MỤC LỤC
1. Hoàn cảnh ra đời của trào lưu hiện thực...............................................................3
1.1. Trào lưu hiện thực trong thời kì Phục Hưng.......................................................3
1.2. Trào lưu hiện thực trong thời kì Khai sáng.........................................................4
1.3. Trào lưu hiện thực thế kỉ XIX.............................................................................5
1.3.1. Trào lưu hiện thực trên thế giới...................................................................5
1.3.2. Trào lưu hiện thực ở Việt Nam.....................................................................6
2. Quan điểm nghệ thuật về trào lưu hiện thực.........................................................7
3. Những đặc điểm về nghệ thuật của trào lưu hiện thực.......................................11
3.1. Xây dựng tính cách điển hình trong hồn cảnh điển hình.................................11
3.2. Một số đặc điểm thi pháp..................................................................................12
3.2.1. Đề tài.........................................................................................................12
3.2.2. Nhân vật....................................................................................................13
3.2.3. Thể loại......................................................................................................14
4. Tác phẩm tiêu biểu trào lưu hiện thực: Tiểu thuyết Bà Bovary (1857) của
Gustave Flaubert.......................................................................................................15
5. Vị trí và ảnh hưởng của trào lưu hiện thực đối với văn học Việt Nam..............17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................24
1. Hoàn cảnh ra đời của trào lưu hiện thực
Chủ nghĩa hiện thực (Réalisme) là một trào lưu văn học nổi bật của thế kỉ XIX,
nhưng những biểu hiện của nó đã sớm xuất hiện trong văn học ở các thời kì trước đó.
Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong Từ điển thuật ngữ văn học, ông dẫn ra nhiều
ý kiến xoay quanh việc thời gian ra đời của chủ nghĩa hiện thực. Có ý kiến cho rằng
những biểu hiện của việc phản ánh hiện thực đã có từ thời Cổ đại trải qua các thời kỳ
đến thế kỉ XIX, nhưng cũng có ý kiến lại cho rằng những biểu hiện của chủ nghĩa hiện
thực xuất hiện từ thời kì Phục Hưng. Tuy nhiên, theo Tiến trình văn học của GS.
Huỳnh Như Phương, thầy cho rằng chủ nghĩa hiện thực đã ươm mầm từ thời kì Phục
Hưng.
1.1. Trào lưu hiện thực trong thời kì Phục Hưng
Ở thời kì Phục Hưng (XIV - XVI) ở phương Tây, phong trào văn hóa với triết
học, kiến trúc, hội họa, văn học,... khơng ngừng phát triển, được đặt dưới góc nhìn
Chủ nghĩa nhân văn (Humanities) lấy con người làm trung tâm. Thời kì này, con người
trở thành gốc rễ của mọi tư tưởng, đề cao giá trị và cuộc sống của con người, giải
phóng con người khỏi ách kìm hãm của phong kiến, giáo điều và tu viện thời Trung
cổ. Bên cạnh việc giải phóng về tư tưởng thì sự phát triển của kinh tế - xã hội với
những thành tựu về khoa học - kỹ thuật đã giúp nhân loại có điều kiện nhìn nhận cũng
như khám phá chính bản thân và thực tại đang diễn ra. Những biểu hiện ban đầu của
chủ nghĩa hiện thực trong văn học giai đoạn này là việc đề cao cuộc sống trần thế, ca
ngợi vẻ đẹp con người, khát khao có một cuộc sống tốt đẹp hơn, và cả tiếng nói phản
ánh chân thực bộ mặt xã hội thực tại cùng sự kìm hãm, trói buộc, gị bó những gì thuộc
về giá trị tinh thần lẫn thể xác mà chế độ áp đặt lên con người.
Boccaccio đã đặt những bước chân đầu tiên thấp thoáng màu sắc của chủ nghĩa
hiện thực trong sáng tác của mình. Với tác phẩm Mười ngày, Boccaccio đã lên án lễ
giáo phong kiến, phơi bày và châm biếm những kẻ giả tạo, đề cao tinh thần tự do, tình
yêu, tình bạn. Tác phẩm là sự đấu tranh thoát khỏi ách kìm kẹp của xã hội với hi vọng
về niềm vui, vẻ đẹp của trần thế, đòi quyền tự do, được sống với niềm vui tự nhiên của
con người. Cuối chặng đường của Phục Hưng chính là những biểu hiện của hiện thực
trong sáng tác của Shakespeare. Đối với các sáng tác của Shakespeare, biểu hiện của
Trang 2
chủ nghĩa hiện thực có phần rõ nét hơn. Ơng đã thẳng tay xé toạc những giá trị băng
hoại của xã hội tư bản khi đồng tiền lên ngôi và thao túng đạo đức lẫn con người. Ơng
đề cao tình cảm chân thật giữa người với người, đề cao tình u và lịng trung thực,
dũng cảm.
Có thể nói, chủ nghĩa hiện thực đã ươm mầm trong các sáng tác văn học thuộc
thời kì Phục Hưng (thế kỉ XIV – XVI) dưới góc nhìn của chủ nghĩa nhân văn. Mặc dù
chưa thật sự rõ ràng nhưng các tác phẩm đã mang phần nào đó cảm quan tái hiện, phê
phán mặt tiêu cực lẫn tích cực của xã hội và con người. Đây có thể được xem là “trào
lưu văn học nhân văn chủ nghĩa mang khuynh hướng hiện thực”. N.Gulaev gọi đó là
“chủ nghĩa hiện thực nhân văn” (Huỳnh Như Phương, 2019, tr.59).
1.2. Trào lưu hiện thực trong thời kì Khai sáng
Theo GS. Huỳnh Như Phương thì chủ nghĩa hiện thực khai sáng chịu tác động
từ tư tưởng mỹ học của Denis Diderot và Gotthold Lessing.
Theo Diderot, cái thật và cái đẹp có mối quan hệ mật thiết, khơng tách rời nhau
nhưng chúng cũng khơng đồng nhất với nhau. Có thể hiểu rằng “cái thật” ở đây chính
là cái thật trong thực tế tự nhiên, và nó sẽ khác với “cái thật” trong nghệ thuật, bởi vì
“cái thật” trong nghệ thuật chỉ là sự mơ phỏng lại của tự nhiên. Vì vậy mà Diderot cho
rằng nghệ thuật không nên mô phỏng giống hồn tồn với tự nhiên vì như thế là biểu
hiện của nghèo nàn cảm xúc. Ngược lại, người nghệ sĩ hãy thả hồn mình vào tác phẩm,
thổi những làn rung động, cảm quan và cách nhìn của bản thân đối với sự vật, hiện
tượng tự nhiên đó để mơ phỏng chúng lại dưới góc nhìn cá nhân của mình thì khi ấy,
cái đẹp theo cảm xúc đó sẽ được nâng lên. Cũng theo Diderot, mỗi tác phẩm nghệ
thuật đều mang trong mình những bài học đạo đức, mà qua đó giúp con người có cái
nhìn lý trí để phân biệt tốt xấu.
Tương tự vậy, ở Lessing, ông cho rằng các nhà văn có quyền miêu tả chân thực
những mặt xấu xa, thối nát của xã hội. Văn học không chỉ miêu tả mặt tích cực mà văn
học cịn là tiếng nói tố cáo thực tại nhiễu nhương, băng hoại của những giá trị con
người. “Điều đó có nghĩa là văn học miêu tả toàn bộ sự thật về tự nhiên, xã hội và con
người, nó trình bày hiện thực đang vận động và giúp công chúng tiếp cận thế giới một
cách toàn diện hơn” (Huỳnh Như Phương, 2019, tr.61 - 62).
Trang 3
Các tư tưởng và biểu hiện của chủ nghĩa hiện thực trong thời kì Khai sáng
chính là bước đệm quan trọng cho sự ra đời và khẳng định mình của chủ nghĩa hiện
thực thế kỉ XIX, trở thành một trong những trào lưu văn học cực kì quan trọng của tiến
trình văn học thế giới.
