Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

19.Trần Thị Ngọc Tuyết. Cô Điệp. K31

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.82 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGHIÊN CỨU VĂN HỌC DÂN GIAN
TRONG BỐI CẢNH

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 08 năm 2021


CHỦ ĐỀ 1.
Trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian trước đây, các nhà nghiên
cứu thường tập trung khai thác vào những tư liệu in sẵn thành văn bản, coi văn bản là
toàn bộ tư liệu nghiên cứu và lối nghiên cứu này cũng để lại những thành tựu đáng kể.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những bất cập của lối nghiên cứu cũ và đề xuất
hướng phương pháp nghiên cứu folklore từ bối cảnh diễn xướng (context). Thật vậy,
hướng tiếp cận bối cảnh là phương pháp hữu dụng, rất cần thiết trong nghiên cứu, giảng
dạy văn học dân gian.
Trước hết, thuật ngữ “bối cảnh” có cơ sở từ tiếng La-tinh “textere”, vốn có nghĩa
là “hành động dệt”. Trong một nghĩa rộng hơn, “bối cảnh” là tất cả những gì đi cùng
với văn bản. Một văn bản, giống như một mảnh vải, được “dệt” thành từ tình huống của
một sự diễn xướng được bố trí sẵn (mà trong đó gồm): người nghe, người trình diễn,
những nền tảng kiến thức và hiểu biết của một nhóm người có tính xã hội, và nền tảng
văn hố của người kể/hát lẫn người nghe. Nghiên cứu bối cảnh là đặt đối tượng trong
những mối liên hệ và quan hệ khác nhau với các đối tượng khác cũng như các yếu tố
môi trường xung quanh. Việc nghiên cứu bối cảnh được chú ý vào những năm đầu của
thế kỉ XXI, rất nhiều nhà nghiên cứu folklore trong nước đề cập đến như: Nguyễn Thị
Hiền, Chu Xuân Diên, Ngô Đức Thịnh, Trần Thị An, Hồ Quốc Hùng… Việc làm này
cho thấy phương pháp tiếp cận bối cảnh đã mở ra những tiềm năng, khai phá được nhiều
vùng đất mới mẻ của văn học dân gian.


Theo Alan Dundes, việc bối cảnh định hướng cho văn bản là một bằng chứng
cho thấy “bối cảnh có thể cắt nghĩa cho những biến đổi trong văn bản và kết cấu”. Hiểu
rõ bối cảnh hơn sẽ cho phép người nghiên cứu lí giải vì sao có sự khác nhau trong số
nhiều câu chuyện cùng loại. Do đó, tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu, giảng dạy văn
học dân gian sẽ phần nào cung cấp cho chúng ta trả lời cho những câu hỏi: lí do một tác
phẩm được sử dụng; nguyên nhân tạo ra nhiều dị bản; ý nghĩa của tác phẩm lúc đó (tùy
thuộc vào mỗi bối cảnh mà nghĩa của văn bản có thể hiểu theo nghĩa đen, hoặc nghĩa
bóng, có khi lại hiểu theo cả hai nét nghĩa); lí do để xác định được thể loại của tác phẩm
được sử dụng lúc đó. Ngồi ra, bối cảnh cịn giúp ta hiểu nhiều hơn về một tác phẩm
dân gian, bởi sự biến đổi cả về nội dung, nghệ thuật, hay ý nghĩa, phong cách, chức
năng… của chúng. Truyện Tấm Cám ở từng thời điểm khác nhau sẽ được sử dụng kiểu
1


kết thúc khác nhau, thời trung cổ, mẹ con Cám bị Tấm giết bỏ một cách khơng thương
tiếc, thậm chí cịn có phần ghê rợn, trong thời hiện đại lại giảm nhẹ sự trừng trị của Tấm
dành cho mẹ con Cám. Khi truyện Tấm Cám được đưa vào giảng dạy cho đối tượng phổ
thông, vẫn giữ nguyên hàm ý “sức mạnh trỗi dậy mãnh liệt của con người trước cái
ác”, nhưng vẫn phần nào tránh đi yếu tố ghê rợn như để xác Cám làm mắm cho dì ghẻ
ăn. Đến khi truyện được đưa đến tay độc giả thiếu nhi, cái chết của Cám lại được định
đoạt bởi số phận, tự nhiên để nhằm xây dựng hình ảnh bản chất hiền lành và lòng vị tha
của nàng Tấm. Nghiên cứu gần đây về tục ngữ, Lê Thị Hồng Minh chứng minh có nhiều
câu tục ngữ mới xuất hiện, cụ thể có kiểu ghi dấu ấn thời hiện đại như: Con ơi nhớ lấy
câu này/ Cướp đêm là hack (cướp), cướp ngày admin (quản trị mạng); Đẹp trai nhưng
hai phai (hi-fi); Trăm lời anh nói khơng bằng làn khói A cịng…
Hơn nữa, bối cảnh giúp ta hiểu đầy đủ hơn về đặc trưng thể loại và cách xác định
một thể loại trong văn học dân gian. Thể loại chính là tiêu chí quan trọng để phân loại
kho tàng văn học dân gian. Với quan niệm trước đây về văn học dân gian, việc phân loại
chủ yếu phụ thuộc vào văn bản đã được sưu tầm và in ấn. Tuy nhiên, trên thực tế văn
học dân gian luôn tồn tại trong hoạt động diễn xướng, là một q trình chưa hồn tất,

