kết luận rằng nhân vật giao tiếp Là
một trong những nhân tố để lại nhiều dấu ấn trong việc lựa chọn nội dung và cách thức
trình bày văn bản.
1.3.2. Thực tế được nói tới.
Nhân tố giao tiếp thứ hai làm ảnh thực tế được nói tới trong ngôn bản. Thực tế này
đã tạo thành nội dung ngơn bản. Nội dung đó có thể là sự vật, hiện tượng của tự nhiên,
của xã hội được người phát nhận thức, ai cũng có thể là những tư tưởng, cảm ơn hoặc
những câu chuyện tưởng tượng... của người phát ( nội dung dự kiến) với sản phẩm của
việc thực hiện ý định đó (ngơn bản) thường bao giờ cũng vẫn có một khoảng cách nhất
định. Khơng phải lúc nào người phát cũng có thể hiện hết hồn tồn chính xác những ý
định của mình trong ngơn bản vội rất nhiều lý do như: Khả năng sử dụng ngôn từ, hồn
cảnh giao tiếp, tình trạng tâm sinh lý... do đó giữa ngôn bản và nội dung dự kiến ban đầu
của người phát có khoảng cách cũng là điều tất nhiên.
1.3.3. Hồn cảnh giao tiếp
Nhân tố thứ ba có để lại những dấu ấn của mình trong văn bản là hồn cảnh giao
tiếp.

Hồn cảnh giao tiếp có thể được hiểu rất rộng: Từ hoàn cảnh xã hội đến hoàn cảnh
tự nhiên, từ hoàn cảnh tâm lý chung của cộng đồng đến bối cảnh lịch sử... hoàn cảnh giao


8

tiếp rộng này, dù ít hay nhiều cũng có những ảnh hưởng nhất định tới việc xây dựng ngôn
bản. mặt khác, hồn cảnh giao tiếp cũng có thể hiểu một cách hẹp hơn, cụ thể hơn, đó là
tình huống giao tiếp (Hay như một số người thường gọi là ngữ cảnh). Các yếu tố thời
gian, địa điểm, em hình thức giao tiếp, tình trạng sức khỏe, nghe những sự việc xảy ra
xung quanh... tồn tại trong quá trình giao tiếp đều được quan niệm là tình huống giao
tiếp. Rõ ràng là việc xử lý những mối quan hệ này trong khi xây dựng văn bản bao giờ
cũng đem lại hiệu quả giao tiếp cao.
Nội dung 2: Vận dụng lí thuyết ngôn bản vào dạy học tập làm văn ở tiểu học
2.1. Những thuận lợi và khó khăn trong dạy học tập làm văn ở Tiểu học dưới
góc độ lí thuyết ngơn bản.
*Thuận lợi:
Giáo viên và học sinh có được nhiều sách tham khảo để phát triển kĩ năng nói,
viết.
Sau mỗi tiết Tập làm văn đều có bài tập dưới dạng phiếu học tập nhằm khắc phục
được một số hạn chế của sách giáo khoa và nâng cao chất lượng giờ học Tập làm văn. Từ
đó, giúp giáo viên dễ dàng hướng dẫn học sinh khai thác nội dung tốt hơn.
Hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học cũng được áp dụng hầu hết các mơn
học, trong đó có phân môn Tập làm văn làm cho giờ học thêm sinh động và khắc sâu kiến
thức cho học sinh nhiều hơn thơng qua các hoạt động trong giờ học.
*Khó khăn:
Sau những thuận lợi thì trong thực tế giảng dạy giáo viên và học sinh cịn gặp rất
nhiều khó khăn trong việc dạy cũng như học phân môn Tập làm văn:
Giáo viên:
+ Do trình độ sư phạm và kiến thức của giáo viên còn hạn chế nên việc lựa chọn,

sử dụng từ ngữ trong việc hướng dẫn học sinh nói, viết chưa được đi sâu và nội dung bài
viết và những lời văn nói viết chưa sinh động.
+ Giáo viên chưa phối hợp linh hoạt, nhịp nhàng khi sử dụng các phương pháp
làm cho học sinh thường bị động và chưa phát huy tính tích cực của học sinh.
Học sinh:
+ Do hồn cảnh gia đình cịn gặp nhiều khó khăn nên sau giờ học, học sinh còn
phải giúp đỡ mẹ cha nên việc xem bài ở nhà chưa có thời gian.
+ Phần lớn học sinh là vùng sâu, việc tiếp xúc với môi trường sống ở mức độ hẹp
nên việc sử dụng từ ngữ và làm bài chưa được sinh động, sử dụng từ ngữ chưa phong
phú.
2.2. Vận dụng lí thuyết về ngôn bản vào việc đổi mới dạy học tập làm văn ở Tiểu
học
2.2.1. Sự ứng dụng lí thuyết hoạt động lời nói vào việc dạy Tập làm văn:


