Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

tiểu luận học thuyết hình thái kinh tế xã hội “hòn đá tảng” của chủ nghĩa duy vật lịch sử và sự vận dụng học thuyết này vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.78 KB, 11 trang )

TRƯỜNG


TIỂU LUẬN
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI - “HÒN ĐÁ TẢNG”
CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VÀ SỰ VẬN DỤNG HỌC
THUYẾT NÀY VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM

Họ và tên:
Lớp:
Khóa học:

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ
I.
HỘI - “HÒN ĐÁ TẢNG” CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT LỊCH SỬ
Quan niệm về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
1.1.
của Chủ nghĩa Mác - Lênin
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
1.2.
quá trình lịch sử tự nhiên
SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI


KINH TẾ XÃ HỘI VÀO SỰ NGHIỆP XÂY
II.
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
2.1.
Việt Nam
Vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
2.2.
ở nước ta hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
2

3
3
4
6
7


3

MỞ ĐẦU
Trước thời kỳ đổi mới nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng trì

trệ và tăng trưởng rất thấp, sản xuất khơng đủ cho tiêu dùng, tích luỹ
phần lớn là dựa vào vay mượn từ bên ngoài, phát triển thị trường hàng
hoá thiếu thốn nghiêm trọng nhất là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng thiết yếu. cơ sở vật chầt kỳ thật, phần lớn các ngành kinh tế - xã
hội xuống cấp nghiêm trọng. Đời sông của nhân dân rất khó khăn. Trước
bối cảnh đó Đảng ta đã đổi mới tư duy có quan điểm nhận thức đúng đắn
về hình thái kinh tế - xã hội trong hệ thống triết học Mác - Lênin nó có ý
nghĩ to lớn cả về mặt lý luân và mặt thực tiễn, đồng thời cũng phê phán
những quan điểm sai trái về hình thái kinh tế - xã hội ở nước ta lúc bấy
giờ. Đảng ta đã đề xướng và lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới kinh
tế - xã hội của đất nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được đánh dấu là một bước
ngoặt lịch sử về đổi mới ty duy về đường lối phát triển đất nước trong
thời kỳ mới, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Sau hơn 30 năm đổi mới chúng ta
đạt được những thành tực rất quan trọng nhưng vấn còn nhiều mặt còn
hạn chế, về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển của đất nước, đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách cần
giải quyế. Do đó, nghiên cứu vấn đề “Học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội - “hòn đá tảng” của chủ nghĩa duy vật lịch sử và sự vận dụng học
thuyết này vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” làm
đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.


4

NỘI DUNG
I. HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI - “HÒN
ĐÁ TẢNG” CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
1.1. Quan niệm về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Chủ

nghĩa Mác - Lênin
Hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử dùng để chỉ xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định với một
kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng, xây
dựng trên các quan hệ xã hội đó. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ
ra vai trò của các yếu tố cơ bản và mối quan hệ các yếu tố đó bên trong
của một kết cấu kinh tế - xã hội. Các yếu tố cơ bản được Mác chỉ ra là
“lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng” [1, tr.195].
Khi tiếp thu tư tưởng của C.Mác, Lênin đã nhấn mạnh “đặc điểm
của phương pháp duy vật trong nhận thức xã hội là ở chỗ phương pháp
địi hỏi phải gắn tồn bộ sự phong phú của các quan hệ xã hội vào quan
hệ sản xuất, đồng thời cần xem xét những quan hệ sản xuất trong sự
tương ứng của chúng với trình độ của những lực lượng sản xuất để giải
thích sự vận động của các hình thái xã hội” [4, tr.310]. Các yếu tố cấu
thành của hình thái kinh tế - xã hội có quan hệ biện chứng với nhau và
mối quan hệ giữa các yếu tố đó hợp thành hai quy luật cơ bản vận động
ở tất cả các hình thái kinh tế - xã hội. Đó là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợ với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và quy
luật cơ sở hạ tầng quan hệ biện chứng với kiến trúc thượng tầng. Đây là
hai quy luật chung nó tạo động lực bên trong thúc đẩy quá trình phát


