Lời mở đầu
Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác
định lãi suất hợp lí sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất-lu thông hàng
hoá phát triển và ngợc lại. Bởi vậy, lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lí
vĩ mô của Nhà nớc, vừa là công cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thơng
mại. Một chính sách lãi suất có hiệu quả là chính sách đợc áp dụng nhất quán
trong một lãnh thổ và đợc NHNN điều chỉnh chặt chẽ, mềm dẻo theo từng
thời kì cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn nhằm thu hút
đợc nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, phục vụ phát triển kinh tế đất nớc,
đồng thời đảm bảo đợc cho hoạt động của các ngân hàng thơng mại thực sự
có hiệu quả.
Đối với Việt Nam, trong bớc chuyển mình từ một nền kinh tế tự cung
tự cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng có sự điều tiết quản lí
của Nhà nớc, trong quá trình hoà nhập cùng sự phát triển của nền kinh tế thế
giới, việc xem xét vấn đề lãi suất là rất cần thiết. Bài viết xin đợc đề cập tới
vấn đề : Tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam thông qua 4 phần chính:
Phần I: Tìm hiểu chung về lãi suất
Phần II: Thực trạng vấn đề lãi suất ở Việt Nam hiện nay
Phần III: Tự do hoá lãi suất
Phần IV: Một số kiến nghị, giải pháp về việc tự do hoá lãi suất ở Việt
Nam hiện nay.
Với sự hiểu biết còn nhiều hạn chế, em xin đợc trình bày những hiểu biết,
nhận thức của mình về vấn đề tiến tới tự do hóa lãi suất và đề xuất những
kiến nghị của bản thân về định hớng tự do hoá lãi suất ở nớc ta hiện nay. Em
xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình hớng dẫn, chỉ bảo của thầy giáo đã giúp
đỡ em trong quá trình nghiên cứu. Em cũng xin chân thành cảm ơn th viện
nhà trờng đã cung cấp t liệu cho bài viết.
1
Phần I
Tìm hiểu chung về lãi suất
I . Khái niệm và các yếu tố cấu thành lãi suất.
1. Khái niệm.
Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp. Nó là một công cụ
rất nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ của mọi Ngân hàng Trung -
ơng (NHTW) đặc biệt ở những nớc đang phát triển . Vì vậy, có rất nhiều cách
hiểu về lãi suất, trong đó chúng ta có thể đa ra một vài khái niệm cơ bản về
lãi suất nh sau:
Lãi suất là giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân
hàng, đồng thời gắn liền với hoạt động kinh tế liên quan đến hoạt động
gửi tiền và vay tiền. Đồng thời, lãi suất còn là công cụ để điều hành
chính sách tiện tệ của NHTW mỗi nớc.
Lãi suất danh nghĩa là mức lãi suất đợc ấn định trên thị trờng, không đợc
điều chỉnh theo sự thay đổi của mức giá.
Lãi suất thực là lãi suất đợc chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự
tính về mức giá, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc
vay tiền. Theo Fishes, lãi suất danh nghĩa (i) bằng lãi suất thực (r) cộng
với mức lạm phát dự tính: i = r + .
Lãi suất hoàn vốn: Là một lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền
thanh toán nhận đợc theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công
cụ đó. Đây là phép đo đợc các nhà kinh tế coi là phép đo lãi suất chính
xác nhất.
Lãi suất tái cấp vốn: Là lãi suất do NHNN áp dụng khi tái cấp vốn.
2
Lãi suất tái chiết khấu: Là hình thức tái cấp vốn đợc áp dụng khi NHNN
tái chiết khấu thơng phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ
chức tín dụng.
Lãi suất liên ngân hàng: Là mức lãi suất trên thị trờng tiền tệ liên ngân
hàng, nơi các ngân hàng thực hiện việc vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ
dẫn chính xác hơn về chi phí vốn vay của các ngân hàng và cung cầu
vốn trên thị trờng.
2.Các yếu tố cấu thành lãi suất.
Lãi suất đợc hình thành từ rất nhiều yếu tố vật chất và phi vật chất.
Những yếu tố này luôn luôn biến động đòi hỏi sự theo dõi thờng xuyên để
định lợng chúng, đặt ra mức lãi suất phù hợp.
2.1 Yếu tố vật chất.
a) Chi phí huy động vốn bình quân.
Chi phí huy động vốn là số tiền mà một ngời dự định dùng để cho vay
kiếm lời. Số tiền đó có thể thuộc quyền sở hữu của ngời cho vay hoặc có thể
do anh ta vay từ ngời khác với một lãi suất thấp hơn. Đây là yếu tố đầu tiên
đợc tính đến và chiếm phần lớn trong mỗi mức lãi suất. Khi chi phí này tăng
thì lãi suất cũng phải tăng để đủ bù đắp khoản chi phí vốn ban đầu bỏ ra. Ng-
ợc lại, chi phí giảm thì lãi suất giảm để hấp dẫn ngời đi vay.
b) Tỉ suất lợi nhuận bình quân.
Tỉ suất lợi nhuận bình quân là tỉ lệ phần trăm giữa lợi nhuận bình quân
so với số vốn của các tổ chức đa vào kinh doanh.
Bất cứ một khoản tiền vay dùng để đầu t vào một lĩnh vực nào đó đều
phải nhằm mục tiêu có lợi nhuận và lợi nhuận này càng lớn hơn số lãi phải
trả thì càng tốt. Do đó, nếu lãi suất lớn hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân thì ng-
ời đi vay sẽ không cảm thấy thích thú khi đi vay, họ có thể vay ít đi hoặc
ngừng vay. Bởi vậy, tỉ suất lợi nhuận cũng là một căn cứ quan trọng để xác
định lãi suất. Thông thờng tỉ suất lợi nhuận bình quân tăng thì lãi suất cũng
tăng và ngợc lại.
3
c) Tỉ lệ lạm phát.
Tỉ lệ lạm phát là % tăng giá cả trên thị trờng trong một thời gian
(thờng là một năm)
Trong thực tế, không phải lúc nào lãi suất cũng tỉ lệ thuận với chi phí
huy động vốn bình quân và tỉ suất lợi nhuận bình quân vì nó còn bị chi phối
bởi lạm phát - một yếu tố không kém phần quan trọng. Sự biến động của thị
trờng giá cả -nhất là trong tình trạng lạm phát thờng xuyên làm hao mòn giá
trị của vốn tiền tệ cho vay nên buộc ngời vay phải tính đến việc bảo toàn giá
trị của vốn vay bằng cách tính vào mức lãi suất một tỉ lệ tơng ứng với tỉ lệ
giảm giá của đồng tiền để bảo đảm thu hồi vốn và có lãi với giá trị thực của
vốn ban đầu. Mặc dù tỉ lệ lạm phát đã tính vào lãi suất nhng con số đó chỉ đ-
ợc xác định một cách tơng đối vì khó có thể dự đoán trớc chính xác diễn biến
giá cả nh thế nào? Nó tăng hay giảm phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà những
yếu tố này có khi không lờng trớc đợc nh chiến tranh, mất mùa, khủng
hoảng...Do đó, cả ngời đi vay lẫn ngời cho vay đều chịu một rủi ro lạm phát
nhng theo hớng ngợc lại trong giao dịch đi vay và cho vay( đặc biệt khi lãi
suất là cố định đối với toàn bộ thời gian giao dịch) đối với ngời cho vay, đó là
rủi ro tăng tỉ lệ lạm phát mà ảnh hởng của nó sẽ làm giảm số lãi thực tế của
nghiệp vụ cho vay; đối với ngời đi vay, đó là rủi ro hạ tỉ lệ lạm phát mà ảnh
hởng của nó sẽ làm tăng chi phí thực tế của khoản nợ. Chính vì tính bất định
của lạm phát nên rủi ro lạm phát tăng thì lãi suất cũng tăng và ngợc lại.
d) Mức độ rủi ro.