9

Giữa hệ thống kĩ năng làm văn với cấu trúc của hành vi nói năng có mối liên quan.
Xem xét mối liên quan này giúp chúng ta giải quyết được nhiều vấn đề đang đặt ra cho
việc dạy Tập làm văn. Sau đây là bảng hệ thống hóa mối liên quan trên (chú ý: đây là kĩ
năng làm bài văn thường được nói tới hiện nay).
Cấu trúc hoạt động lời nói
Hệ thống kĩ năng làm văn
1.Định hướng
1.Kĩ năng xác định đề bài, yêu cầu và giới hạn
đề bài bài viết (kĩ năng tìm hiểu đề).
2.Kĩ năng xác định tư tưởng ơ bản của bài viết.
2.Lập chương trình nội dung 3.Kĩ năng tìm ý (thu thập tài liệu cho bài viết).
biểu đạt
4.Kĩ năng lập dàn ý (hệ thống hóa, lựa chọn tài

liệu).
3.Hiện thực hóa chương trình
5.Kĩ năng diễn đạt (dùng từ đặt câu) thể hiện
chính xác, đúng đắn, hợp với phong cách bài
văn, tư tưởng bài văn.
6.Kĩ năng viết đoạn, viết bài theo các phong
cách khác nhau (miêu tả, kể chuyện, viết thư...)
4.Kiểm tra
7.Kĩ năng hoàn thiện bài viết (phát hiện và sửa
chữa lỗi)
2.2.2.Các dạng lời nói và sự ứng dụng vào dạy Tập làm văn ở tiểu học.
Nhà trường cần phát triển ở học sinh khả năng tham gia hội thoại, giúp các em luyện lời
nói đối thoại. Nhược điểm của chương trình làm văn hiện nay là chưa có nội dung dạy
học sinh tham gia hội thoại.
a. Lời độc thoại:
Lời độc thoại địi hỏi sự tập trung ý chí và tư tưởng cao độ của người nói.
-Hồn cảnh xuất hiện:
Lời độc thoại là lời nói của một người cho những người khác nghe hoặc chỉ nói
cho chính mình nghe.
Ranh giới giữa lời độc thoại và lời đối thoại chỉ mang tính ước định. Nếu cơ lập
lời nói của một người trong cuộc hội thoại chúng ta được một đoạn độc thoại.
- Xét về mặt giao tiếp:
+ Lời độc thoại thường xuất hiện trong một số hoàn cảnh cụ thể: người báo cáo,
đọc diễn văn trong các cuộc họp, hội thảo, thầy giáo giảng bài, một người mải suy nghĩ
nói to ý nghĩ của mình...Như vậy, có lời độc thoại được chuẩn bị trước khá công phu (như
các bài diễn văn, bài nói chuyện, các bản tin của đài phát thanh hay truyền hình...). Đồng
thời có lời độc thoại phát sinh do ngẫu nhiên.
+ So với đối thoại, người độc thoại thường chủ động hơn : chủ động trong việc lựa
chọn nội dung, trong việc định hướng nói, lựa chọn phương pháp nói...Người độc thoại
có điều kiện thu thập tài liệu (tranh, ảnh, vật chất...), xây dựng đề cương, suy ngẫm kỹ về