1.3. Trào lưu hiện thực thế kỉ XIX
Tuy những biểu hiện của chủ nghĩa hiện thực đã xuất hiện từ những thế kỉ trước
nhưng mãi đến những năm 30 của thế kỉ XIX thì nó mới trở thành một trào lưu, một
phong cách sáng tác. Chủ nghĩa hiện thực gắn liền với những nguyên tắc nổi bật như
tính lịch sử - cụ thể, tính điển hình hóa khách quan,... Ban đầu, chủ nghĩa này phát
triển ở Tây Âu, sau đó dần lan rộng ra các nước khác và phát triển rực rỡ trên văn đàn
thế giới.
Năm 1857, nhà văn người Pháp Champfleury (1821-1889) đã sưu tầm và góp
nhặt những bài báo của mình để cho ra đời tác phẩm Chủ nghĩa hiện thực (Resalisme).
Thuật ngữ “Résalisme” được dùng phổ biến từ đấy. Đến thế kỉ XX, các nhà phê bình
lý luận Xơ Viết xem chủ nghĩa hiện thực là một phương pháp sáng tác.
1.3.1. Trào lưu hiện thực trên thế giới
Ở phương Tây, vào nửa đầu thế kỉ XIX, sau Cách mạng tư sản Pháp (1789), xã
hội các nước phương Tây bắt đầu đối diện với hai hệ lụy khác khiến lịch sử bước sang
giai đoạn mới. Một là, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ban đầu vốn chung một
chuyến tuyến liên minh để lật đổ phong kiến, và sau khi giành được chính quyền về
tay mình thì giai cấp tư sản “lật lọng”, quay ngoắt sang bỏ rơi đồng minh là giai cấp vô
sản. Tư sản ra sức củng cố quyền lực và tập trung phát triển nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Hai là, giai cấp vô sản vốn xuất thân là những nông dân, công nhân và những
người dân lao động bình thường, sau khi cùng tư sản giành được chính quyền từ tay
phong kiến thì họ đã bị tư sản “bỏ rơi”. Vì vậy, tầng lớp vơ sản đã tập hợp lại với nhau
và trở thành một lực lượng độc lập chống lại tư sản. Cơ cấu giai cấp thay đổi, kéo theo
đó là những bất ổn, loạn lạc, nhiễu nhương trong xã hội vì những mâu thuẫn và xung
đột gay gắt của hai giai cấp.
Trang 4
Trước tình hình xã hội đó, văn học phương Tây đã hình thành ba trào văn học
chính là trào lưu lãng mạn (tích cực), trào lưu hiện thực và tự nhiên chủ nghĩa, trào lưu
văn học có xu hướng hiện đại. Tuy nhiên, trào lưu hiện thực lại chiếm ưu thế hơn khi
nó có đủ khả năng phản ánh tồn diện xã hội, và cũng dám phô bày những xấu xa vẫn
đang lộng hành ngoài kia. Hơn hết, các nhà văn có cơ hội nhìn rõ được bộ mặt của giai
cấp tư sản nên họ lựa chọn đứng về phía người dân bé nhỏ. Họ chĩa mũi bút của mình
vào những kẻ tư sản dùng đồng tiền thao túng đạo đức, đi ngược với nhân tính, giẫm
đạp lên giá trị cuộc sống và quyền tự do của con người. Các nhà văn nhìn nhận thực tế,
nhìn nhận những mặt tích cực lẫn tiêu cực, rồi mô phỏng chúng trong những sáng tác
của mình.
Tuy nhiên, ngồi mặt tiêu cực giữa những mâu thuẫn giai cấp thì mặt tích cực
cũng được nhìn nhận trong văn học. Con người trong thế kỉ XIX này là những con
người mang tư tưởng tôn thờ sự tự do, họ sẵn sàng đấu tranh và chiến đấu để giải
phóng khỏi ách thống trị mà tìm đến với tự do. Điều này đã trở thành một trong những
tư tưởng mà các thế hệ sau Cách mạng tư sản ra sức theo đuổi và thực hiện. Bên cạnh
đó, dưới sự thúc ép của tư sản, nền kinh tế và khoa học - kỹ thuật đã có những thành
tựu phát triển theo hướng tích cực, góp phần làm thay đổi bộ mặt xã hội chung của
phương Tây.
Ở phương Đông, cụ thể là Trung Quốc, chủ nghĩa hiện thực xuất hiện vào giai
đoạn Thanh Mạt - tức giai đoạn cuối khi chế độ phong kiến dần suy yếu, Nho giáo dần
mất vị trí trong q trình thay đổi lịch sử xã hội.
1.3.2. Trào lưu hiện thực ở Việt Nam
Trong bối cảnh Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai, chúng ra sức
bóc lột nhân dân ta, vơ vét của cải, tài nguyên, nhiên liệu,... để bù đắp vào những thiệt
hại của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933. Bấy giờ, tình hình đất nước điêu đứng
khi bọn thực dân thì hung hãn, bạo tàn, kinh tế đóng băng, sản xuất trì trệ, nhân dân
lầm than, sưu thuế cao ngất ngưởng, thiên tai liên tục xảy ra,... Thực dân còn Pháp còn
thực hiện những biện pháp cai trị tàn bạo càng khiến cho mâu thuẫn giữa thực dân và
phong kiến, giữa nông dân và địa chủ diễn ra ngày càng gay gắt. Từ đây hình thành
nên xã hội thực dân nửa phong kiến.
Trang 5
Sự cai trị của thực dân Pháp cũng đã kéo theo những biến đổi về mặt xã hội như
mơ hình sản xuất tư bản chủ nghĩa dần được du nhập vào Việt Nam, hình thành nên
các đơ thị, thị trấn… Văn học theo đó cũng chịu ảnh hưởng bởi hai luồng văn hóa
Đơng – Tây. Văn học Việt Nam dần li khai khỏi văn học Hán của Trung Quốc và tiếp
xúc gần với luồng tư tưởng văn học phương Tây. Chính vì Việt Nam chịu sự ảnh
hưởng bởi đa luồng tư tưởng nên trong đó sẽ tồn tại song hành cả mặt tích cực lẫn tiêu
cực. Song, quan trọng hơn hết vẫn là việc tiếp thu triết học Marx, tư tưởng Marxist về
đấu tranh giai cấp và chủ nghĩa nhân văn nhân đạo đã đưa văn học hiện thực Việt Nam
phát triển theo một hướng rất riêng biệt bên cạnh việc tiếp thu những thành tựu của
chủ nghĩa hiện thực thế giới.
Dẫu nhìn nhận chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam phát triển rực rỡ vào đầu thế kỉ
XX nhưng từ những thế kỉ trước, văn học trung đại Việt Nam đã manh nha với sự xuất
hiện của chủ nghĩa hiện thực qua các tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngơ Thì
Chí và Ngơ Thì Du. Tác phẩm đã nói lên sự tranh giành quyền lực của thời Lê - Trịnh
phê phán cuộc sống xa hoa của kẻ cầm quyền phong kiến. Hay Chinh phụ ngâm (Đặng
Trần Côn), Truyện Kiều (Nguyễn Du), thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Dữ... đã phê phán xã hội, vạch trần xã hội mà kim tiền giẫm đạp lên giá trị,
nhân cách và đạo đức của con người. Đến thế kỉ XIX - hậu kì trung đại, chủ nghĩa hiện
thực cũng xuất hiện trong thơ của Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thiện Kế,…
Nhưng đến thế kỉ XX, với chế độ thực dân nửa phong kiến thì chủ nghĩa hiện
thực ở Việt Nam mới phát triển rực rỡ trên văn đàn, bởi lúc này, văn học mới có chất
liệu từ chính hiện thực xã hội Việt Nam đương thời. Chủ nghĩa hiện thực Việt Nam
phát triển qua đầu thế kỉ XX với tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, thầy Lazaro Phiền,…
Và đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực là giai đoạn 1932 - 1945 với những áng văn xuôi
hiện thực cùng tên tuổi của những ngịi bút như Nguyễn Cơng Hoan, Vũ Trọng Phụng,
Ngơ Tất Tố, Nam Cao, Tơ Hồi, Bùi Hiển, Thạch Lam, Nguyên Hồng,...