Ngời đi vay và ngời cho vay thờng là những ngời không quen biết,
không bị ràng buộc bởi các mối quan hệ, vì thế khi thực hiện giao dịch đi vay
và cho vay dễ phát sinh các vấn đề tiêu cực, các rủi ro không mong muốn. Để
giảm bớt những rủi ro đó, ngời cho vay phải yêu cầu ngời đi vay thế chấp
một vật gì đó để làm đảm bảo cho khả năng tính toán của họ. Tuy vậy, các
rủi ro đối với khoản vay không vì thế mà đợc loại bỏ. Đặc biệt đối với những
hoạt động kinh doanh tín dụng thì sự rủi ro nguy hiểm đe doạ bội phần bởi lẽ
có bao nhiêu đơn vị vay vốn gặp rủi ro là bấy nhiêu nguy hiểm đến với vốn
4
ngân hàng. Cho nên, để bù đắp phần nào những rủi ro có thể xảy ra, ngời cho
vay phải tính vào lãi suất tiền vay một tỉ lệ nào đó làm lãi suất cao lên. Tỉ lệ
này tăng thì lãi suất tăng và ngợc lại.
Nếu tỉ lệ lạm phát và mức độ rủi ro là những yếu tố mang tính khách
quan khó khắc phục đợc thì chi phí dịch vụ và thuế suất lại có thể tác động đ-
ợc vì chúng phụ thuộc nhiều vào khả năng của tổ chức tín dụng và mức đánh
thuế của chính phủ.
e) Chi phí dịch vụ.
Nếu một cá nhân tiến hành việc cho vay thì chi phí này rất thấp, có thể
nói là không đáng kể vì việc cho vay là không thờng xuyên, số tiền không
thực sự lớn. Đối với các tổ chức tín dụng thì chi phí dịch vụ là một vấn đề
luôn đợc bàn đến. Do đối tợng kinh doanh của các tổ chức tín dụng là tiền
nên chi phí tiền lơng cho cán bộ làm dịch vụ và trang thiết bị rất lớn. Chi phí
dịch vụ trong lãi suất tăng thì lãi suất cũng tăng và ngợc lại. Tuy nhiên, các
tổ chức tín dụng có thể giảm đợc chi phí này bằng nhiều cách nh bỏ bớt các
khâu trung gian, giảm biên chế, tổ chức bộ máy hoạt động một cách khoa
học, tăng lợng tiền trong mỗi lần giao dịch lên...Bằng biện pháp giảm chi phí
dịch vụ, các tổ chức tín dụng có thể tăng khả năng cạnh tranh của mình thông
qua mức lãi suất thấp. Đây là một giải pháp hữu hiệu mà các tổ chức tín dụng
luôn cố gắng đạt đợc.
f) Thuế suất.
Thuế suất là tỉ lệ phần trăm giữa mức thuế với số tiền bị đóng thuế. Số
tiền này có thể là doanh thu hoặc lợi nhuận của ngân hàng.
Mức thuế mà chính phủ đặt ra đối với thu nhập và việc kinh doanh của
các tổ chức tín dụng cũng ảnh hởng không nhỏ đến lãi suất. Thuế suất tăng
lên làm cho thu nhập giảm và quy mô hoạt động của tổ chức tín dụng bị thu
hẹp buộc các tổ chức tín dụng tăng lãi suất nhằm bù đắp phần thu nhập phải
nộp cho ngân sách nhà nớc và những lợi nhuận mất đi do giảm bớt các hoạt
động kinh doanh. Các chính phủ có thể sử dụng thuế suất để tác động vào
tình hình kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Nếu muốn khuyến khích mở
5
rộng các giao dịch đi vay và cho vay, chính phủ sẽ giảm thuế suất xuống, tạo
điều kiện cho tổ chức tín dụng hạ lãi suất cho vay, lúc đó các doanh nghiệp
có nhiều cơ hội đi vay để đầu t vào sản xuất, thúc đẩy sự tăng trởng của nền
kinh tế và tạo nhiều việc làm cho xã hội. Ngợc lại muốn hạn chế hoạt động
của tổ chức tín dụng, chính phủ sẽ tăng thuế suất lên, buộc các tổ chức tín
dụng phải tăng lãi suất, ở mức lãi suất cao các doanh nghiệp ít vay vốn hơn,
nhu cầu vốn ít đi dẫn đến giảm sức tăng trởng của nền kinh tế. Nh vậy, thuế
suất tăng hay giảm sẽ ảnh hởng đến quyết định nâng cao hay hạ thấp lãi suất
của các tổ chức tín dụng.
2.2 Yếu tố phi vật chất.
Bên cạnh những yếu tố vật chất không thể không kể đến những yếu tố
có tính trìu tợng cao, khó xác định nhng cũng rất cần thiết cho việc tính toán
mức lãi suất.
a) Quy luật lu thông tiền tệ.
Trên thị trờng, thờng xuyên xảy ra tình trạng cung- cầu không gặp
nhau, song chúng luôn có xu hớng đi đến sự cân bằng cho dù sự cân bằng đó
chỉ tồn tại trong giây lát và ngay sau đó lại trở về tình trạng không cân bằng
cũ. Thị trờng vốn cũng trong tình trạng nh vậy, có lúc số tiền cho vay lớn hơn
số tiền cần vay và ngợc lại. Thực chất của sự mất cân bằng cung cầu nói
chung và cung cầu vốn nói riêng là do ngời mua và ngời bán không đi đến
thoả thuận một mức giá mà hai bên có thể chấp nhận. Nói cách khác, họ
không chịu hy sinh một phần lợi nhuận của mình. Tuy nhiên, đến một lúc
nào đó, một ngời sẽ phải thoả hiệp nhờng cho ngời kia vì anh ta thấy rằng
những thiệt hại do không thực hiện thoả thuận còn lớn hơn nhiều so với phần
lợi nhuận bị mất, nh thế cung và cầu sẽ tự điều chỉnh dần dần để đạt đợc mức
cân bằng. Vì vậy, khi xác định lãi suất, ngời cho vay luôn phải căn cứ vào
tình hình cung - cầu trên thị trờng và xu hớng tăng giảm của chúng.
b) Thời hạn sử dụng tiền vay.