10

-

từng nội dung sẽ trình bày. Khơng bỏ cơng phu chuẩn bị, lời độc thoại có thể bị đứt đoạn
vì khơng có nội dung liên tục, phải chấm dứt câu vì biết nội dung lan man xa đề tài, vì lạc
hướng.
+ Lời độc thoại thường hướng tới nhiều người, hướng tới những đối tượng không
xác định. Muốn cho lời độc thoại có tính hấp dẫn cần nắm được nghệ thuật nói: Biết
chọn đúng đề tài nhiều người quan tâm, thể hiện trong bài nói. Sự tập trung ý chí và tư
tưởng cao độ , sự hiểu biết đề tài một cách sâu sắc và có hệ thống, có lơgic, biết cách điều
khiển giọng nói (ngữ điệu, âm sắc, cao độ, cường độ và trường độ...), biết nắm bắt phản
ứng của người nghe để tự điều chỉnh nội dung cũng như nghệ thuật nói là các yếu tố bảo
đảm sự thành công của lời độc thoại.
Xét về mặt cấu trúc lời độc thoại:
+ Để lời độc thoại đạt các yêu cầu khi giao tiếp, nhất thiết người chuẩn bị phải chú
ý trau dồi những mối liên kết bên trong (liên kết về nội dung, về cấu trúc và lôgic, về cú
pháp), biết sắp xếp dàn ý cẩn thận, cặn kẽ để bất cứ người nghe nào cũng hiểu được đồng
thời lôi cuốn họ. Vì vậy, trong khi triển khai nội dung lời độc thoại, cần tạo ra những tình
huống thu hút sự chú ý của mọi người nghe, buộc họ phải suy nghĩ cùng người nói.
+ Ngơn ngữ của lời độc thoại cũng có những đặc điểm riêng. Cần có sự lựa chọn
cách xưng hơ, các đại từ chỉ ngơi thích hợp để tạo lập mối quan hệ giữa người nói với
người nghe. Hệ thống từ vựng cũng cần chọn lọc cho thích hợp.
-Các bài tập làm văn miệng chính là những lời độc thoại theo đề tài. Tuy nhiên các
tiết học này chưa gây hứng thú cho học sinh và hiệu quả chưa cao. Cần suy nghĩ để hiểu
rõ hơn cơ chế hoạt động của dạng độc thoại và có sự ứng dụng sáng tạo vào bài làm văn
miệng để khắc phục các nhược điểm hiện nay.
b. Khẩu ngữ và bút ngữ:

Lời nói bên ngồi được chia thành khẩu ngữ và bút ngữ:
Khẩu ngữ xuất hiện sớm hơn bút ngữ như một hệ quả của nhu cầu giao tiếp tự nhiên. Bút
ngữ hình thành nhờ kết quả của quá trình học tập. Vì vậy ở các lớp đầu cấp phổ thơng,
khẩu ngữ phát triển trội hơn cịn bút ngữ mới bắt đầu được hình thành và nhiều khi chịu
ảnh hưởng của khẩu ngữ (viết như nói). Càng lên các lớp trên, bút ngữ càng phát triển và
được sử dụng thường xuyên, rộng rãi. Đến lúc đó bút ngữ ảnh hưởng ngược lại đối với
khẩu ngữ.
b.1.Khẩu ngữ (lời nói miệng) là ngơn ngữ của âm thanh. Nó là một phương tiện
trao đổi thông tin trong xã hội. Nhịp điệu lời nối nhanh hay chậm. độ cao hay thấp của
giọng nói, sự ngắt đoạn, đều để lại ảnh hưởng đối với khẩu ngữ. Do đó khẩu ngữ có khả
năng truyền cảm lớn.


11

Nhược điểm của khẩu ngữ là không được chuẩn bị trước, người nói khơng có thời
gian suy ngẫm về cấu trúc, dàn ý, về chọn từ. khẩu ngữ đòi hỏi sự ứng xử linh hoạt về lời
nói, sử dụng cú pháp đơn giản hơn, câu ngắn hơn, thâm chí khơng trọn vẹn ý...
Trong khẩu ngữ lại có hai dạng: lời đối thoại và lời độc thoại.
Trong việc dạy tiếng mẹ đẻ, nhà trường có cần phát triển khẩu ngữ cho học sinh
khơng? Hiện nay đây là vấn đề cịn đang tranh luận. Có ý kiến ngược lại, cho rằng, dù là
học tiếng mẹ đẻ, nhà trường vẫn phải phát triển ở học sinh lời nói miệng có văn hóa. Đây
cũng là điểm phân biệt một đứa trẻ có giáo dục hay khơng có giáo dục về mặt ngơn ngữ.
b.2.Bút ngữ (bài viết).
Như trên đã nêu, bút ngữ là sản phẩm của quá trình học tập. Bút ngữ là phương
tiện giao tiếp và học tập có hiệu quả, chứng tỏ trình độ văn minh và văn hóa của người
viết.
Trong văn bản bút ngữ, các câu thường đầy đủ và phức tạp hơn khẩu ngữ, dùng
nhiều từ ngữ sách vở hơn, bài có khối lượng lớn hơn so với một bài nói miệng cùng một
đề tài. Trong bút ngữ , các yếu tố phi ngơn ngữ khơng cịn vai trị phụ trợ. Người ta dùng