2. Quan điểm nghệ thuật về trào lưu hiện thực
Được định nghĩa một cách rộng rãi như là “đại diện trung thành của sự thật”,
chủ nghĩa hiện thực xuất hiện với tư cách là một trào lưu văn học dựa trên “hiện thực
Trang 6
khách quan”. Cơn sốt “hiện thực” đã được đón nhận nồng nhiệt trong bối cảnh con
người địi hỏi cái nhìn trực diện và chân thực về mọi mặt trong đời sống. Như một
phong trào phản ứng lại trào lưu lãng mạn, các tác giả hiện thực thoát ly ra khỏi thế
giới tưởng tượng, mộng ảo để đối mặt với thế giới hiện thực trần trụi, ảm đạm. Đồng
thời, khác với chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa hiện thực không giải thích hiện tượng xã
hội bằng những nguyên nhân sinh vật học, tức là nó khơng phơi bày thực tại khách
quan một cách lạnh lùng, rập khn. Hơn cả thế, nó đưa ra trước mắt độc giả những sự
thật thông qua những hình tượng điển hình có tính khái qt cao nhưng đủ sức tạo nên
giá trị thẩm mỹ nhất định và thức tỉnh nhận thức con người qua những thông điệp hiện
thực. Ian Watt trong cuốn The Rise of the Novel cũng nhận định rằng “tiểu thuyết là
một bản tường thuật đầy đủ và chân thực về trải nghiệm của con người (that the novel
is a full and authentic report of human experience)” (Watt. I, 1963, tr.32).
Vào năm 1981, trên Tạp chí Văn học số 4, nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên
Ân đã cho ra mắt bài viết Nhìn chủ nghĩa hiện thực trong sự vận động lịch sử với
những nhận định xác đáng về chủ nghĩa hiện thực: “Tương quan với thực tại đời sống
là tương quan tất yếu của mọi loại hình hoạt động tinh thần, tư tưởng, văn hóa, trong
đó có nghệ thuật. Tương quan đó làm nên cái mà Xu-scốp diễn đạt như là tính nội
dung của nghệ thuật. Nghệ thuật không thể không tuân thủ các kỷ luật vĩ đại là thực
tại. Mỗi nền nghệ thuật nhất định đều ở trong một quan hệ tương ứng nào đó với thực
tại…” Sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực gắn liền với văn hóa thời Phục hưng ở
phương Tây. Vị thế của con người dần tiến bước lên cao trong nghệ thuật, nghệ thuật
cần lấy con người làm gốc rễ sáng tạo, nghệ thuật là cuộc hành trình khám phá thế giới
mà cốt yếu là khám phá con người, phù hợp với chủ nghĩa nhân văn của thời đại Phục
hưng. Mặt khác, chiếu theo bối cảnh lịch sử phát triển, khơng chỉ có nhà văn là những
người muốn vạch trần hiện thực xã hội, phê phán sự bất công của giới thống trị và sự
chi phối của đồng tiền, mà các độc giả cũng có chung lý tưởng với họ. Đáp ứng được
mong muốn của nhà văn và nhu cầu của người đọc thì văn học mới có thể bền vững và
tồn tại được vì “người tạo nên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định số phận của
tác phẩm lại là độc giả” (M.Gorki).
Tiếp tục bàn về chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam có nhà văn Nam
Cao, được xem là một trong những cây bút hiện thực đứng đầu của văn chương Việt
Trang 7
Nam giai đoạn 1930 – 1945, với những luận điểm nghệ thuật sâu sắc. Nhân vật Điền
trong truyện ngắn Giăng sáng (1943) đã có sự chuyển mình trong quan điểm nghệ
thuật từ chủ nghĩa lãng mạn đi tới chủ nghĩa hiện thực: “Nghệ thuật không cần là ánh
trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là những
tiếng đau khổ kia thốt ra từ những kiếp lầm than…” Cũng vào thời điểm đó, ở tác
phẩm Đời thừa, ơng cho rằng “một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả
các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả lồi người. Nó phải chứa
đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng
lịng thương, tình bác ái, sự cơng bình... Nó làm cho người gần người hơn.” Như vậy,
Nam Cao đã bác bỏ những diễn ngôn lâu nay về nghệ thuật rằng “nghệ thuật là ánh
trăng lừa dối”. Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng nhất thiết phải phản ánh
được thế giới hiện thực, nơi con người ở đó phải chịu áp bức, bất cơng và lầm than.
Thơng qua những hình tượng cá nhân, riêng rẽ, ông vươn đến một ý nghĩa to lớn hơn,
mang tính cộng đồng hơn là gắn kết tâm hồn của người đọc với những số phận bất
hạnh thực chất vẫn luôn tồn tại trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Tương tự với quan điểm nghệ thuật của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng - nhà văn
nổi tiếng với tư tưởng hiện thực trào phúng đã nhiều lần khẳng định mãnh liệt trước
văn đàn Việt Nam lúc bấy giờ về lựa chọn đứng về chủ nghĩa hiện thực của mình.
Chẳng hạn như Để đáp lời báo Ngày nay: Dâm hay khơng dâm?, ơng thẳng thắn viết
nên những dịng phản hồi hết sức quyết liệt: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu
thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tơi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời.
Cứ một chỗ trái ngược nhau ấy cũng đủ khiến chúng ta cịn xung đột nhau nữa. Các
ơng muốn theo thuyết tùy thời, chỉ nói cái gì thiên hạ thích nghe nhất là sự giả dối.
Chúng tơi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thực, thành ra nguy hiểm, vì sự thực mất lịng”
(Báo Tương lai, 25/3/1937). Vũ Trọng Phụng không thể chịu đựng việc biến văn học
trở thành nơi cho phép cái giả dối lên ngôi, chỉ chăm chăm chạy theo thị hiếu của con
người mà lãng quên hay làm ngơ đi sự thật tuy “mất lòng” nhưng thể hiện đúng bản
chất của con người và đời sống thực tại. Việc chối bỏ sự thật, xuyên tạc hay thay thế
gam màu u tối thành những gam màu tươi sáng là đi ngược lại với tôn chỉ nghệ thuật
của ông, hay cụ thể là với chủ nghĩa hiện thực.
Trang 8
Với mục đích phơi bày những gì đang hiện hữu thuần nhất trong thực tại nhưng
không phải bằng cách trần trụi hay trực tiếp, mơ hình văn học “hiện thực” đề cao khả
năng nhận thức, phân tích đời sống bằng bút pháp điển hình hóa. Đây là hình tượng
nghệ thuật được các văn sĩ khắc họa sinh động, đại diện cho những nét nguyên bản,
quan trọng nhất của các vấn đề trong đời sống. Trong đó, con người trong văn chương
là những nhân vật thường khái quát số phận và tính cách của một loại người, một tầng
lớp hay một giai cấp nào đó trong xã hội. Trong khía cạnh của xã hội chủ nghĩa,
Friedrich Engels (1820 - 1895) cho rằng chủ nghĩa hiện thực cần phải “tái hiện chân
thực tính cách điển hình trong hồn cảnh điển hình”, dựa trên nguyên tắc lịch sử – cụ
thể của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng do các nhà sáng lập
chủ nghĩa Marx đã đề ra.
Quan niệm vị nhân sinh có thể xem được là quan niệm hàng đầu của chủ nghĩa
hiện thực, bởi theo đúng như cái tên của nó, chủ nghĩa này hướng đến phản ánh thực
tại và phục vụ cho cuộc sống con người. Nhà văn quan sát và đưa vào tác phẩm của
mình những cái mình thấy tận mắt, nghe tận tai trong cuộc sống dù là đẹp đẽ hay xấu
xa, cao sang hay thấp kém... một cách trung thực, thật thà nhất. Các yếu tố chân thực
trong các tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực như những hình ảnh phản chiếu từ cuộc
sống con người ở thời đại ấy, giúp người đọc đánh giá được xã hội một cách khách
quan nhất bởi những hình ảnh khơng cịn được q mài dũa, chau chuốt, tơ điểm thêm
và khơng cịn được viết dựa theo ý tưởng của nhà văn như ở chủ nghĩa lãng mạn trước
đó.