Đặt tài sản của mình, đặc biệt là tiền vào tay ngời khác để anh ta toàn
quyền sử dụng là việc làm có nhiều rủi ro, ngay cả khi biết đợc mục đích sử
6
dụng của ngời ta. Thời gian cho vay càng dài thì các rủi ro này càng lớn và
khả năng thu hồi vốn vay cùng với tiền lãi càng thấp. Vì vậy, để bù đắp rủi ro
này, ngời cho vay phải tăng lãi suất theo thời hạn sử dụng tiền vay, thời hạn
càng dài, lãi suất càng cao và ngợc lại. Bên cạnh mục đích đó, mối quan hệ tỉ
lệ thuận giữa lãi suất và thời hạn sử dụng tiền vay còn có tác dụng buộc ngời
đi vay có trách nhiệm hơn với số vốn vay cũng nh xem kỹ lỡng hơn khả năng
sinh lợi nhuận của dự án định đầu t sao cho có thể thanh toán cả vốn gốc lẫn
lãi tiền vay đúng hẹn và giữ uy tín của mình.
c) Uy tín của ngời đi vay và những u đãi dành cho họ.
Trên thực tế, không phải bất cứ ngời đi vay nào cũng có t tởng lừa đảo
muốn chiếm đoạt tiền của ngời cho vay. Phần lớn trong số họ vay tiền với
mục đích đầu t vào một lĩnh vực nào đó nhằm thu lợi nhuận chính đáng nên
họ thực hiện các quy định của ngời cho vay về tiền lãi, thời hạn thanh toán
một cách nghiêm chỉnh. Những khách hàng lớn, có uy tín không bao giờ
chậm trễ trong việc thanh toán tiền vay để tránh những ảnh hởng xấu đến uy
tín cũng nh công ăn việc làm của họ. Đối với những khách nh vậy, rủi ro xảy
ra với vốn vay thờng rất ít. Để thu hút các khách hàng đó và cũng để khuyến
khích các khách hàng khác noi theo, ngời cho vay sẽ định ra mức lãi suất u
đãi phù hợp với từng khách hàng trong từng điều kiện, chẳng hạn khách hàng
càng có uy tín thì lãi suất càng thấp, khách hàng trả tiền trớc thời hạn hay
ứng trớc lãi sẽ đợc hởng lãi suất u đãi. Nh vậy, ngời cho vay cũng phải dựa
vào uy tín của khách hàng để đặt ra các mức lãi suất nhằm tạo sức hấp dẫn
thu hút khách ngày càng nhiều.
Nh vậy, để tạo ra một mức lãi suất hợp lí không chỉ đòi hỏi khả năng
nghiệp vụ cao mà còn cần có sự theo dõi sát sao các biến động của thị trờng
và tình hình kinh doanh của các khách hàng.
II. Nguyên tắc và ph ơng pháp xác định lãi suất.
1. Các nguyên tắc cơ bản để xác định chế độ lãi suất.
7
Lãi suất tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Lãi suất phải đồng thời thực hiện đợc 2 chức năng kích thích,
điều tiết hoạt động kinh tế phát triển và là chính sách kinh tế có hiệu quả.
Do lãi suất có ảnh hởng đến tất cả các quyết định liên quan đến tiền
trong xã hội nên việc xác định một mức lãi suất hợp lí là rất quan trọng. Lãi
suất có khả năng điều tiết một cách tự nhiên lợng vốn lu thông từ nơi thừa
đến nơi thiếu, từ ngời có vốn sang ngời cần vốn để đa vốn vào sử dụng trong
các dự án đầu t sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế và xã hội. Mức lãi
suất nhỏ hơn mức hợp lí sẽ khiến ngời vay đánh giá thấp giá trị sử dụng của
đồng vốn dẫn đến đầu t không hiệu quả, lãng phí nguồn vốn, gây thiệt hại
cho bản thân ngời đi vay lẫn ngời cho vay và hơn nữa, ảnh hởng đến sự tăng
trởng kinh tế. Ngợc lại, mức lãi suất cao hơn mức hợp lí tức là đánh giá quá
cao giá trị sử dụng của đồng vốn thì chỉ có tác dụng khuyến khích ngời cho
vay, làm cho vốn trở nên d thừa, ứ đọng, không đợc đầu t vào sản xuất kinh
doanh, không sinh lãi, lúc đó đồng vốn trở thành vốn chết không còn tác
dụng gì nữa. Vì vậy, trớc khi xác định mức lãi suất phải tính đến nguyên tắc
này đầu tiên.
Nguyên tắc 2: Bảo tồn giá trị của vốn, bù đắp đợc rủi ro, có tích luỹ cho ngời
sở hữu vốn và ngời sử dụng vốn.
Khi đem vốn vào sử dụng, sau một thời gian nhất định, ngời sử dụng
vốn cũng nh ngời cho vay vốn đều hi vọng vốn ban đầu sẽ tạo ra một lợng
tiền lớn hơn tức là có sinh lãi đủ để trang trải các chi phí và để lại một phần
lợi nhuận. Đây là lẽ đơng nhiên. Song trên thực tế không phải đầu t nào cũng
đem lại kết quả tốt đẹp, sẽ có những lúc bị lỗ, thậm chí mất cả vốn ban đầu.
Do đó, lãi suất phải đảm bảo nguyên tắc 2 để ngời cho vay và ngời đi vay
không bị thiệt thòi dù cho việc sử dụng vốn có lúc lãi có lúc lỗ.
Nguyên tắc 3: Lãi suất phải đợc phân định theo thị trờng tiền tệ cấp 2.
Sở dĩ lãi suất phải phân định ra vì trên mỗi thị trờng, các yếu tố quyết
định đến mức lãi suất là khác nhau nh: chủ thể sở hữu và sử dụng vốn, chi phí
huy động vốn, mức độ rủi ro, uy tín của ngời vay.v.v...Tuy nhiên, lãi suất trên
8
thị trờng cấp 2 có thể dựa vào lãi suất trên thị trờng cấp một để định ra mức
lãi suất phù hợp và lãi suất trên thị trờng cấp 1 có thể tăng hay giảm để tác
động vào lãi suất của thị trờng cấp 2. Tóm lại, lãi suất trên 2 thị trờng tiền tệ
phải khác nhau nhng có quan hệ hữu cơ và ràng buộc lẫn nhau. Thông thờng,
lãi suất trên thị trờng cấp một nhỏ hơn lãi suất trên thị trờng cấp 2 để đảm
bảo cho các tổ chức tín dụng sau khi đi vay trên thị trờng cấp 1 và cho vay
trên thị trờng cấp 2 sẽ thu đợc một phần lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất trên
hai thị trờng đó.
Nguyên tắc 4: Nguyên tắc này đợc hình thành trên cơ sở nguyên tắc 1 và 2,
trong đó:
Tỉ lệ lạm phát < Lãi suất đi vay < Lãi suất cho vay < Tỉ suất lợi nhuận bình
quân của nền kinh tế
Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất trung và dài hạn.
Bất đẳng thức 1 cho thấy lãi suất phải đảm bảo có lợi cho cả ngời vay và
ngời đi vay đồng thời có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phát triển
nền kinh tế. Tỉ lệ lạm phát càng thấp và tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền
kinh tế càng cao thì càng tốt đối với cả dân c, tổ chức tín dụng và doanh
nghiệp.