5

triển sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất là động lực xét đến
cùng nó đưa đến sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
1.2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình
lịch sử tự nhiên
Xã hội đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với

mỗi giai đoạn của sự phát triển là một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định. Các hình thái kinh tế - xã hội vận động và phát triển do tác động
của các quy luật khách quan, đó là q trình tự nhiên của sự phát triển. C
Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên” [2, tr.317], tức là muốn nói đến quy luật
khách quan của lịch sử, quy luật đó được coi là sự phát triển của q
trình sản xuất vật chất, xét đến cùng là do mâu thuẫn bên trong giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, do tính tất yếu kinh tế quy định. Các
quy luật xã hội chính là hiện thân của các quy luật tự nhiên được con
người sử dụng nó để kiến tạo nên xã hội lồi người.
Tiến trình lịch sử là “quá trình phát triển biện chứng vừa bao hàm
sự phát triển đứt đoạn và liên tục” [3, tr.418]. Trong quá trình sản xuất,
con người có những quan hệ với nhau, đó chính là quan hệ sản xuất.
Những quan hệ sản xuất đó do trình độ của lực lượng sản xuất quy định,
đến lượt nó quan hệ sản xuất lại quy định các quan hệ xã hội khác như :
chính trị, luật pháp, đạo đức… Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một
mức độ nào đó thì những thay đổi về chất mâu thuẫn gay gắt với những
quan hệ sản xuất có, dẫn đến địi hỏi khách quan là thay đổi quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới thông qua cuộc cách mạng xã hội.
Quan hệ sản xuất thay đổi thì tồn bộ các quan hệ sản xuất khác cũng
thay đổi. Như vậy, phương thức sản xuất thay đổi, các quan hệ xã hội,


6

chính trị, tinh thần thay đổi dẫn đến sự thay đổi của hình thái kinh tế - xã
hội. Chính vì thế, V.I.Lênin viết: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội
vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào
trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có thể có được
những cơ sơ vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái

xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” [5, tr.419].
II. SỰ VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ
HỘI VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1. Sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Từ hình thái kinh tế - xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế - xã
hội khác có một giai đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau, kết
cấu và hình thức biểu hiện khác nhau, đó là “thời kỳ quá độ”. Tuỳ theo
điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của mình mà các nước các dân tộc sẽ
thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội dưới những hình thức, bước đi
khác nhau, do trình độ xuất phát khác nhau. Có thể khái quát thành 3
loại nước tương ứng với 3 kiểu quá độ:
Những nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao.
Những nứơc đạt trình độ phát triển tư bnar chủ nghĩa ở mức trung bình
thấp.
Những nước chưa trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa của sự phát triển
lịch sử.
Nước ta thuộc loại nước thứ ba. Do toàn bộ những điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan quy định, nước ta đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa là một tất yếu của lịch sử. Để “nhận dạng”con đường đi lên


7

của nước ta, trước hết cần phân tích đầy đủ và chính xác điểm xuất phát
từ đó nước ta q độ lên chủ nghĩa xã hội. Để xác định con đường đi lên
của mình, cụ thể trong điều kiện hiện nay chính là thực hiện sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước thì điều cần thiết là phải xuất
phát từ thực trạng kinh tế xã hội của đất nước, xuất phát từ đặc điểm lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta để lựa chọn đúng hình
thức kinh tế cho hiệu quả, xác định rõ những bước đi cụ thể theo mục
tiêu đã chọn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội của Đảng đã xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng. Nói định hướng xã hội chủ nghĩa nghĩa là nói
mục tiêu chúng ta đạt tới. Đó cũng là hành lang của sự phát triển, sự
sáng tạo. Như vậy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường đúng
đắn mặc dù cịn nhiều khó khăn trước mắt nhưng dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta khơng chịu lùi bước trước bất cứ khó khăn, thử thách
nào.
2.2. Vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay
Sự vận dụng của Đảng ta trong xác định nhiệm vụ con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Trải qua hơn 30 năm thực hiện công
cuộc đổi mới, quan điểm tư duy của Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã
thay đổi có tính cách mạng trên nhiều vấn đề to lớn và trọng đại như về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng rõ hơn đã có
những đổi mới tư duy lý luận thực tiễn rất quan trọng về nền kinh tế của
đất nước. Thực hiện dân chủ hoá nền kinh tế, đổi mới chế độ phân phối


8

và nhận thức rõ hơn về nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn cũng đòi hỏi cũng phải tiếp tục đổi mới mạnh hơn để
giải phóng sức sản xuất, phát huy ngày càng tốt hơn mọi nguồn lực của
đất nước tạo tiền đề thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ Đại hội VI của Đảng đã khẳng định phải giải phóng sức sản xuấ