Từng yếu tố được đưa vào trong các tác phẩm thuộc chủ nghĩa này như hình
tượng nhân vật, không gian, thời gian, sự kiện,... phải bám sát vào cuộc sống và cụ thể,
chân thật nhưng đồng thời đảm bảo tính chọn lọc, khơng đem tồn bộ, tràn lan vào
trong tác phẩm mà lựa chọn ra cái tiêu biểu, đáng nói và có giá trị để có thể phản ánh
tinh thần của người viết, của con người trong xã hội lúc bấy giờ, tư tưởng của thời đại
và thơng điệp có giá trị tác giả muốn nhắn nhủ.
Như vậy, với tôn chỉ phản ánh chân thực cuộc sống, chủ nghĩa hiện thực đã
nâng cao vị thế của mình trong tiến trình lịch sử văn học, đồng thời khu biệt với chủ
nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn theo nguyên tắc chủ quan. Các nhà văn
Trang 9
bấy giờ khơng cịn giữ tư duy chủ quan, đánh giá, kể về những sự vật, hiện tượng theo
trí tưởng tượng và tình cảm của mình mà phải dùng óc quan sát để phân tích, chiêm
nghiệm nhân sinh đảm bảo được sự đúng đắn của những vấn đề mình chấp bút. Họ
phải nỗ lực thể hiện chủ đề hay câu chuyện trong các sáng tác của mình một cách
trung thực với thực tại, khơng lãng mạn hóa, tránh việc hư cấu và các yếu tố siêu
nhiên. Tính khách quan khiến cho những “đứa con tinh thần” của họ về mặt nào đó có
giá trị và hạn chế hết mức có thể sự xa rời thực tế so với các sáng tác của hai chủ nghĩa
cổ điển và lãng mạn nói trên. Phương pháp sáng tác nghệ thuật hiện thực nói trên đã
được Honoré de Balzac (1799 - 1850) đúc kết ngắn gọn trong câu nói: “Nhà văn là
người thư ký trung thành của thời đại.”
3. Những đặc điểm về nghệ thuật của trào lưu hiện thực
3.1. Xây dựng tính cách điển hình trong hồn cảnh điển hình
Nhân vật điển hình là kiểu nhân vật vừa đại diện cho một tầng lớp, giai cấp
trong thời đại ấy, vừa có những suy nghĩ, hành động gây ấn tượng, để lại dấu ấn riêng
biệt trong lịng độc giả.
Hồn cảnh điển hình là một “không gian” chứa đựng những vấn đề nổi cộm của
xã hội, những mâu thuẫn của thời đại; thể hiện được bản chất, sự vận động của xã hội
đó - những yếu tố thúc đẩy nhân vật đến những hành động được miêu tả trong tác
phẩm.
Ngun tắc điển hình hóa từ lâu đã được biết đến là đặc điểm nghệ thuật nổi
bật, đặc trưng nhất của chủ nghĩa hiện thực. So với chủ nghĩa lãng mạn là việc hướng
tới lý tưởng hóa thì điển hình hóa lại là mục tiêu của chủ nghĩa hiện thực. Engels đã
từng phát biểu: “Các nhân vật chính thì thật sự là đại biểu cho những giai cấp và
những trào lưu nhất định, do đó tiêu biểu nhất định cho thời đại của họ.”
Xây dựng nhân vật điển hình là đi tìm những nét chung, tiêu biểu đại diện cho
một lớp người, một loại sự vật hay một hiện tượng. Nhân vật điển hình được xây dựng
phải gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong từng thời kỳ phát triển của xã hội để đảm
Trang 10
bảo tính phát triển, thể hiện được sự thay đổi trong từng giai đoạn lịch sử phản ánh vào
trong văn học.
Văn học hiện thực được sáng tác dựa theo nguyên tắc quan sát, xây dựng các
hình tượng mang tính chất điển hình. Chủ nghĩa hiện thực xem con người là sản phẩm
của xã hội nên chú trọng xây dựng nhân vật dựa trên hồn cảnh điển hình. Hồn cảnh
có thể khiến con người ta là một người lương thiện thì cũng có thể đẩy họ đến đường
cùng, trở thành thành phần có thể gây nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ như nhân vật
Charles trong Eugenie Grandet của Honoré De Balzac đại diện cho kiểu con người bị
đồng tiền tha hoá đi nhân cách trong xã hội Pháp ở thế kỉ XX - thời kì đầy biến động
của lịch sử . Hay gần hơn, trong văn học Việt Nam, có thể kể đến nhân vật Xuân Tóc
Đỏ trong Số đỏ (Vũ Trọng Phụng) tiêu biểu cho những kẻ bịp bợm lúc bấy giờ, tiến
thân trong xã hội bằng những trò xảo trá, bịp bợm, bất chấp cả nhân tính. Hắn có được
những “thành tựu” ấy nhờ vào việc từng trải qua cuộc sống đầu đường xó chợ, những
bài học khi đi bụi đời, sự vô học,... và chúng đã tạo cho hắn sự lưu manh, tinh quái
ngấm sâu vào máu.
3.2. Một số đặc điểm thi pháp
3.2.1. Đề tài
Chủ nghĩa hiện thực có sự kế thừa và đổi mới đề tài của chủ nghĩa lãng mạn,
trong đó bao gồm cả việc khai thác các vấn đề lịch sử. Phần lớn các nhà văn hiện thực
cũng ủng hộ văn học lãng mạn, thậm chí từng thuộc thế hệ văn học lãng mạn, nhưng
sau này họ lại tự tách ra để tạo thành dịng văn học mới vì muốn khắc phục cái ảo
tưởng, u buồn, tăng tính chân thực trong các tác phẩm văn học. Những nhà văn của
chủ nghĩa hiện thực nhìn nhận “chủ nghĩa lãng mạn là cơn đau” và cảm thấy điều đó
quá yếu đuối mà văn học cần thiết về tính thực tế, khỏe khoắn hơn. Turgenev nói rằng
chủ nghĩa hiện thực “tái hiện sự thật, thực tại cuộc sống một cách chân thực và mạnh
mẽ là hạnh phúc cao quý nhất của nhà văn ngay cả khi sự thật ấy không phù hợp với
những thiện cảm riêng của nhà văn”. Vượt qua ranh giới giữa nghệ thuật và đời sống,
các nhà văn hiện thực đã đưa thực tế vào các sáng tác của mình, kể cả là thấp kém, xấu
xa, những góc khuất của cuộc sống mà có thể trước đó cũng chưa từng được đề cập
đến trong văn học lãng mạn.
Trang 11
Chính vì mang vào văn học kể cả là những thứ không đẹp đẽ, không phải là
“ánh trăng lừa dối” nên chủ nghĩa hiện thực chủ trương phê phán, tố cáo xã hội đương
thời như tố cáo những mặt tiêu cực của chế độ tư bản và vạch trần những tội ác của
chúng, phô bày những mâu thuẫn của giai cấp tư sản với giai cấp vô sản, lên án sự
chèn ép của thế lực đồng tiền, uy quyền đã giẫm đạp lên những người nghèo khổ,
“thấp cổ bé họng”. Chẳng hạn như Chí Phèo trong truyện ngắn kinh điển cùng tên của
Nam Cao phải chịu áp bức, bị Bá Kiến, Lý Cường,... là những cường hào, địa chủ và
cả xã hội lúc bấy giờ đẩy hắn vào con đường tha hóa, bị xếp vào tầng lớp tận đáy xã
hội. Hay sự tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời, với cái
cảnh sưu cao thuế nặng đè lên đôi vai của những người nghèo khổ, cơ cực khiến họ rơi
vào bế tắc (nhân vật Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, sự dồn ép quá đáng của
xã hội đã khiến chị từ một con người cam chịu, hiền lành bất ngờ phản kháng mãnh
liệt trước cảnh bị áp bức, bóc lột đến suy kiệt.)