Trong bất đẳng thức 2, lãi suất rõ ràng phải có tính bù đắp đợc rủi ro,
thời hạn sử dụng vốn càng dài, rủi ro càng cao thì lãi suất càng lớn. Vì nếu lãi
suất ngắn hạn lớn hơn lãi suất trung và dài hạn thì nó chỉ có lợi cho những
ngời giàu, lắm tiền gửi vào TCTD, sống dựa vào lãi cao, ngắn ngày, làm mất
đi chức năng cơ bản của các tổ chức tín dụng là đi vay để cho vay và có
hại cho nền kinh tế, xã hội và các doanh nghiệp sản xuất.
Nguyên tắc 5: Đảm bảo sự biến thiên của lãi suất theo sát sự biến động của
thị trờng tiền tệ trong nớc và tiếp cận thị trờng quốc tế.
Lãi suất phản ánh qui luật cung- cầu vốn, do đó nó phải phụ thuộc vào
sự biến động của các luồng vốn trên thị trờng. Nếu cung vốn đang thừa mà
lãi suất cứ tăng lên thì những ngời cần vốn trên thị trờng sẽ không vay tiền
nữa, làm cho vốn không đợc lu thông, hạn chế sự tăng trởng của nền kinh tế.
9
Mặt khác, đối với mỗi quốc gia, lãi suất không chỉ phù hợp với thị tr-
ờng trong nớc mà còn phải vận động ngày càng gần với lãi suất trên thị trờng
quốc tế. Có nh thế, đất nớc mới có thể hoà nhập với nền kinh tế thế giới và có
quan hệ bình đẳng với các quốc gia phát triển khác.
1. Ph ơng pháp xác định lãi suất.
1.1. Cơ sở hình thành lãi suất.
Việc tìm ra một cơ sở có thể hoàn toàn tin cậy là không thể có ngay đ-
ợc. Các nớc có nền kinh tế thị trờng cạnh tranh hoàn hảo cũng đã và đang
xây dựng lãi suất theo phơng pháp phân tích thông tin của thị trờng, với kinh
nghiệm và sự uyên thâm trong nghề nghiệp để định lợng một lãi suất phù
hợp. Trong phần này, chúng ta xem xét các cơ sở mà hầu hết các nớc đang sử
dụng cho việc hình thành lãi suất.
Tỉ lệ lợi nhuận bình quân và tỉ lệ trợt giá là hai yếu tố quan trọng cấu
thành nên lãi suất đồng thời cũng là 2 cơ sở hình thành nên mức lãi suất. Lãi
suất tín dụng trong cơ chế thị trờng bị giới hạn bởi tỉ suất lợi nhuận bình quân
của nền kinh tế (giới hạn trên) và tỉ lệ lạm phát (giới hạn dới). Lãi suất chỉ có
thể vận động trong giới hạn đó và phải căn cứ vào 2 yếu tố này cùng với quy
luật cung - cầu vốn để tăng, giảm một cách hợp lí. Mặt khác, do nền kinh tế
phụ thuộc rất nhiều vào 2 cơ sở trên nên lãi suất đợc đặt ra, ngoài mục đích
thu lợi cho một cá nhân, một tổ chức, phải đảm bảo kích thích nền kinh tế
tăng trởng. Do đó, khi xác định lãi suất, ngời ta phải dựa trên 2 cơ sở cơ bản
này.
Cơ sở thứ 3 là ớc định một tỉ lệ kích thích. Lãi suất cũng giống nh các
loại giá cả khác, chỉ cần thấp hoặc cao hơn một chút so với các tổ chức tín
dụng khác đã có thể thu đợc nhiều khách hàng hơn, cho vay nhiều hơn hoặc
ngợc lại. Nh vậy, trên cơ sở một tỉ lệ kích thích, lợi nhuận của TCTD có thể
bị giảm đi nếu tính trên giá trị từng giao dịch song với số lợng giao dịch tăng
lên thì lợi nhuận vẫn tăng mà TCTD lại tạo ra đợc lợi thế cạnh tranh lâu dài
cho mình.
10
Cơ sở tiếp theo là chỉ tiêu hợp lí về tổng chi phí tín dụng bình quân.
Dựa trên chỉ tiêu này, ngời ta có thể xác định đợc nhiều chỉ tiêu khác nh
doanh thu, lợi nhuận, mức lơng, mức lãi suất.v.v...Nếu tính toán tổng chi phí
tín dụng bình quân cao hơn nhu cầu thực tế của thị trờng sẽ dẫn đến thừa vốn,
TCTD muốn cho vay đợc phải giảm lãi suất cho vay. Điều này có thể dẫn đến
hai hậu quả là giảm lãi suất tiền gửi khiến khách hàng chuyển sang gửi tiền ở
các TCTD khác hoặc là giảm lợi nhuận đồng thời giảm tiền lơng của cán bộ
công nhân viên. Nếu chỉ tiêu trên thấp hơn nhu cầu thực tế thì tác động ngợc
lại , TCTD phải nâng cả lãi suất đi vay và lãi suất cho vay lên. Khi lãi suất
cho vay tăng, các doanh nghiệp sẽ vay ít hơn cho đầu t vào sản xuất kinh
doanh khiến cho nền kinh tế tăng trởng chậm lại. Vì vậy, xác định chỉ tiêu
tổng chi phí tín dụng bình quân hợp lí là rất cần thiết khi hình thành lãi suất
giúp cho TCTD giữ đợc uy tín với các doanh nghiệp vay vốn và thu hút đợc
nhiều khách hàng gửi tiền.
Cơ sở cuối cùng là kinh nghiệm nghề nghiệp của các chuyên gia. Lãi
suất là một biến số đợc cấu thành từ rất nhiều biến số khác nhau mà trong đó
chủ yếu là những biến số mang tính khách quan. Do đó, muốn xác định đợc
lãi suất phải nắm chắc đợc các yếu tố cấu thành nó. Sự biến động của các yếu
tố này rất phức tạp, do đó cần phải xem xét, phân tích kĩ lỡng, đòi hỏi phải do
các chuyên gia hoạt động lâu năm trong nghề thực hiện.
1.2 Công thức tổng quát tính lãi suất.
a) Lãi suất đi vay của ngân hàng.
Lãi suất tiền gửi = < a% tỉ suất lợi nhuận + tỉ lệ lạm phát.
bình quân
Trong đó: 0 = < a < 100.
Với a = 0 % => Lãi suất tiền gửi không kì hạn = Tỉ lệ trợt giá.
Với tiền gửi có kì hạn thì kì hạn càng dài, a% càng lớn.
b) Lãi suất cho vay.
Lãi suất cho vay = Lãi suất + b%Tỉ suất lợi nhuận + Phụ phí + Hệ số
nói chung tiền gửi bình quân tín dụng rủi ro.
11
b% phụ thuộc vào thời hạn vốn đợc sử dụng, thời hạn càng dài b% càng
lớn.