ln vận động. Cho nên, việc sưu tầm các tác phẩm liệu đã trung thực hay đó là hành
động cắt gọn cho vừa vặn với những khuôn mẫu đã đặt ra về thể loại. Như cặp câu nhịp
nhàng, ý tứ da diết, bồi hồi thể hiện nỗi nhớ và tình yêu đẹp của chàng trai với cô gái:
Nhớ em trong dạ bùi ngùi/ Khăn lau không ráo, áo chùi không khô. Nếu chỉ tìm hiểu
qua văn bản, chắc hẳn ta ngầm hiểu tác phẩm này thuộc thể loại ca dao trữ tình. Thế
nhưng, trong hồn cảnh khác nếu sử dụng để thử tài lanh trí của nhau thì văn bản trên
thuộc thể loại đố vui. Lúc này, người chơi đố vui dựa vào từ ngữ, hoặc dấu hiệu trong
văn bản để trả lời (trường hợp này câu trả lời có thể là bánh ướt hoặc bánh hỏi). Vì vậy,
nếu cứ cứng nhắc phân định thể loại của tác phẩm thuộc ca dao là hoàn toàn sai lầm, thể
loại tác phẩm lúc này đã thuộc về thể loại câu đố dân gian. Hay lấy ví dụ về dân ca đối
đáp, trên thực tế trong quá sưu tầm cũng chưa thể hiện hết đặc trưng thể loại, chỉ thấy
phần lời là những cặp ca dao đối đáp được cắt xén khá rời rạc làm mất đi tính hay và thú
vị của thể loại này như:
-

Nghe anh hay chữ em hỏi thử đôi lời
Đố anh có biết con mèo mấy lơng?
2


-

Thấy anh hay chữ em hỏi thử đôi lời

Chị dâu đi cầu té giếng anh nắm chỗ nào kéo lên?
Qua đó, ta khẳng định việc định hướng lại trong khi xác định thể loại văn học dân gian
là việc làm rất cần thiết. Các tác phẩm dân gian được đưa vào giảng dạy phổ thông dù
đã được cố gắng sàng lọc cố định các thể loại như các văn bản kể về Lạc Long Quân và
Âu Cơ, Sơn tinh Thủy tinh, Thánh Gióng được chọn là thần thoại hay truyền thuyết, các
truyện kể Trí khơn của ta đây, Trâu đồn kết giết hổ, Sự tích bộ lơng quạ và cơng là cổ

tích lồi vật hay truyện ngụ ngơn… Tuy nhiên, nếu không định hướng về bối cảnh trong
giảng dạy, sẽ để lại những sai lệch trong việc phân định thể loại, cũng như chưa thấy
được các đặc tính “sống” của văn học dân gian.
Khi tìm hiểu về bối cảnh, Trần Thị An cũng khẳng định “hướng nghiên cứu
những câu chuyện đang tồn tại qua tự liệu đã tỏ ra bất lực trước nhiều yếu tố bộn bề
đầy sức sống của thực tiễn bao quanh những văn bản chỉ có con chữ gọn ghẽ, im lìm”.
Bởi lẽ văn học dân gian khơng phải là sản phẩm văn hóa đã hồn tất. Nó lưu tồn như
một q trình, liên tục biến đổi, liên tục được “gọt giũa” bởi ý thức cộng đồng, xã hội.
Nếu chỉ dựa trên văn bản tức là dựa trên một lần kể, một lần ghi, một khoảnh khắc nhất
định để đánh giá, bình phẩm về cả quá trình quả thật có phần chưa thỏa đáng. Cho nên,
khơng thể bỏ qua việc tiếp cận bối cảnh để nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian
được. Tuy nhiên, không vì đó mà ta qn việc bám sát vào những yếu tố trong văn bản.
Kết hợp cả hai hướng nghiên cứu, ta sẽ có cái nhìn bao qt, tổng thể và trọn vẹn hơn
về đời sống của folklore. Có thể nói, sự kết hợp tuyệt vời này sẽ làm nên những thay đổi
cả về chất lẫn lượng của các tác phẩm văn học dân gian đang “sống” so với các tác phẩm
đã được in thành văn bản trên kệ sách. Từ đó trả lại những giá trị vốn có cho folklore
nói riêng và những giá trị văn hóa dân gian nói chung trong suốt q trình lịch sử mỗi
dân tộc.