3.2.2. Nhân vật
Như đã nói ở trên, nhân vật trong các tác phẩm thuộc chủ nghĩa hiện thực được
xây dựng theo ngun tắc tính cách điển hình, được gọi là “nhân vật điển hình”. Tính
cách điển hình của các nhân vật được tạo nên bởi sự thống nhất giữa cái chung và cái
riêng. Cái chung là những đặc điểm chung của những con người cùng giai cấp, tầng
lớp với họ lúc bấy giờ mà họ là đại diện để bộc lộ ra những đặc điểm ấy. Còn cái riêng
là những cá tính riêng biệt, khu biệt nhân vật với những người khác trong cùng tầng
lớp trong xã hội ấy. Cái riêng và cái chung được thể hiện trong một nhân vật phải đảm
bảo sự thống nhất cao độ, kết hợp hài hịa giữa tính khái qt của cái chung và tính cá
thể của cái riêng. Ví dụ như nhân vật Oblomov trong tác phẩm cùng tên của Gonsarop,
hắn đại diện cho một bộ phận nhân dân của đất nước Nga bước ra từ nền văn học lạc
hậu, văn minh tiểu nông. Hắn lười biếng, mang bản chất của một địa chủ, nhưng ở hắn
lại có sự mơ mộng song hành cùng sự lười biếng, một phẩm chất mà không phải ở bất
kì địa chủ nào cũng có.
Sự hình thành những hành vi, hành động và suy nghĩ của nhân vật trong chủ
nghĩa hiện thực là hệ quả của các yếu tố môi trường và xã hội quanh họ. Những hồn
cảnh ngặt nghèo đưa họ đến những hành động có thể nói hợp lý về mặt logic, được nhà
Trang 12
văn đưa vào tác phẩm và mô tả một cách tự nhiên nhất, theo kiểu có sao thì viết vậy,
khơng cịn được thay đổi hay có một bước ngoặt nào đáng ngạc nhiên như ta vẫn
thường hay bắt gặp ở chủ nghĩa lãng mạn trước đó.
3.2.3. Thể loại
Thể loại của chủ nghĩa hiện thực phải tương ứng với trào lưu văn học hiện thực:
đảm bảo được nguyên tắc phản ánh trọn vẹn những sự kiện của cuộc sống, đầy đủ và
chân thật các chi tiết. Chủ nghĩa hiện thực thể hiện điều đó thơng qua thể loại tiểu
thuyết và đơi khi là truyện ngắn hay trường hợp hiếm gặp hơn nữa là thơ hoặc kịch.
Tác phẩm thuộc chủ nghĩa hiện thực đôi khi kể về cả cuộc đời của một nhân vật
chính, một vài thế hệ trong cùng một gia đình, dịng họ hay mối liên quan giữa các
dịng họ trong tác phẩm. Không chỉ vậy, những sự kiện và bối cảnh lịch sử của một xã
hội rộng lớn cũng cần được đề cập, tái hiện, thậm chí là phân tích nên việc sử dụng
tiểu thuyết với dung lượng tương đối đồ sộ là vơ cùng hợp lý. Ví dụ: Phục sinh – Lev
Tolstoy, Bà Bovary – Gustave Flaubert,…
Cũng có những trường hợp mà chủ nghĩa hiện thực được phản ánh trong các tác
phẩm không cần phải đồ sộ mà có thể thơng qua các hình thức nhỏ hơn - thể loại
truyện ngắn. Là truyện ngắn nhưng tác phẩm vẫn phải đáp ứng được những yêu cầu về
việc phân tích được nhân vật chính, điển hình trong bối cảnh lịch sử, xã hội điển hình;
mơ tả được tình hình xã hội thời kì ấy để cung cấp đầy đủ dữ liệu, thơng tin đến với
đối tượng người đọc. Ví dụ: Chiếc áo khoác - Nikolai Vasilyevich Gogol, Người trong
bao - Anton Pavlovich Chekhov,…
Thơ vốn được biết đến với tính chất trữ tình, được sử dụng phổ biến trong chủ
nghĩa lãng mạn, còn kịch hay xuất hiện trong chủ nghĩa cổ điển, nhưng chúng cũng là
các thể loại của chủ nghĩa hiện thực, dù ít xuất hiện hơn hai thể loại kể trên. Tiêu biểu,
có thể kể đến các tác giả dùng thơ làm thể loại sáng tác trong chủ nghĩa hiện thực như
Nikolai Alekseevich Nekrasov (trường ca Những đứa con nông dân; thơ Bài hát ru,
Thời gian gần đây,...) hay kịch như Alexander Nikolaevich Ostrovsky (Giông bão,
Dân tộc của chúng tôi sẽ được đánh số,...).
Trang 13
4. Tác phẩm tiêu biểu trào lưu hiện thực: Tiểu thuyết Bà Bovary (1857) của
Gustave Flaubert
Nếu nhắc đến một trong những nhà văn bậc thầy về trào lưu hiện thực ở Châu
Âu, bên cạnh các cây đại thụ như Balzac, Stendhal, Gogol,... thì khơng thể khơng nhắc
đến Gustave Flaubert - một tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp. Flaubert có nhiều
sáng tác nổi tiếng như Nhật ký người điên, Giáo dục tình cảm (1869),... Trong đó, Bà
Bovary (1857) của ơng được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu của trào lưu
hiện thực.
Bà Bovary là cuốn tiểu thuyết kể về nàng Emma Bovary, con của một người
nông dân khá giả chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết lãng mạn nên ước mơ một cuộc sống
phóng khống, phong lưu nhưng cuối cùng nàng lấy phải Charles - một anh chồng quá
hiền lành, thực tế đến mức tầm thường, tẻ nhạt. Cuộc sống hôn nhân không như mong
đợi, bị giam hãm vào cuộc sống tư sản chật hẹp, buồn tẻ nơi tỉnh nhỏ. Để đạt được ước
mơ của mình, Emma đã ngoại tình và có mối quan hệ với nhiều người đàn ông. Nàng
bị những gã đàn ông ấy lợi dụng, lừa gạt, bỏ rơi, sau đó mắc nợ và nàng đã tìm đến cái
chết bằng cách tự sát bằng thạch tín.
Về bối cảnh thời đại của tác phẩm, nửa đầu thế kỉ XIX, sau cách mạng tư sản,
xã hội Pháp có hai cuộc biến đổi dịch chuyển có ý nghĩa lịch sử. Một là, giai cấp tư
sản từ một lực lượng xã hội tiến bộ chống chế độ phong kiến già lỗi thời bỗng quay
ngoắt trở thành thế lực phản động thẳng tay đàn áp những người công nhân và nhân
dân lao động (vốn từng là đồng minh với mình) mà không bận tâm đến các lý tưởng
công bằng, bác ái, dân chủ, bình đẳng, văn minh đã từng là lời kêu gọi, là động lực để
tập hợp mọi người. Hai là, giai cấp công nhân Pháp, từ chỗ phụ thuộc vào giai cấp tư
sản trong khối liên minh đẳng cấp thứ ba chống lại phong kiến, nay đã chuyển thành
một lực lượng chính trị độc lập chống giai cấp tư sản. Từ sự hình thành và phát triển
mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong xã hội, Flaubert đã khai thác chất liệu và
sáng tác nên Bà Bovary với đủ những thứ giễu cợt, châm biếm và phê phán.
Trong một xã hội mà những giá trị đạo đức, tinh thần bị đè bẹp, mọi việc đều
phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản mà thói giả dối từ đó xuất hiện. Bà Bovary đã
Trang 14
đả kích thói đạo đức giả, mà cụ thể hơn nữa là thói lừa lọc giả dối trong xã hội. Dược
sĩ Homais, linh mục Bournizien cũng như Rodolphe là những nhân vật được tác giả
xây dựng với sự đối lập rõ nét giữa cái đẹp đẽ giả dối bên ngoài với cái tồi tệ, xấu xa
bên trong. Bên cạnh đó, tác giả cũng phê phán thói coi trọng đồng tiền đến mức tha
hóa của con người thời đại, điển hình qua nhân vật lái buôn L’heureux, người đã lừa
Emma mua sắm hoang phí đến mức nợ nần khơng lối thốt, rồi từ đó trục lợi cho
mình. Đặc biệt, cuốn tiểu thuyết còn cho ta cảm nhận được sâu sắc cái tầm thường
trong đời sống của con người, mà nguyên nhân gây ra chính là khoảng cách giữa hiện
thực và những lý tưởng, ước mơ, khát vọng của con người là q cách xa nhau. Tơn
giáo khơng cịn giữ vị trí quan trọng, sự trở mặt của giai cấp tư sản sau lời hứa sng,
sự xuống cấp và tha hóa đạo đức của con người trong xã hội,... đều được Flaubert vẽ
lại một cách chi tiết đến mức chân thực. Với những biểu hiện trật khớp giữa hiện thực
xã hội và kỳ vọng của con người thời đại, bức tranh hiện thực trong Bà Bovary có cái
gì đó cay đắng, nhuốm màu ảm đạm.