Hệ số rủi ro phụ thuộc vào nhiều yếu tố nh thời hạn sử dụng vốn, chủ thể
vay vốn, mục đích vay vốn, tính khả thi của dự án đầu t...
III. Các loại lãi suất thông dụng.
1.Lãi suất đi vay.
Là lãi suất mà ngân hàng trả cho khách hàng khi vay vốn của họ. Lãi
suất đi vay thờng đợc công bố trớc lãi suất cho vay.
2.Lãi suất cho vay.
Là lãi suất mà ngời đi vay của ngân hàng phải căn cứ vào đó để trả lãi
cho ngân hàng. Lãi suất cho vay đứng đằng sau lãi suất đi vay trong bảng
công bố lãi suất.
3.Lãi suất đơn.
Là lãi suất đợc hình thành do không ghép lãi vào vốn. Lãi suất đơn th-
ờng là lãi suất danh nghĩa, ghi trên hợp đồng tín dụng.
4.Lãi suất kép.
Còn gọi là lãi suất thực tế không ghi trên hợp đồng tín dụng mà tự các
bên kí kết hợp đồng tính toán để biết đợc mức lãi thực tế mà họ nhận đợc là
bao nhiêu. Lãi suất kép chính là mức lãi suất mà ngời đi vay và ngời cho vậy
quan tâm đến.
IV. Vai trò của lãi suất.
1.Đối với kinh tế vĩ mô.
Lãi suất đợc sử dụng nh một công cụ điều tiết vĩ mô. Thể hiện ở các
nội dung sau:
12
Lãi suất tiến hành phân bổ các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế ->
điều chỉnh cơ cấu đầu t -> điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển cân đối và ổn định.Lãi suất tác động trực tiếp đến đầu t,
do đó đợc sử dụng nh một công cụ để chống lạm phát. Nếu nền kinh tế
suy thoái, có thể sử dụng lãi suất để tăng đầu t, phát triển kinh tế.
Lãi suất hớng dẫn cho sản xuất- tiêu dùng: Lãi suất tăng -> chi phí sản
xuất tăng -> giá thành sản phẩm tăng -> dân chúng sẽ hạn chế tiêu dùng
loại hàng sản xuất đó và ngợc lại.
Lãi suất là công cụ để kiểm soát các luồng vốn di chuyển giữa các ngành
trong nền kinh tế cũng nh với nớc ngoài.
Vậy, đối với tầm vĩ mô, lãi suất rất quan trọng, tất cả các nớc đều rất quan
tâm.
2 . Đối với tầm vi mô.
Lãi suất là cơ sở quan trọng cho các cá nhân, các doanh nghiệp đa ra
các quyết định đối với việc sử dụng vốn. Ngoài ra, lãi suất còn góp phần thúc
đẩy và củng cố hiệu quả kinh tế.
2.1. Lãi suất với sự phân bổ các nguồn lực
Tất cả mọi nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải
phân bổ và sử dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả. Nghiên cứu trong nền
kinh tế thị trờng cho thấy, giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc
phân bổ các nguồn lực giữa các ngành kinh tế.
Nh chúng ta đã biết, lãi suất là một loại giá cả, nghĩa là lãi suất có vai
trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định đầu
t vào một ngành kinh tế, một dự án hay là một tài sản nào đó chúng ta đều
phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu đợc từ ngành
kinh tế đó, dự án đó hay tài sản đó so với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa
là phải xem xét một ngành, một dự án kinh doanh có đem lại lợi nhuận, đảm
bảo hiệu quả kinh doanh và đủ để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi
phí ban đầu hay không. Ngành nào, dự án kinh doanh nào có tỷ suất lợi tức
13
lớn hơn lãi suất thì nguồn lực sẽ đợc phân bổ tới đó, và đó là sự phân bổ hiệu
quả.
Thông qua lãi suất, các doanh nghiệp có thể lựa chọn những ngành sản
xuất khác nhau để đầu t nhằm thu tỷ suất lợi nhuận cao. Nh vậy lợi suất là tín
hiệu, là căn cứ để có sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm trong xã
hội, lãi suất là yếu tố cần thiết ban đầu trớc khi đi đến quyết định đầu t.
2.2. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm.
Thu nhập của một hộ gia đình thờng đợc chia thành hai bộ phận: tiêu
dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố nh thu
nhập, vấn đề hàng lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong
đó tiền tệ và lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, ngời ta vay nhiều hơn
cho việc mua sắm các hàng hoá, nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Ngợc lại, khi
lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến
khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng.
2.3. Lãi suất với đầu t.
Hoạt động đầu t chịu nhiều ảnh hởng của nhiều nhân tố nh thu nhập, chi
phí kỳ vọng trong kinh doanh. Trong đó lãi suất thể hiện chi phí đầu t là yếu
tố quan trọng quyết định đầu t.
Khi lãi suất ở mức cao, ít khoản đầu t vào vốn hiện vật sẽ mang lại thu
nhập nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay, do vậy chi tiêu cho đầu t
giảm , ngợc lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ quyết định đầu t cho
vốn hiện vật nhiều hơn, chi tiêu đầu t sẽ tăng.
Ngay cả khi một doanh nghiệp có d thừa vốn và không muốn vay để
đầu t vào vốn hiện vật thì chi tiêu đầu t vẫn bị ảnh hởng của lãi suất do doanh
nghiệp có thể mua chứng khoán. Lãi suất cao, chi phí cơ hội của một khoản
đầu t sẽ cao, chi tiêu đầu t giảm do các doanh nghiệp mua chứng khoán sẽ
tốt hơn vào đầu t vốn hiện vật. Khi lãi suất chi phí cơ hội của đầu t giảm, chi
tiêu đầu t sẽ tăng lên vì đầu t vào vốn hiện vật rất có thể đem lại thu nhập lớn
hơn cho doanh nghiệp so với mua chứng khoán.
14
Đối với đầu t hàng dự trữ, chi phí của việc gửi hàng dự trữ là khoản lãi
trả cho khoản tiền đáng lẽ thu đợc do bán nhợng hàng hoá này đi hay khoản
vay để mua hàng. Lãi suất làm việc tăng, chi phí biên của việc giữ hàng dự
trữ so với lợi ích biên đã giả định trớc làm cho đầu t vào hàng dự trữ
giảm.Nh vậy lãi suất là nhân tố chủ yếu quyết định đầu t của các doanh
nghiệp vào vốn hiện vật và hàng dự trữ.
2.4. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu.
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nớc này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nớc
khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trờng ngoại hối quyết định và chịu
ảnh hởng của nhiều nhân tố nh giá cả, thuế quan, quota, sự a thích hàng nội,
hàng ngoại, năng suất lao động.... Ngoài ra tỷ giá trong ngắn hạn còn chịu
ảnh hởng của lãi suất: Lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất
tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất
danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát dự tính tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ
giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng ( tỷ lệ lạm phát
không đổi) thì giá đồng tiền trong nớc tăng, tỷ giá tăng.Khi lãi suất tiền gửi
ngoại tệ tăng, đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngợc lại.