3


CHỦ ĐỀ 2
Trong quá trình sưu tầm các bối cảnh diễn xướng tác phẩm văn học và cảm nhận
được những đặc tính “sống” của văn học dân gian, có thể kể ra những bối cảnh tâm đắc
sau đây:
(1) Bối cảnh trong bài báo “Vượt qua nỗi sợ: Mua cho mình, tặng cho người” của
Hoàng Anh Tú đăng ngày 08/06/2021 ( />Giới thiệu bối cảnh diễn xướng
Bối cảnh được xác định trong tình hình dịch bệnh covid diễn ra ngày một
phức tạp, thủ tướng Phạm Minh Chính đưa ra thơng điệp chúng ta phải chuyển trạng

thái từ phịng ngự sang tấn cơng trong cuộc chiến chống Covid-19. Theo đó, tác giả
đưa ra vấn đề dập dịch không chỉ bằng tiền bạc, mà còn bằng tinh thần quyết chiến,
quyết thắng của tất cả mọi người. Tác giả cải biến khéo léo câu tục ngữ nhằm phù
hợp với thời điểm nóng của đợt dịch (số ca nhiễm tăng từ hai con số lên tới ba con
số) và sau khoảng hơn một tuần Chính phủ quyết định thành lập Quỹ vắc xin
phòng Covid-19 (ngày 26/5). Tác phẩm văn học dân gian chịu sự chi phối từ các
yếu tố tri thức, hiểu biết của người viết bài báo và được cải biến thành một luận
điểm, một quan điểm về cách phòng chống dịch hữu hiệu nhất cho thời điểm này.
Phân tích bối cảnh diễn xướng
Trong bài báo “Vượt qua nỗi sợ: Mua cho mình, tặng cho người” của Hoàng
Anh Tú (Báo Phụ nữ, đăng ngày 08/06/2021) đã dựa vào câu tục ngữ “Ăn cho mình,
mặc cho người” và chuyển lại thành tiêu đề, đồng thời cũng là luận đề của bài báo.
Có thể hiểu, ăn và mặc là hai nhu cầu thiết yếu của con người. “Ăn cho mình”: ăn
trước hết là để duy trì sự sống, cho nên ăn cho mình là để phục vụ cho bản thân.
“Mặc cho người”: trang phục trên người mình nhưng lại để cho người khác ngắm
nhìn thậm chí có thể trở thành khuôn mẫu cho người khác. Mặc đẹp khơng chỉ làm
đẹp cho bản thân mà cịn tạo thiện cảm với người khác và thể hiện sự tôn trọng
nhưng người xung quanh. Đây là phương châm sống của con người hiện đại ngày
nay về cách ăn, mặc như thế nào để vừa thể hiện gu thẩm mĩ, vừa phù hợp với văn
hóa, phù hợp với xu thế xã hội.

4


Khi sử dụng tác phẩm dân gian, tác giả đã có sự cải biến về nội dung để phù
hợp với hồn cảnh đặc biệt của mình. Tuy nhiên, về hình thức của câu tục ngữ vẫn
giữ nguyên, được chia thành hai vế, mỗi vế bắt đầu bằng động từ then chốt. Ở ý của
hai vế hướng về đối tượng trái ngược nhau: một bên là “cho mình” và một bên là
“cho người”. Cách biến đổi động từ của nhà báo từ “ăn” sang “mua”; từ “mặc”
sang “tặng”, vẫn giữ nguyên tắc phối âm, rất nhịp nhàng, cân đối. Việc cải biến này