Xét về nghệ thuật, phương thức điển hình hóa - một đặc trưng nổi bật của chủ
nghĩa hiện thực - là sự kết hợp giữa cá thể hóa và khái quát hóa. Có thể thấy trong Bà
Bovary, Emma là một nhân vật đặc biệt, không bị trộn lẫn với bất kì nhân vật nào
khác, nàng bị ám ảnh bởi sự mơ mộng về một cuộc sống lãng mạn, phóng khống, một
tình u nồng nhiệt, cháy bỏng và những chuyến phiêu lưu. Tính cá thể hóa ở đây
được thể hiện ở chỗ Emma mơ mộng đến mức bỏ bê cả chồng con và sẵn sàng chạy
trốn theo nhân tình của mình bằng cả con tim yêu nồng cháy. Ai cũng có một lý tưởng
và những mơ mộng lẫn kỳ vọng cho cuộc sống của mình, nhưng khơng phải ai cũng
như Emma, dám lao đầu mù quáng vào con đường ngoại tình chỉ để truy tìm cho được
cái tình yêu ảo mộng nàng ln khao khát. Bên cạnh đó, Emma còn là một đại diện
tiêu biểu cho bi kịch “vỡ mộng” trong xã hội Pháp lúc bấy giờ. “Tính cách điển hình
cần phải được đặt trong một hồn cảnh điển hình.” Để làm được điều đó, tác giả của
chủ nghĩa hiện thực phải xây dựng nhân vật, miêu tả nhân vật gắn với hoàn cảnh lịch
sử xã hội cụ thể. Emma từ nhỏ vì được giáo dục trong mơi trường tu viện khơ khan,
buổn tẻ nên cơ có một tâm hồn mơ mộng, ln mong chờ tình u lớn lao, phóng
khống, lãng mạn để đền bù cho thực tại buồn chán, tẻ nhạt của mình. Sự đối lập giữa
hiện thực bên ngoài và lý tưởng nội tại bên trong đã khiến con người ta “choáng
Trang 15
váng”, bị “mất thăng bằng” trong cuộc sống như chính hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
Vào đầu thế kỉ XIX, giai cấp tư sản khi thắng lợi đã hứa hẹn mang lại tự do, bình
đẳng, bác ái cho con người. Nhưng rồi lời hứa ấy dần biến mất mà thay vào đó là một
bộ mặt hào nhống che đậy bản chất xấu xa, thối nát bên trong. Giới tư sản đã vứt bỏ
lời hứa hẹn của mình và làm cho những con người ở thời đại ấy “vỡ mộng” với những
kỳ vọng của họ. Điều ấy đã được Flaubert thể hiện rất rõ trong Bà Bovary.
Về tư tưởng, Gustave Flaubert lên án cái xấu, cái ác, chế giễu cái tầm thường,
châm biếm những khát vọng lãng mạn và cả nhân vật lãng mạn, tác giả hầu như cũng
muốn nói rằng Thượng đế khơng có ở trên thế gian. Trong Bà Bovary và khơng ít tác
phẩm khác, Flaubert ln bày tỏ quan niệm: Cuộc sống con người ln hồn tồn bế
tắc và bi đát, con người luôn bị lừa dối và tự lừa dối, luôn luôn thất bại và vỡ mộng;
mọi khát vọng trong cuộc sống chỉ là ảo tưởng và dù sống tốt đẹp hay xấu xa thì con
người cũng có chung một kết thúc mà thơi. Bà Bovary đã thể hiện rõ sự căm ghét chủ
nghĩa lãng mạn của Flaubert bằng cách tơ điểm, vẽ vời lên hình dạng chải chuốt của
những mộng tưởng đẹp đẽ, hoành tráng, đặt nó vào bối cảnh hiện thực để vạch trần bộ
mặt kệch cỡm, xấu xa của xã hội.
5. Vị trí và ảnh hưởng của trào lưu hiện thực đối với văn học Việt Nam
Cuối thế kỉ XVIII ở Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện những tác phẩm nhen
nhóm các yếu tố của trào lưu hiện thực. Mặc dù chưa thể hiện rõ những đặc điểm của
chủ nghĩa hiện thực nhưng thông qua các tác phẩm văn học thời kỳ này, ta có thể thấy
được bức tranh suy đồi của xã hội phong kiến, của vua chúa triều đình.
Đến thế kỉ XIX, chủ nghĩa hiện thực có những ảnh hưởng rõ nét hơn trong văn
học Việt Nam. Văn học có thơ khắc họa xã hội, phê phán hiện thực nhiễu nhương, bóc
lột, chèn ép con người. Trong buổi giao thời, đứng trước sự sụp đổ của ý thức hệ Nho
giáo, sự băng hoại các giá trị đạo đức trong xã hội, văn học cũng có sự chuyển hướng
về mặt tư tưởng và quan niệm sáng tác. Về tư tưởng, ở giai đoạn này, tư tưởng nhân
văn chiếm vai trò chủ đạo. Văn học cũng theo khuynh hướng tố cáo xã hội, tố cáo hiện
thực, đề cao quyền sống, quyền tự do của con người. Về quan niệm sáng tác, bên cạnh
quan niệm “văn dĩ tải đạo” truyền thống, văn chương hình thành khuynh hướng hướng
Trang 16
tới cuộc sống bình thường, hướng tới con người trong xã hội. Đây có thể coi là sự ảnh
hưởng của chủ nghĩa hiện thực nhân văn phương Tây với đặc điểm nổi bật là đề cao
giá trị con người trong hiện thực xã hội. Những nhà thơ đã đưa yếu tố hiện thực nhân
văn vào tác phẩm của mình bấy giờ có thể kể đến như Nguyễn Khuyến, Tú Xương,
Nguyễn Thiện Kế,...
Đầu thế kỉ XX, Việt Nam trở thành nước thực dân nửa phong kiến, trào lưu
hiện thực bắt đầu phát triển hơn và đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực trong văn
học Việt Nam hiện đại qua các tiểu thuyết khắc họa hiện thực của Hồ Biểu Chánh,
Nguyễn Bá Học,... Cho đến giai đoạn văn học hiện đại 19230 -1945, trào lưu hiện thực
của phương Tây mới thực sự được tiếp nhận và phát triển rực rỡ, có vị trí quan trọng
trong nền văn học Việt Nam. Chủ nghĩa hiện thực đa dạng và phong phú với nhiều
khuynh hướng nhằm phê phán sự bất công của xã hội, bày tỏ niềm xót thương cho
những con người bị chà đạp, bóc lột khơng thương tiếc.
Việt Nam giai đoạn này bị thực dân Pháp ra sức bóc lột để bù thiệt hại cho
chính quốc, nhân dân rơi vào lầm than, đói khổ. Xã hội có nhiều biến động, phong trào
cách mạng đang lên cao hướng tới giải phóng dân tộc. Trước tình hình đó, văn học
cũng theo sự vận động của đời sống, nảy sinh cảm hứng sáng tạo và phản ánh thực tại
một cách linh hoạt. Với nhiều phong cách khác nhau, chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam
trong những năm 1930 - 1945 đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Trong đó, chủ nghĩa
hiện thực phong tục với những nhà văn tiêu biểu như Ngô Tất Tố, Mạnh Phú Tư, Trần
Tiêu,..; chủ nghĩa hiện thực tâm lý như Nam Cao, Nguyên Hồng,...; chủ nghĩa hiện
thực trào phúng với Nguyễn Cơng Hoan, Vũ Trọng Phụng,...