Tỷ giá rất quan trọng trong hoạt động XNK. Nếu lãi suất tăng làm tăng
tỷ giá sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng và ngợc lại. Nh
vậy thông qua tỷ giá hối đoái, lãi suất có ảnh hởnglớn tới xuất nhập khẩu,
xuất khẩu ròng của một quốc gia.
2.5. Lãi suất với lạm phát.
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và
lạm phát. Fisher chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát cao.
Những nớc trải qua lạm phát cao cũng chính là những nớc có mức lãi suất
cao. Lạm phát là hiện tợng mất giá của đồng tiền, là tình trạng tăng liên tục
mức giá chung của nền kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy
cũng có nhiều biện pháp khác nhau để kiểm soát lạm phát, trong đó giải pháp
về lãi suất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
15
Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có
thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lu thông khiến cho đồng tiền trong
lu thông giảm, cơ số tiền và lợng tiền cung ứng giảm, lạm phát đợc kiềm chế.
Nh vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát.
Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không
thể duy trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu t, giảm tổng cầu và làm
giảm sản lợng. Do vậy lãi suất phải đợc sử dụng kết hợp với các công cụ khác
thì mới có thể kiểm soát đợc lạm phát, ổn định giá cả, ổn định đồng tiền. Một
chính sách lãi suất phù hợp là sự cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của
nền kinh tế.
Phần II.
Thực trạng lãi suất ở Việt Nam hiện nay.
I.Sơ l ợc việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua.
1.Tr ớc tháng 3- 1989 : là thời kỳ điều hành theo cơ chế lãi suất âm.
Trong thời kỳ quan liêu trì trệ trớc 1988, lãi suất của Việt Nam không
tuân theo quy luật lãi suất thực nên lãi suất âm do NHTƯ áp đặt là một trong
16
những nguyên nhân gây ra và kéo dài lạm phát phi mã. Lãi suất âm có đặc
điểm :
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực.
+ Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lu thông, giải toả áp lực
của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
+ Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho doanh
nghiệp.
+ Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho
ngân hàng. Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thờng theo cơ chế
thị trờng.
2.Từ tháng 3-1989: Thời kỳ lãi suất dơng
NHNN đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm
qua lãi suất dơng. Để thu hút tiền thừa trong lu thông về, kìm chế lạm phát,
tránh bao cấp qua lãi suất, NHNN đã nâng lãi suất huy động lên một lợng rất
cao trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 109 % / năm,
lãi suất tiết kiệm 3 tháng 144 %/ năm). Nhờ vậy đã:
Thu hút một khối lợng tiền lớn trong lu thông, tăng nguồn vốn tín dụng,
giảm áp lực lạm phát.
Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dơng, xử lí hài hoà lợi ích giữa ngời gửi
tiền, ngời vay vốn và TCTD.
Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang
kinh doanh thực sự.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều
mức lãi suất tiền gửi và cho vay.
+ Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng.
+ Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất.
Ngày 1-6-1992 thống đốc NHNN đã quyết định điều chỉnh chính sách
lãi suất theo hớng:
17
- Đảm bảo lãi suất thực tế dơng, lãi suất tín dụng ngân hàng không thấp
hơn lãi suất tiền gửi.
- Ngân hàng nhà nớc chỉ quy định mức cho vay tối đa và mức tiền gửi tối
thiểu cụ thể với từng đối tợng vay vốn, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các
NHTM tự quyết định trên cơ sở cung cầu về vốn tín dụng.
- Thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh
tế.
- Chính sách lãi suất phù hợp trên đã góp phần tập trung đợc nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong dân c cho đầu t phát triển, kiểm soát lạm phát ở
mức hợp lý, ổn định và kích thích tăng trởng. Năm 1992, lạm phát giảm
mạnh từ 67,6% (1991) xuống 14,5% , tăng trởng kinh tế từ 6% (1991) lên
8,6%. Năm 1993 lạm phát đạt mức thấp 5,2% và tăng trởng kinh tế 8,1%.
Mức lãi suất mới đã khắc phục đợc tình trạng lợi dụng vốn của ngân
hàng để găm hàng ăn chênh lệch giá, buộc các doanh nghiệp phải tính toán
thu hồi vốn và tăng nhanh quay vòng vốn.
3. Từ 1/ 10/ 93: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần( cho vay) vừa áp
dụng lãi suất thoả thuận.
Theo quyết định 184/QĐNH1 ngày 28-9-1993, NHNN quy định các
mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho phép các tổ chức tín dụng
cho vay theo lãi suất thoả thuận vợt mức lãi suất cho vay cụ thể:
a)Trần : Đối với doanh nghiệp nhà nớc 1,8% / tháng, kinh tế ngoài quốc
doanh 2,1 % / tháng.
b)Thoả thuận: Trờng hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo
lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì đợc áp dụng
lãi suất thoả thuận: Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng
kì hạn là 0,1 %/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng d nợ lúc bấy giờ là từ các khoản
cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Các
18
ngân hàng đạt mức chênh lệch giỡa lãi suất cho vay và lãi suất huy động râta
cao, phổ biến từ 0,7% - 1% tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể hiểu
là đã tự do hoá một phần lãi suất, hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất
cứng đi đôi với một biên độ dao động nhất định.
4.Giai đoạn thực hiện chính sách trần lãi suất.
Ngày 28-12-1995, Quốc hội ra quyết định 381/NQNH1 quy định thực
hiện quy định chính sách trần lãi suất áp dụng cho một số lĩnh vực cho vay
cụ thể:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn.
- Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn.
- Trần lãi suất áp dụng cho các tổ chức tín dụng vay trên địa bàn nông
thôn.
- Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với thành viên.
Ngoài ra, nghị quyết còn quy định chênh lệch giữa lãi suất cho vay và
lãi suất huy động vốn là 0,35%/tháng.
Việc quy định trần lãi suất và khống chế mức chênh lệch 0,35% thực chất là
vừa quy định trần lãi suất, vừa quy định sàn lãi suất. Từ 1/ 1/ 96 NHNN đã
quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0,35 % thay cho việc
điều hành theo lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận
quy định trớc đó .
Từ 21/1/1998 đến nay, Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch
0,35 % / tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay
của thành thị và nông thôn, NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4
trần xuống còn 3 trần lãi suất và không quy định mức chênh lệch 0,35 %/
tháng nữa:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2 % tháng.
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25 % tháng.
- Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5 % tháng.
Việc quản lí lãi suất theo trần có u điểm sau:
19
+ Trong phạm vi trần, các TCTD đợc tự do ấn định các mức lãi suất
cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh , thực
hiện chính sách khách hàng, tự chủ trong kinh doanh, thực hiện cạnh tranh
lành mạnh, từng bớc tự do hoá lãi suất.
+ Phù hợp với đặc diểm, chi phí hoạt động NH ở các vùng khác nhau.
+ Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nớc, xoá bỏ lãi suất thoả
thuận, vợt quá xa mức lãi suất do NHNN quy định.
+ Có trần khống chế sẽ bảo vệ đợc lợi ích ngời vay, TCTD và ngời gửi
tiền.