các biện pháp khác để bổ trợ như dùng các dấu câu, dừng cách phân chia bài thành đoạn,
dùng các kiểu chữ khác nhau...
Ở các lớp đầu cấp tiểu học, học sinh mới được làm quen với bút ngữ nên cần có
phương pháp dạy thích hợp và có hiệu quả. Đừng bắt các em phải đọc, phải ghi những
bài văn quá dài, quá khó.
Càng lên lớp trên bút ngữ càng phát triển. Có vai trị quan trọng nhất trong việc
này là môn Tiếng Việt và văn học. Song cũng cần tận dụng cơ hội làm bài của tất cả các
mơn học cịn lại để giúp học sinh trau dồi năng lực viết các bài văn, làm bài.
1.3.Sự ứng dụng các hiểu biết về các dạng lời nói vào dạy Tập làm văn ở tiểu
học.
Ở tiểu học, người ta chia bài tập làm văn làm hai loại: bài làm miệng và bài làm
viết. Cơ sở của sự phân chia này là sự phân chia lời nói thành dạng khẩu ngữ và bút ngữ.
Điều cần lưu ý là cả hai dạng bài làm văn (bài làm miệng và bài làm viết) chủ yếu thuộc
dạng lời độc thoại. Đó là sự bày tỏ tình cảm, nhận xét, là sự trình bày các hiểu biết về
cuộc sống, về văn hóa...của từng học sinh theo một đầu bài. Rõ ràng sự hiểu biết về đặc
điểm và mối quan hệ giữa khẩu ngữ, bút ngữ, lời độc thoại giúp ích nhiều cho người giáo
viên tiểu học khi dạy làm văn. Các hiểu biết này giúp chúng ta đính chính lại một vài
quan niệm khơng đầy đủ và chính xác. Ví dụ quan niệm cho rằng bài làm văn miệng chỉ
nhằm chuẩn bị cho bài làm văn viết. Do đó tiết làm văn miệng nhất thiết phải bố trí trước
tiết làm văn viết. Quan niệm này quá nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa bài làm văn
miệng và bài làm văn viết dự trên quan hệ giữa khẩu ngữ và bút ngữ. Song nó lại khơng
chú ý đến đặc điểm, hồn cảnh giao tiếp có thể dùng từng dạng lời nói trên. Vì thế khơng


12

thấy đặc điểm, yêu cầu riêng mang tính chất độc lập tương đối của bài làm miệng đối với
bài làm viết và ngược lại. Bài làm miệng không phải chỉ có nhiệm vụ chuẩn bị cho bài
làm viết mà nó cịn có nhiệm vụ rèn lời độc thoại cho học sinh theo yêu cầu cuẩ đầu bài.
Cũng từ các hiểu biết về các dạng nói, chúng ta cần có sự suy nghĩ đến một số vấn