Mỗi ngịi bút sẽ có những cảm nhận và cách thể hiện riêng tạo nên sự phong
phú cho văn đàn Việt Nam. Trước hết phải kể đến tập truyện Kép tư bền của nhà văn
Nguyễn Cơng Hoan, các phóng sự Cạm bẫy người và Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng
Phụng. Đây là hai nhà văn có cảm hứng chủ đạo là hiện thực trào phúng với những tác
phẩm mang tính chất mở đầu giai đoạn văn học hiện thực 1930 - 1945. Nguyễn Công
Hoan phản ánh sự mục ruỗng của xã hội phong kiến, phê phán thực tại giả dối, vụ lợi,
bóc lột những người nghèo khổ, bần cùng trong xã hội. Ông căm ghét tầng lớp quan
lại, cường hào giàu sang dựa trên miếng cơm manh áo của nhân dân lao động. Chịu
Trang 17
ảnh hưởng từ chủ nghĩa hiện thực, ngòi bút của ông từ đời sống đã bật ra tiếng cười
trào phúng, đả kích sâu cay vào xã hội nhiễu nhương bấy giờ. Tiếp sau đó, từ 1936 đến
1939, hàng loạt các sáng tác của nhà văn Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố,... liên tục ra
đời nhằm mục đích tố cáo xã hội giả dối, thủ đoạn, bày tỏ lòng thương cảm với những
con người ở tầng lớp thấp. Đến những năm 1940 – 1945, trào lưu hiện thực xuất hiện
những đặc điểm mới, phản ánh rõ nét qua truyện ngắn của Nam Cao. Nhà văn Nam
Cao không khắc họa hiện thực một cách đơn thuần mà ơng cịn đi sâu lý giải và phân
tích tâm lý con người lẫn những hiện tượng xã hội. Ông khát khao muốn con người
sống hạnh phúc, sống đúng với chính mình, xứng đáng với hai chữ “con người”. Nhà
văn đau xót trước hiện thực vùi dập làm tha hóa nhân cách của những con người lương
thiện nên các sáng tác của ông vừa vạch trần hiện thực vừa thể hiện khát vọng sống,
khát vọng hạnh phúc của con người. Ngoài ra, trên chặng đường này, cảm hứng phê
phán vẫn là chủ đạo, nhiều tác phẩm đặc sắc được ra đời như đánh một đòn đau vào xã
hội loạn lạc và tầng lớp quan liêu ở thời kì này.
Trào lưu hiện thực ở Việt Nam phát triển trong khoảng 15 năm, trải qua ba
chặng đường, đã đạt nhiều thành tựu to lớn về nội dung lẫn nghệ thuật, chiếm vị trí
quan trọng trong tiến trình phát triển văn học hiện đại. Từ năm 1930 đến năm 1945 đã
xuất hiện nhiều nhà văn lớn với những tác phẩm mang chiều sâu về bức tranh hiện
thực xã hội đương thời. Bước đường cùng, Tắt đèn, Bỉ vỏ, Số đỏ, Chí Phèo, Vỡ đê,... là
sự tha hóa của xã hội, sự bi kịch của những con người nhỏ bé, vùng vẫy trong nghịch
cảnh mà cho đến về sau, khi nhắc đến tên, người ta khơng khỏi chạnh lịng trước hình
ảnh chị Dậu phải gạt lệ bán con, bán chó vì sưu thuế; hình ảnh Chí Phèo trong bất lực
phải hét lên “Ai cho tao lương thiện?”. Văn học hiện thực không đơn thuần tái hiện lại
xã hội trước mắt mà nó phanh phui, bóc trần cả những cái xấu xa, biến chất đằng sau
lớp vỏ bọc thượng lưu, đồng thời đứng về phía người dân nghèo khổ, cơ cực.
Dựa trên quan điểm hiện thực, văn học thời kì này đã khắc họa hiện thực một
cách sắc nét, từ đó làm nổi bật hình tượng con người trong xã hội. Những nhân vật của
văn học hiện thực dường như đã trở thành những chân dung điển hình mang tính khái
qt cao, đại diện cho một giai đoạn văn học có nhiều biến động. Nghệ thuật phân tích
tâm lý nhân vật cũng đạt đến một tầm cao mới, điển hình là nhà văn Nam Cao với các
sáng tác mang dấu ấn thời đại như Đời thừa, Sống mịn, Chí Phèo,... Là những trí thức
Trang 18
có xuất thân trung lưu, chứng kiến và thấu hiểu nỗi vất vả, khổ sở của con người khi
chịu sự bóc lột của chế độ xã hội, các nhà văn hiện thực Việt Nam đã đi sâu vào khai
thác mà miêu tả một cách chân thực về đời sống, đạt hiệu quả nghệ thuật cao.
Nhìn chung, tuy chịu ảnh hưởng từ trào lưu hiện thực của phương Tây nhưng
với đặc thù văn hóa và xã hội, văn học hiện thực Việt Nam cũng xây dựng được cho
mình một thời kì văn học với nhiều thành tựu rực rỡ. Cảm hứng chủ đạo đa dạng, sự
nhuần nhuyễn trong cách vận dụng đã làm nên những trang văn hiện thực đa chiều,
sinh động. Trào lưu hiện thực cho thấy sự tiến bộ trong quá trình vận động và phát
triển của văn học hiện đại. Văn học tập trung phê phán và vạch trần xã hội thối nát với
những hủ tục áp bức, bất công và hiện thực loạn lạc trước cách mạng, địi hỏi khắc
phục phải hướng tới sự thay đổi, góp phần thúc đẩy cơng cuộc giải phóng dân tộc. Văn
học hiện thực ln chiếm một vị trí vững vàng trong tiến trình phát triển văn học Việt
Nam hiện đại, mang tính chất thời đại và tạo tiền đề cho những trào lưu văn học sau.
* Sự ảnh hưởng của trào lưu hiện thực phê phán qua tác phẩm Một bữa no
của Nam Cao
Nam Cao (1915 - 1951) là một trong những nhà văn tiêu biểu của trào lưu hiện
thực phê phán. Các tác phẩm của Nam Cao xoay quanh những người nơng dân nghèo
đói bị vùi dập bị áp bức hay những người tri thức đang bế tắc trong lối mịn khơng tìm
được con đường đúng đắn cho mình. Ơng thường viết về những cái nhỏ nhặt, những
cái mà người ta thường khơng chú ý tới, từ đó ơng làm nổi bật lên thực tại của xã hội
đương thời. Và chủ đề miếng ăn, cái đói ln chiếm vị trí ưu tiên trong các sáng tác
trước Cách mạng tháng Tám của ơng. Bởi lẽ cái đói ln là nỗi ám ảnh trong tư tưởng
của nhà văn. Từ Thứ trong Sống mòn, Hộ trong Đời Thừa, Lộ trong Tư Cách Mõ hay
Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên cũng khơng thốt khỏi những lo toan về miếng cơm
manh áo. Và hình ảnh người bà trong truyện ngắn Một bữa no cũng thế. Ngồi ra,
truyện ngắn này cịn là minh chứng rõ nét cho trào lưu hiện thực phê phán trong các
sáng tác của Nam Cao.
Phần nhiều các tác phẩm của Nam Cao được viết trước năm 1945, ngay trong
giai đoạn đất nước rơi vào giai đoạn loạn lạc, người nông dân lâm vào tình cảnh cơm
Trang 19
khơng đủ ăn, áo khơng đủ mặc, cùng với đó là sự áp bức, đàn áp của chế độ thực dân
phong kiến. Chúng như những con đỉa đói khơng ngừng hút máu dân đen, làm cho
cuộc sống của họ túng thiếu lại càng túng thiếu hơn. Chính những điều này đã dồn
người nông dân vào ngõ cụt, xoay quanh những đồng sưu thuế vô lý họ phải chạy đôn
chạy đáo để kiếm được bữa cơm. Nhà văn xuất thân trong một gia đình nghèo khó, nên
chủ đề cái đói ln được nhà văn khai thác một cách triệt để. Một bữa no chính là tác
phẩm tiêu biểu, là một bức tranh tái hiện lại hiện thực đau lịng, khi nó đưa cái đói lên
đến tột đỉnh, khi người ta vì đói mà sẵn sàng đánh mất danh dự, lịng tự trọng của bản
thân.