khuyến khích làm giàu, xố đói giảm nghèo, coi đó là khâu đột phá để
phát triển. Chủ trương phải không ngừng đổi mới hoàn thiện quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nhằm giải
phóng triệt để sức sản xuất thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để cải
thiện đời sống nhân dân. Từ đó tạo ra sự đồng thuận ngày càng cao trong
xã hội, tạo động lực thu hút mọi nguồn lực trong xã hội để đầu tư cho sự
phát triển và giữ vững, ổn định chính trị xã hội. Một điều quan trọng
đáng chú ý là đã lấy phát triển lực lượng sản xuất làm động lực để hoàn
thiện và đổi mới quan hệ sản xuất.
Nếu như trước khi đổi mới chủ yếu phát triển kinh tế công hữu,
trong nhận thức cũng như trong hành động không thừa nhận nền kinh tế
nhiều thành phần thì sau đó đã đi đến khẳng định xây dựng nền kinh tế
đa sở hữu, gắn với thực hiện dân chủ hoá nền kinh tế. Từ 3 hình thức sở
hữu tồn dân, tập thể và tư nhân, hình thành nên nhiều thành phần kinh
tế, các hình thức sở hữu khơng tồn tại biệt lập mà tồn tại đan xen với
nhau hỗn hợp trong các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, hát triển
mạnh hình thức sở hữu hỗn hợ có tính xã hội cao, đăc trưng nổi lên là sở
hữu cố phần đã dần dần xác đinh rõ tính pháp lý của sở hữu để có chủ sở
hữu cụ thể, khắc phục tình trạng vô chủ nhằm phát huy các nguồn lực
cho phát triển từ sở hữu chủ yếu về tiền mặt hiện vật đã chuyển sang sở


9

hữu về giá trị tài sản trí tuệ, tách dần quyền của chủ sở hữu và quyền
quản lý sử dụng, khuyến khích tích luỹ để phát triển đối với mọi loại
hình sở hữu.
Từ chỗ coi xí nghiệ quốc doanh là hình thức cao nhất, độc quyền
và phát triển với tỉ trọng lớn trong các ngành nghề, lĩnh vực, hạn chế sự
phát triển của kinh tế tư nhân, đã đi đến khẳng định các thành phần kinh

tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan rọng của nền
kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa. Để xố bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử các thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế bình
đẳng cạnh tranh lành mạnh cùng phát triển lâu dài. Từ chỗ xác định coi
quốc doanh giữ vai rò chủ đạo đã chuyển sang kinh tế nhà nước heo
nghĩa rộng gồm nhiều nguồn lực giữ vai trị chủ đạo trong đó doanh
nghiệ nhà nước là lực lượng nòng cốt, mở đường dẫn dắt hỗ trợ các
thành phần kinh tế khác phát triển. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xế
cơ cấu lại theo hướng tập trung vào một số ngành, lĩnh vực then chốt,
phù hợp với nền kinh tế thị trường, cạnh tranh và hội nhập.
Đặc biệt là kinh tế tư nhân từ chỗ bị kì thị hạn chế và nhiều cấm
đốn đến nay đã có sư đổi mới căn bản, xác đinh rõ phải bảo đảm quyền
tự do kinh doanh theo pháp luậ của mọi công dân. Phát triển kinh tế tư
nhân có vai trị quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, khẳng định chủ
trương phá triển manh mẽ không hạn chế ngành nghề lĩnh vực mà lụât
pháp không cấm, tạo ra mơi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách,
pháp lý để kinh tế tư nhân phát triển. trên những định hưỡng ưu tiên của
nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngồi. khuyến khích chuyển thành doanh
nghiệ cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với
nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.


10

Qua việc nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội của lý luận chủ nghĩa
Mác -Lênin, ta thấy được một lý luận quan trọng có ý nghĩa to lớn trong
tình hình hiện nay. Đây là một học thuyết nền tảng của triết học Mác, là
một học thuyết vẫn còn nguyên giá tri cách mạng và khoa học trong tình
hình hiện nay.
KẾT LUẬN

Nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ triết học mà cụ thể là lý luận
các hình thái kinh tế - xã hội nhằm khẳng định sự lựa chọn của đảng ta
hoàn toàn đúng đắn. Thực tế hơn hơn 30 năm đổi mới, những thành tựu
về kinh tế, chính trị, khoa học xã hội đã chứng minh một cách hùng hồn
nhất về sự lựa chọn của nhân dân ta, của Đảng ta là đúng đắn và khẳng
định sự lựa chọn con đường xây dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội là
một tất yếu khách quan.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản và giữ một vị trí
hết sức quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác xây dựng
nên. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã được thừa nhận là lý luận khoa
học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực học.
Nhờ có lý luận hính th kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử xã hội
học C.Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát
triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Như vậy qua lý
luận hình thái kinh tế - xã hội giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng
đắn và khoa học vận hành của xã hội trong mỗi giai đoạn nhất định.


11

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 1976.
2. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1976.
3. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1976.
4. V.I.Lênin, toàn tập, tập 5, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
5. V.I.Lênin, toàn tập, tập 10, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.




×