+ Đảm bảo vai trò quản lí nhà nớc của NHNN về lãi suất trong giai
đoạn đầu của thị trờng tiền tệ mới hình thành trong nền kinh tế thị trờng.
II.Cơ chế lãi suất ở Việt Nam hiện nay
Diễn biến các mức trần lãi suất cho vay theo quy định của NHNN kể
từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực đến nay.
Thời điểm thực hiện mức trần
lãi suất cho vay các loại
1/7/1997 21/1/199
8
1/2/1999 1/6/1999
1. Ngắn hạn 1,0% 1,2% 1,1% 1,15%
2. Trung dài hạn 1,1% 1,25% 1,15% 1,15%
3.Vùng nông thôn 1,2% 1,25% 1,25% 1,15%
4. QTDND & HTXTD 1,5% 1,5% 1,5% 1,5%
5. Lãi suất tái cấp vốn 1,1% 1,1% 1,0% 0,85%
Chỉ số tiết kiệm, lãi suất danh nghĩa trung bình, lãi suất thực
Năm Tiết kiệm
(%GDP)
LS danh
nghĩa(%năm)
LS thực
(% năm)
CPI
(% năm)
1991 10,10 42,0 25,6 17,5
1992 13,77 35,5 17,9 5,1
1993 14,54 21,6 16,4 14,5
1994 17,08 16,8 2,4 14,3
1995 18,99 16,8 4,1 13,5
20
1996 15,96 13,5 9,0 4,5
1997 16,50 12,6 8,9 3,7
Nguồn: IMF
Thực tế cho thấy có nhiều tồn tại xoay quanh chính sách lãi suất hiện
hành. Dù cho việc kiểm soát lãi suất trong những điều kiện nhất định vì mục
tiêu của chính sách tiền tệ thì vẫn không thể tránh khỏi những thiệt hại xét
trên tổng thể nền kinh tế. Điều này từng khuyến khích sự vay mợn chiếm
dụng lòng vòng, trốn tránh kiểm soát của NHNN, làm méo mó chế độ lãi
suất quy định. Mức độ toàn dụng vốn trong nền kinh tế thấp, tính đầu cơ thực
lợi và cạnh tranh bất tơng xứng về lãi suất còn phổ biến, vốn bị sử dụng lãng
phí, kém hiệu quả. Chuyển sang lãi suất trần là một bớc tiến bộ, song lãi suất
vẫn cha phản ánh đúng quan hệ cung-cầu về vốn của nền kinh tế. Một biểu
hiện rõ nhất là lãi suất chung của nền kinh tế chủ yếu đợc áp đặt bởi NHNN
chứ cha phải đợc hình thành theo đúng tín hiệu thị trờng, thông qua một số
tham số chủ chốt: lãi suất tín phiếu, trái phiếu kho bạc, lãi suất thị trờng liên
ngân hàng, lãi suất giao dịch hợp đồng mua đứt, bán đoạn hay mua bán có kì
hạn, lãi suất chiết khấu, cầm cố, thế chấp tài sản...Nhìn chung, lãi suất cha
phản ánh đợc rủi ro tín dụng, thiếu quan hệ khăng khít với diễn biến tỉ giá hối
đoái, trong lúc thờng xuyên bị trói buộc hết sức cứng nhắc bởi vòng kim cô
chỉ số giá CPI...
Đôi lúc trần lãi suất chỉ có ý nghĩa tợng trng, bên cạnh đó còn tồn tại
nhiều mức lãi suất khác nhau trên thực tế, lại có hiện tợng lạm dụng lãi suất u
đãi tràn lan trong vòng 2 năm nay. Do đó xu hớng hạn chế, dỡ bỏ mọi áp đặt,
can thiệp, kiểm soát hành chính về lãi suất là một tất yếu khách quan. Mục
tiêu là cuối cùng thì phải để thị trờng tự quyết định lãi suất phù hợp cho
nó(cũng là cho nền kinh tế). Dựa vào đó sự can thiệp một cách gián tiếp của
NHNN vào thị trờng tiền tệ mới thực hiện đợc linh hoạt, đúng hớng và có
hiệu quả. Hai vấn đề bức xúc hiện nay là:
+ Trong điều kiện hiện tại của Việt Nam thì nên hoàn chỉnh chính
sách lãi suất theo định hớng nào.
21
+ Phải có những điều kiện cần và đủ nào cho việc hoạch định và điều
hành chính sách lãi suất tốt hơn.
Quan điểm định hớng về chính sách lãi suất mới.
Do một số điều kiện đặc thù, thị trờng tiền tệ Việt Nam vẫn ở trong
giai đoạn quá độ với trình độ hết sức sơ khai. Tham khảo một tài liệu của
đoàn IMF, thuộc chơng trình ESAF dành cho Việt Nam (giai đoạn 2) qua
mấy năm đổi mới, chỉ số phát triển chiều sâu về tài chính của Việt Nam vẫn
ở xu hớng giảm và còn thấp. Chỉ số M2/ GDP mới chỉ là 25,1% so với mức
bình quân trên 60% của nhiều nớc đang phát triển, riêng Trung Quốc đạt
mức cao là 82,3%; Chỉ số Mo/ tiền gửi ngân hàng vẫn còn cao là 61,2%,
trong khi khối các nớc ASEAN phổ biến chỉ khoảng12%, riêng Trung Quốc
là 20,4%. Có nghĩa trong lúc mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế còn rất thấp thì
chủng loại hàng hoá cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ còn hết sức nghèo nàn,
phơng thức giao dịch còn thô sơ và mức độ rủi ro tiền tệ còn lớn. Đặc trng
của nền kinh tế Việt Nam là các quan hệ cung cầu vốn, tiền tệ hình thành
một cách hết sức khó khăn, diễn ra không bình thờng. Sự ấn định giá cả (hình
thành lãi suất thị trờng) không tránh khỏi bị áp đặt bởi số ít lực lợng tham gia
thị trờng đóng vai trò độc quyền. Sự nôn nóng theo đuổi các mục tiêu, chính
sách đôi lúc khiến NHNN cũng bị cuốn hút vào đó, mặc dù không phải lúc
nào việc áp đặt các mức trần lãi suất cũng suôn sẻ và dễ dàng đợc thị trờng
chấp nhận....
Xét về năng lực thể chế yếu kém của hệ thống ngân hàng Việt Nam,
khuôn khổ pháp lí và quy chế dự phòng rủi ro cha hoàn bị cũng cho thấy
trong thời điểm hiện nay để cho thị trờng tự định đoạt lãi suất cho nó là rất
khó thực hiện. Dựa trên nền tảng này không thể có ngay chính sách lãi suất
thích hợp. Cũng phải thấy là việc duy trì trần lãi suất cho vay là để hạn chế
các ngân hàng yếu về tài chính chấp nhận mức rủi ro quá mức. Trong chừng
mực nhất định trần lãi suất chỉ bảo đảm cân bằng tơng đối về tiền tệ ở góc độ
vĩ mô, nhng ở góc độ vi mô cũng còn vớng mắc. Nội dung chính sách lãi suất
hiện nay là không chỉ kiểm soát lãi suất cho vay(kiểm soát về giá), theo đó
22
là kiểm soát lãi suất sàn huy động vốn hay chênh lệch lãi suất đầu vào-đầu
ra(đã bỏ), mà còn khống chế về tổng lợng tín dụng của nền kinh tế bằng hạn
mức tín dụng, hạn mức vay nợ nớc ngoài, mức cung ứng tiền tăng thêm hàng
năm và một số chỉ tiêu khống chế tài sản khác...Riêng về số d tiền dự trữ
(RM) đợc coi là một trong 3 nội dung quản lí căn bản(bên cạnh lãi suất, mức
cung ứng tiền) của chính sách tiền tệ cha đợc quan tâm đúng mức.