đề đang đặt ra trong dạy Tập làm văn hiện nay như: rèn luyện lời độc thoại, làm sao có
loại đề đưa học sinh vào các hoàn cảnh giao tiếp để rèn luyện lời đối thoại, có phải tất cả
các kiểu bài tập làm văn đều cần có bài làm miệng và bài làm viết? (ví dụ, kiểu bài viết
thư có nên có bài làm miệng không?).
1.4.Ngữ pháp văn bản và sự ứng dụng vào dạy học Tập làm văn.
Ngữ pháp văn bản mới được giới thiệu rộng rãi ở nước ta trong vòng hơn một
chục năm. Ở đây, ta không nhắc lại những hiểu biết cơ bản của ngữ pháp văn bản mà chú
ý đến sự vận dụng các hiểu biết này vào Tập làm văn.
Để tạo nên một văn bản cần tạo nên sự liên kết cả về hai mặt: liên kết nội dung và
liên kết hình thức.
Sự liên kết nội dung, dù là liên kết chủ đề hay liên kết lôgic, tạo sự nhất quá của
văn bản về nội dung. Đây là một trong nhiều phẩm chất tạo nên giá trị của văn bản, tạo
nên tác động mạnh mẽ của văn bản đối với người nghe hoặc người đọc. Dạy Tập làm văn
không thể không luyện tập kĩ năng này cho học sinh nhằm bảo đảm bài viết hoặc nói của
các em là một khối thống nhất, khơng đầu Ngơ mình Sở. Điều cần chú ý là gần đây kĩ
năng liên kết nội dung ít được các thầy cơ giáo đầu tư thời gian. Để kuyện tập kĩ năng
này, sự phân tích mối quan hệ giữa các đề mục trong dàn bài, giữa các đoạn văn trong bài
văn có ý nghĩa quan trọng. Sự phân tích vừa nêu sẽ chỉ ra các đoạn văn trong bài, các
mục trong dàn bài có sự liên kết với nhau như thế nào. Công việc này có thể tiến hành
trong tiết làm dàn bài hay trong tiết trả lời . Hiện tại khi trả bài, việc chữ lỗi sai về từ, câu
đôi khi lẫn lướt việc phân tích mối liên kết nội dung của bài băn. Điều đó cần được khác
phục.
Ngữ pháp văn bản cịn chỉ ra cả một hệ thống các biện pháp liên kết hình thức
trong văn bản. Sự phong phú của các liên kết hình thức giúp ích nhiều cho các nhà giáo.
Có thể vận dụng các hiểu biết này trong tiết trả bài để chỉ ra những lỗi của học sinh khi
viết câu và đoạn.
1.5.Các kiến thức về loại thể và tác phẩm văn học và sự ứng dụng vào dạy Tập
làm văn.
Các kiến thức về thể loại và tác phẩm văn học đã được trang bị trong mơn lí luận
văn học. Để có thể dạy tốt các bài tập làm văn ở tiểu học, giáo viên cần vận dụng các tri

thức về miêu tả, về kể chuyện (trong đó có các hiểu biết về cốt truyện, chi tiết, nhân vật
(cách biểu hiện ngoại hình và nội tâm), về ngơi trong một truyện kể..., về truyện ngắn,
truyện dài, về đề tài, chủ đề, tư tưởng, về kết cấu, về ngơn ngữ...Chính các tri thức này


13

góp phần chỉ ra nội dung luyện tập khác nhau của các kĩ năng. Nói cách khác, dựa trên
các hiểu biết về lý luận văn học, người giáo viên mới hiểu rõ tính đặc thù của từng kĩ
năng trong từng kiểu bài văn. Dạy tìm ý cho văn miêu tả là dạy cách quan sát và ghi chép
các nhận xét hoặc hồi tưởng lại các nhận xét đã có. Để làm được điều này, giáo viên phải
hướng dẫn để học sinh biết cách vận dụng các giác quan để quan sát, biết cách lựa chọn
vị trí và thời gian quan sát, biết cách liên tưởng hoặc tưởng tượng khi nhận xét sự vật...
Có hiểu biết về cốt truyện, về ngơi kể, về kết cấu mới có thể hiểu và hướng dẫn được các
tiết tìm ý và lập dàn ý trong văn kể chuyện (thực chất là xây dựng cốt truyện, lựa chọn
kết cấu và ngôi kể cho câu truyện...)
Thời gian qua khi xác định cơ sở của phương pháp dạy Tập làm văn ở tiểu học,
người ta ít chú ý đến cơ sở lí luận văn học. Đây thực sự là một thiếu sót vì ở tiểu học chủ
yếu học các kiểu bài theo phong cách nghệ thuật. Như trên đã trình bày, thiếu sót này có
liên quan đến việc nhận thức vị trí của mơn học.
Nội dung 3: Thiết kế một bài dạy (giáo án tiết dạy) hội thoại ở tiểu học
(chọn lớp 3 hoặc lớp 4, hoặc lớp 5)
Tập đọc LỚP 5
LÒNG DÂN (Tiết 1)
I. MỤC TIÊU:
1. Kiến thức: Hiểu nội dung ý nghĩa: Ca ngợi dì Năm dũng cảm, mưu trí lừa giặc cứu
cán bộ cách mạng.( Trả lời được các câu hỏi 1, 2, 3)
2.Kĩ năng: Biết đọc đúng văn bản kịch: ngắt giọng, thay đổi giọng đọc phù hợp với tính
cách của từng nhân vật trong tình huống kịch.
3. Thái độ: Giáo dục HS hiểu tấm lòng của người dân Nam bộ đối với cách mạng.