Người bà trong Một bữa no chính là tuyến nhân vật điển hình đại diện cho
tầng lớp nơng dân trong thời kì này. Một bữa no là truyện ngắn kể về một bà lão chồng
mất sớm, cả đời bà tần tảo nuôi con người con trai. Ngờ đâu sau này, khi đứa con lớn
lên, nó sẽ trở thành chỗ dựa cho bà khi về già, nhưng nó lại bỏ bà mà ra đi. Cô con dâu
sau khi chịu tang chồng thì cũng để lại đứa con gái vừa trịn năm tuổi cho bà mà đi tìm
hạnh phúc mới. Hai bà cháu nương tựa lẫn nhau suốt bảy năm trời, cơm không đủ ăn,
áo mặc không đủ ấm. Nhưng những năm ấy kiếm được đồng tiền khó lắm, chẳng đành
bà phải bán ln đứa cháu gái cho bà Phó Thụ làm con gái ni, nói là con gái ni
chứ thực chất là người ở. Bán đứa cháu đi, cuộc sống của bà cũng chẳng mấy dễ dàng,
đứa cháu gái bà ni ngần ấy năm, người ta mua có 10 đồng. Bà lấy 7 đồng làm mả
cho con trai, còn 3 đồng làm vốn để buôn bán. Ấy vậy mà, ông trời như trêu ngươi bà,
năm ấy bà bệnh nặng, bao nhiêu vốn liếng đổ vào tiền thuốc men, chết thì khơng chết
nhưng sức khỏe bà yếu đi nhiều, bà không buôn bán được nữa. Bà phải đi ở thuê chăm
cháu cho nhà người ta để tìm hai bữa cơm. Thời gian đầu cịn có người chịu mướn,
nhưng tuổi bà đã cao, sức khỏe lại yếu, bà không kham nổi công việc. Một năm, bà
phải đổi chủ năm sáu lần, rồi giá thuê lại ngày một hạ thấp đến mức chẳng tốn một
đồng nào mà người ta cũng chẳng buồn thuê bà. Người chủ cuối cùng cho bà năm hào
rồi đuổi bà đi. Thời gian ấy, bà ăn bánh đúc chay mà sống qua ngày. Hết tiền, bà lão ra
chợ xin người này người kia, cốt cũng chỉ muốn được một bữa no bụng, nhưng cũng
khơng ai bố thí đồ ăn cho bà nữa. Bà lão đành ôm bụng nhịn đói. Rồi bà đến nhà bà
phó Thụ thăm cái Đĩ, nói là nói vậy, nhưng thực chất là bà đến xin một bữa cơm. Bà
phó Thụ đãi bà lão một bữa cơm, cùng với đó là sự khinh thường, sự chà đạp của bà
Trang 20
Phó dành cho bà lão. Đây là bữa cơm no nhất bà từng được ăn, và cũng là bữa cơm
cuối cùng của bà. Nửa tháng sau bà chết, người ta nói bà chết vì no.
Tính hiện thực trong Một bữa no chính là cái đói của con người. Người ta
thường nói “miếng ăn là miếng nhục” nhưng miếng ăn trong truyện ngắn của Nam
Cao không tầm thường như thế. Mỗi lần Nam Cao viết về cái đói, về miếng ăn lại là
một lần nhà văn tái hiện lại bức tranh xã hội đương thời, đói khổ, cực nhọc để từ đó
chúng ta có thể nhìn thấy lời kêu cứu thảm thiết đến từ nhà văn, đó là tiếng kêu cứu về
nhân cách, về nhân phẩm của một kiếp người. Nhìn bà cụ trong truyện ngắn mà xem.
Cái đói đã khiến bà phải hèn mọn đến mức đi ở đợ không lấy một đồng nào chỉ muốn
một bữa cơm, bà đói đến mức phải ra chợ xin ăn, đói đến mức dù cho sức tàn lực kiệt
bà cũng ráng lết đến nhà bà phó Thụ, lấy lý do thăm cái Đĩ, nhưng thực chất là muốn
xin một bữa cơm no. Nam Cao miêu tả cảnh bà ăn cơm thật tàn nhẫn, thật lạnh lùng.
Ông miêu tả rõ nét từng cử chỉ, hành động của bà lão trong bữa ăn cuối cùng. “ Lập
cập quá. Bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát… No dồn, đói góp. Người đói mãi, vớ được
một bữa, tất bằng nào cũng chưa thấm tháp... Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no.” Hình
ảnh bà lão ôm cái nồi cơm đã hết, cùng tiếng cạo nồi sồn sột đã tạo ra một bức tranh
đầy đau lòng. Nó hiện thực tới mức người ta khơng chấp nhận được. Nam Cao đang
muốn nói đến ở đây là hiện thực đương thời, khi mà chính cái đói đã làm tha hóa nhân
cách của một con người khiến họ từ bỏ lịng tự tơn, từ bỏ nhân cách của mình. Nhân
vật bà cụ cũng vậy, bà vì được một bữa cơm no mà mặc lệ ánh mắt ghét bỏ của bà phó
Thụ, của đám người làm và cả của đứa cháu gái. Chính cái đói đã tước đi nhân cách,
lịng tự trọng của bà.
Ngồi bữa ăn ở nhà bà phó Thụ thì cái chết của bà cụ cũng là một điểm đáng
nhắc đến. Đúng vậy, bà cụ chết vì ăn no, người ta giễu cợt rằng: “Chúng mày xem đấy.
Người ta đói đến đâu cũng khơng thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày
cứ liệu mà ăn tộ vào!…” Cái chết tức tưởi, quằn quại của bà cụ để lại trong lịng độc
giả nhiều nỗi xót xa. Mỗi con người khi sinh ra đều khơng có quyền lựa chọn cuộc
sống của mình, khơng ai muốn mình nghèo khổ, khơng ai muốn mình sống mà đến
cơm ăn cũng không no cả.
Trang 21
Dựa vào những đặc điểm của trào lưu hiện thực phê phán, Nam Cao bộc lộ
những xúc cảm, sự đồng cảm của mình dành cho người dân nghèo. Đó là tiếng nói
nhân đạo nhất, là sự xót thương dành cho những kiếp người lênh đênh, nhỏ bé, khơng
có tiếng nói, những kiếp người vì số phận mà phải bán rẻ nhân cách của mình. Nam
Cao và nhiều nhà văn khác trong giai đoạn này đã dùng văn chương để tái hiện lại một
xã hội mục nát, thối rữa, để lên án những thế lực xấu xa, tố cáo những người dùng tiền,
dùng quyền chà đạp lên danh dự của con người.
Trang 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các thể loại của chủ nghĩa hiện thực trong văn học. Truy cập ngày 21/04/2022 từ:
/>2. Đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực. Truy cập ngày 20/04/2022 từ:
/>3. Huỳnh Như Phương. (2019). Tiến trình văn học (Khuynh hướng và trào lưu). TP.
HCM: NXB ĐHQG.
4. Lê Ngọc Phương. (2016). Chủ nghĩa hiện thực trong văn học. Truy cập ngày
23/04/2022
từ:
/>
van-hoc.htm
5. Phạm Phú Phong. (05/12/2021). Chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX. Giáo trình tiến
trình văn học. Truy cập ngày 21/4/2022 từ: />6. Trương Văn Quỳnh. (01/04/2021). Văn học hiện thực 1930 – 1945. Sở GD và Đào
tạo tỉnh Lào Cai. Truy xuất ngày 21/04/2022 từ:
/>7. Vĩ Như. (10/08/2020). Bà Bovary - Gustave Flaubert. Truy cập ngày 23/04/2002 từ:
o/ba-bovary-%E2%80%93-gustave-flaubert?fbclid=IwAR1BfVd_bZWWQtMImPh307rDX6pof9ewq08UgffQqljn8hRvByXmhz2UKw.
8. Watt, I. (1963). The Rise of the Novel: Studies in Defoe, Richardson and Fielding.
Harmondsworth: Penguin.
Trang 23