Trong hơn 10 năm đổi mới, cơ chế điều hành lãi suất đã ngày càng trở
nên linh hoạt hơn, nới lỏng từng bớc theo hớng tự do hoá, bám sát cung cầu
vốn trên thị trờng, quyền chủ động ấn định lãi suất kinh doanh của các TCTD
đợc mở rộng, nên làm tăng khả năng canh tranh nhng vẫn kiểm soát đợc lãi
suất trên thị trờng tiền tệ, góp phát triển thị trờng tài chính trong nớc, thúc
đẩy tăng trởng kinh tế, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt
Nam. Để thúc đẩy phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, NHNN phải tiếp tục
đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, từng bớc áp dụng lãi suất cơ bản thay dần
cho việc ấn định trần lãi suất đi đôi với sử dụng công cụ điều tiết lu thông
tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trờng.
III.Các cách hiểu về lãi suất cơ bản.
Theo luật NHNN Việt Nam , lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công
bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.Lãi suất cơ
bản đợc hình thành trên nguyên tắc thị trờng chứ không phải tự hình thành
ttrên thị trờng tiền tệ với bớc đi thích hợp, thận trọng, phù hợp với điều kiện
thực tế của thị trờng tiền tệ, từng bớc tiến tới tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá
hoạt động tài chính trong nớc; đồng thời với các biện pháp phát triển thị tr-
ờng tiền tệ và nâng cao năng lực tài chính và năng lực điều hành của các
TCTD; xử lý lãi suất VND trong mối quan hệ với lãi suất ngoại tệ và chính
sách tỷ giá , quản lý ngoại hối .
Trên cơ sở có nhiều cách hiểu và nhận thức về lãi suất cơ bản, ta cùng
phân tích một số loại lãi suất cơ bản:
1. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu.
23
Hiện nay ở Việt Nam cha hình thành lãi suất tái chiết khấu, do cha tổ
chức đợc nghiệp vụ tái chiết khấu của Ngân hàng Trung ơng, vì vậy cha có
cơ sở để xác định lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu.
2. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà n ớc.
Nớc ta cha hình thành lãi suất tái chiết khấu, nhng lại có lãi suất tái
cấp vốn, nhng lãi suất này cũng mang nặng tính chất để điều hành chính sách
tiền tệ là chính, nên nó chủ yếu căn cứ vào lãi suất cho vay, lãi suất huy động
vốn trên thị trờng (cũng do NHNN công bố) để quy định. Vì vậy, cũng
không thể dùng lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản đợc.
3.Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa.
Các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi
khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất tiền gửi vay cụ
thể phù hợp với cung cầu về vốn.
Thực chất của lãi suất cơ bản loại này là NHNN chỉ công bố và kiểm
soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất cho vay, việc điều hành và
kiểm soát lãi suất cho vay thông qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các
công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Lãi suất tiền gửi tối đa có thể xác
định theo công thức:
Lãi suất tiền gửi = Lạm phát dự + Lãi thực của
tối đa kiến ngời gửi.
Lãi suất cơ bản theo cách này có u điểm là tạo ra một bớc tiến mới
trong chính sách lãi suất, tiến sát đến sự tự do hoá lãi suất hoàn toàn(đã tự do
hoá lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi dới mức tối đa), là cơ chế lãi suất linh
hoạt theo quan hệ cung cầu vốn, phù hợp với cơ chế thị trờng và thông lệ
quốc tế, tạo ra khả năng cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng, giảm thiểu
sự quản lí của nhà nớc bằng mệnh lệnh hành chính. Khống chế lãi suất tiền
gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức tín dụng huy động với bất cứ laĩ
suất nào, chạy đua về lãi suất tiền gửi để huy động mới bù đắp nợ cũ, bảo
đảm an toàn hệ thống và bảo vệ đợc lợi ích của ngời gửi tiền. Đồng thời, lãi
suất cơ bản loại này thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu vực lãi suất theo
24
quan hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau nh: lãi suất khu vực
nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ chức tín dụng
cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có quy mô và sức cạnh tranh lớn nh
các ngân hàng thơng mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và các chi nhánh
ngân hàng nớc ngoài ở Việt Nam.
Muốn điều hành lãi suất cho vay một cách có hiệu lực thông qua việc
khống chế lãi suất tiền gửi tối đa thì NHNN sẽ phải kết hợp cả 2 phơng pháp
điều hành trực tiếp và gián tiếp:
+ Điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp nâng hoặc hạ lãi suất
tiền gửi tối đa tơng ứng: muốn hạ lãi suất cho vay thì hạ lãi suất tiền gửi tối
đa và ngợc lại( điều hành bằng mệnh lệnh hành chính)
+ Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của chính
sách tiền tệ tác động vào khối lợng vốn trên thị trờng nh: NHNN mua bán
các loại giấy tờ có giá ngắn hạn của các tổ chức tín dụng( nghiệp vụ thị trờng
mở), NHNN tái chiết khấu các loại chứng từ có giá(cửa sổ chiết khấu), thị tr-
ờng liên ngân hàng hoạt động có hiệu quả nhằm thực hiện NHTƯ là ngời cho
vay cuối cùng. Muốn điều hành khối lợng tiền bằng các công cụ gián tiếp có
hiệu quả thì việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân ở mức độ khá phổ biến
nhằm làm cho NHNN kiểm soát đợc tổng phơng tiện thanh toán ở mức độ
cao. Tuy nhiên, hiện nay các điều kiện trên ở nớc ta cha hội đủ, vì vậy khả
năng kiểm soát và quản lí lãi suất cho vay sẽ rất hạn chế do chỉ còn mỗi một
công cụ trực tiếp mà NHNN có thể thực hiện đợc là nâng hoặc hạ lãi suất tiền
gửi tối đa để theo nó mà nâng hoặc hạ lãi suất cho vay. Tuy nhiên, xét theo
quan hệ cung cầu về vốn, thì việc nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa trong
điều kiện cha có các công cụ gián tiếp phối hợp có thể tác động theo chiều
ngịch, hạ lãi suất tiền gửi cũng có thể làm cho vốn tín dụng huy động đợc ít,
trở nên khan hiếm và lãi suất cho vay sẽ đắt lên và ngợc lại.
Vì vậy, trong điều kiện hiện tại của nớc ta, khi cha hội đủ các điều
kiện nh trên, nếu thực hiện lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì có thể
dẫn đến tình trạng:
25