4. Năng lực:
- Năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo.
- Năng lực văn học, năng lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mĩ.
II. CHUẨN BỊ
1. Đồ dùng
- Giáo viên: Sách giáo khoa, tranh minh họa bài đọc trong sách giáo khoa, bảng
phụ ghi sẵn câu văn, đoạn văn cần luyện đọc.
- Học sinh: Sách giáo khoa
2. Phương pháp, kĩ thuật dạy học
- Phương pháp vấn đáp, động não, thực hành, thảo luận nhóm.
- Kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật trình bày một phút, động não.
III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
Hoạt động của thầy
Hoạt động của trò


14

1. HĐ khởi động: (3 phút)
- Cho học sinh tổ chức thi đọc thuộc lòng bài thơ
“Sắc màu em yêu” và trả lời câu hỏi
- GV nhận xét
- Giới thiệu bài - Ghi bảng
2. HĐ Luyện đọc: (12 phút)
*Mục tiêu:
- Rèn đọc đúng từ
- Rèn đọc đúng câu, từ, đoạn.
- Hiểu nghĩa các từ ngữ mới.
*Cách tiến hành:

- Gọi HS đọc lời mở đầu

- Giáo viên đọc diễn cảm đoạn trích kịch. Chú ý thể
hiện giọng của các nhân vật.
- GV chia đoạn.
Đoạn 1: Từ đầu đến ... là con
Đoạn 2: ....................tao bắn
Đoạn 3: .................... còn lại.
- Cho HS tổ chức đọc nối tiếp từng đoạn lần 1

- HS thi đọc bài và trả lời câu hỏi

- HS nghe
- HS ghi vở

- Một học sinh đọc lời mở đầu giới
thiệu nhân vật, cảnh trí, thời gian,
tình huống diễn ra vở kịch.
- Học sinh theo dõi.
- HS theo dõi

- Nhóm trưởng điều khiển các bạn
đọc lần 1
+ Học sinh đọc nối tiếp lần 1 kết
hợp luyện đọc từ khó, câu khó.
Cai, hổng thấy, thiệt, quẹo vô, lẹ,
ráng
- Đọc lần 2 kết hợp giải nghĩa từ
- Học sinh luyện đọc theo cặp.
- 1 HS đọc

- HS nghe

- Cho HS luyện đọc theo cặp
- Đọc tồn bài
- GV đọc mẫu
3. HĐ Tìm hiểu bài: (8 phút)
*Mục tiêu: Giúp HS các từ ngữ trong bài và ND bài: : Ca ngợi dì Năm dũng cảm, mưu
trí lừa giặc cứu cán bộ cách mạng.( Trả lời được các câu hỏi 1, 2, 3)
*Cách tiến hành:


15

- Cho HS đọc 3 câu hỏi trong SGK
- Giao nhiệm vụ cho HS thảo luận nhóm 4 và trả lời
3 câu hỏi đó, chẳng hạn:
+ Chú cán bộ gặp chuyện gì nguy hiểm?
+ Dì Năm đã nghĩ ra cách gì để cứu chú cán bộ?

- HS đọc
- Nhóm trưởng điều khiển
- Đại diện các nhóm báo cáo
+ Chú bị bọn giặc rượt đuổi bắt,
chạy vào nhà dì Năm.
+ Đưa vội chiếc áo khoác cho chú
thay … Ngồi xuống chõng vờ ăn
cơm, làm như chú là chồng.
- Tuỳ học sinh lựa chọn.

+ Chi tíêt nào trong đoạn kịch làm em thích thú

nhất? Vì sao?
4. HĐ Đọc diễn cảm: (8 phút)
*Mục tiêu: HS đọc đúng, ngắt nghỉ đúng chỗ, biết nhấn giọng ở những từ ngữ cần
thiết.HS đọc phân vai nhân vật trong vở kịch.
*Cách tiến hành:
- Giáo viên hướng dẫn một tốp học sinh đọc diễn
- Cả lớp theo dõi
cảm đoạn kịch theo cách phân vai.
- Thi đọc
- Học sinh thi đọc diễn cảm toàn
- Giáo viên cùng học sinh nhận xét.
bài đoạn kịch.
- HS theo dõi
4. HĐ ứng dụng: (2 phút)
- Qua bài này, em học được điều gì từ dì Năm ?
5. HĐ sáng tạo: (2 phút)
- Sưu tầm những câu chuyện về những người dân
mưu trí, dũng cảm giúp đỡ cán bộ trong những năm
tháng chiến tranh chống Pháp, Mĩ.

- HS nêu
- HS nghe và thực hiện

KẾT LUẬN
Qua thực tế dạy phân môn Tập làm văn, giáo viên đã sử dụng một số biện pháp,
phương pháp phù hợp linh hoạt ở đề tài nêu ra. Nó khơng địi hỏi phải tốn nhiều cơng sức
mà chỉ thể hiện ở sự chịu khó nghiên cứu, đưa ra các nội dung bài soạn sao cho phù hợp
và thực hiện tiết dạy một cách linh hoạt theo nội dung bài soạn.
Áp dụng các biện pháp và phương pháp trong quá trình dạy bài Tập viết đoạn đối
thoại sẽ tạo nên sự gần gũi giữa giáo viên và học sinh, tạo cho các em lòng tự tin học tập,

làm cho lớp thêm phần sinh động. Học sinh hứng thú học tập, tư duy phát triển, hạn chế
được số học sinh không tự viết được đoạn đối thoại, quỹ thời gian dành cho tiết học được
giáo viên sử dụng triệt để tạo điều kiện tốt để học sinh học tốt môn tiếng Việt đặc biệt là


16

phân mơn Tập làm văn, góp phần nâng cao chất lượng mơn học. Đó cũng là điều kiện để
học sinh học tốt các mơn học khác có trong chương trình, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục của lớp, của trường.
Tuy đề tài đã hoàn thành nhưng chắc chắn rằng vẫn cịn nhiều thiếu sót, vẫn mong
góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng rèn luyện kĩ năng tập viết đoạn đối thoại ở
trường tiểu học. Tôi đã mạnh dạn bằng vốn hiểu biết ít ỏi của mình đề xuất một vài ý kiến
nhỏ chung quanh vấn đề: Rèn kĩ năng Tập viết đoạn đối thoại những ý kiến đề xuất ấy
được thể hiện qua giờ dạy thực nghiệm.
Muốn có một giờ dạy Tập làm văn tốt, có hiệu quả cần phải đạt các yêu cầu sau:
Luôn luôn học hỏi đồng nghiệp, tự bồi dưỡng kiến thức của mình để nâng cao
trình độ chun mơn.
Giáo viên soạn lại bài Tập làm văn ở sách giáo khoa, vở bài tập thành một phiếu
học tập để vừa tận dụng những bài tập tích cực và phù hợp với nội dung bài, phù hợp với
trình độ học sinh của lớp dạy.
Chuẩn bị tốt các đồ dùng dạy học phù hợp với tiết học.
Trong giờ học phải lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt động, giáo viên là
người tổ chức, hướng dẫn học sinh tham gia tích cực, sử dụng triệt để phiếu học tập để
phát huy tính tích cực của học sinh.
Biện pháp và phương pháp lúc nào cũng là công cụ, yếu tố con người là quyết
định. Cụ thể hóa lịng nhiệt tình, lịng u nghề, mến trẻ và năng lực của giáo viên sẽ làm
cho giờ dạy ở Tiểu học nói và giờ dạy Tập làm văn nói riêng đạt hiệu quả cao.
Đề tài này được hồn thiện, song do năng lực bản thân còn hạn chế và thời gian
nghiên cứu có hạn, nên chắc chắn những vấn đề đưa ra cịn nhiều thiếu sót. Rất mong

được sự tận tình những hướng dẫn của q thầy cơ và các bạn đồng nghiệp, để đề tài
được hoàn thiện hơn, nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy Tập làm văn Tập viết đoạn đối
thoại cho học sinh lớp 5 nói riêng, học sinh Tiểu học nói chung.
Xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-PGS.TS Nguyễn trí (Chủ biên), TS Phan phương Dung (Hà Nội 2007), Dạy
hôi thoại cho học sinh tiểu học, nxb: bộ giáo dục và đào tạo.
---HẾT---



×