có tác động mạnh đến những người đọc bài báo. Theo đó, người đọc khơng quyết
định nội dung câu chuyện nhưng lại là yếu tố tác động buộc người viết phải lựa
chọn, nhờ đó mục đích của người viết mới đạt được. Như vậy, cách thay đổi từ ngữ,
nội dung qua cách tác giả Anh Tú truyền đạt cũng rất hợp lí và hấp dẫn người đọc
chú ý vào vấn đề muốn trao đổi một cách ý nhị.
Bằng những trải nghiệm và suy nghĩ về dịch bệnh covid, cùng với những
động thái phòng chống dịch của đất nước, tác giả Anh Tú muốn đưa ra một nhận
định vô cùng nhân văn: “Mua cho mình, tặng cho người”. Ở lối diễn đạt trong bài
báo, ta có thể hiểu: Hành động “mua” ở đây là việc “mỗi người dân thay vì chờ
tiêm miễn phí, chỉ cần tự nguyện đóng phí theo đúng mệnh giá mua vắc xin, trả
trước cho hai liều vắc xin của mình bằng số tiền gửi vào tài khoản của quỹ”. Cả hai
hoạt động “mua” và “tặng” đều nằm trong cùng một hành động “mua”. Theo đó
chỉ cần mọi người chịu bỏ tiền túi và “thay vì chỉ trả đúng tiền mua vắc xin cho bản
thân, những người có kinh tế ổn hơn có thể trả thêm tiền mua tặng cho những người
khó khăn hơn mình”. Ở cách nói dân gian, “ăn” và “mặc” là hai nhu cầu thiết yếu
của con người, thì ở cách của tác giả “mua” vacxin và “tặng” vacxin cũng là hai
nhu cầu thiết yếu của con người trong thời điểm dịch bệnh khó khăn. Cách suy nghĩ
ấy hồn tồn thiết thực với tình hình dịch bệnh hiện nay. Như vậy, phần nghĩa của
câu tục ngữ là cách sống đẹp, bỏ tiền “mua” vacxin “cho mình” để bảo vệ sức khỏe
chính mình, cũng là bảo vệ cộng đồng; mua “tặng” vacxin “cho người” là để san
sẻ tình thương, cịn làm “lan tỏa sức mạnh nhân dân”, thể hiện sự đồng lòng, quyết
chiến quyết thắng của con người Việt Nam. Để tăng sức thuyết phục hơn, tác giả đã
lồng vào trong kiểu câu rút gọn “Vượt qua nỗi sợ: Mua cho mình, tặng cho người”,
một phần làm cho câu nói súc tích, một phần giúp nhấn mạnh vào ý quan trọng khiến
người nghe tập trung hơn vào nội dung chính.
5


Nhận xét bối cảnh diễn xướng
Nếu “Ăn cho mình, mặc cho người” là câu tục ngữ, được ông cha khuyên dạy

lối sống hài hịa, phù hợp với văn hóa và xu thế của xã hội, thì “Mua cho mình, tặng
cho người” là cách tác giả cải biến để đưa ra lời khuyên về tinh thần đoàn kết trong
đợt dịch bệnh nguy hiểm, làm cho đời sống ngày càng khó khăn hơn. Việc lựa chọn
tác phẩm dân gian và sửa đổi nội dung để phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp được tác
giả vận dụng rất khéo và đạt được hiệu quả cao. Với chủ ý khuyên bảo có phần
khiên cưỡng, nhưng cách thay đổi của người viết lại vô cùng thực tế, thể hiện một
mối quan tâm đặc biệt vào niềm tin chiến thắng dịch bệnh.
(2) Bối cảnh trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân)
Giới thiệu bối cảnh diễn xướng
Trong nạn đói khủng khiếp 1945, con người sống dật dờ như những bóng
ma, khắp nơi chất đầy những xác chết. Tràng là chàng trai sống ở xóm ngụ cư, người
xấu xí thơ kệch, ế vợ. Anh làm nghề kéo xe bò thuê và sống với mẹ già. Trong lần
kéo xe thóc Liên đồn lên tỉnh, Tràng chỉ bng lời hị khi mệt nhọc và ngay sau đó
hắn lại được một chị giúp đẩy xe. Bối cảnh diễn xướng diễn ra rất nhanh chóng, là
tình huống tình cờ diễn ra trong lúc Tràng đẩy chiếc xe bị thóc qua dốc tỉnh, trong
đó người diễn xướng là Tràng, người tiếp nhận là “mấy chị con gái ngồi vêu ra ở
chỗ cửa nhà kho thóc”. Mục đích ban đầu của Tràng chỉ là hò chơi để xua tan mệt
nhọc, tuy nhiên sau cùng Tràng lại được người ta liếc mắt đưa tình. Cụ thể hơn hồn
cảnh diễn xướng nằm trong đoạn trích in nghiêng dưới đây:
“Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đây. Hắn
đoán họ ngồi đấy nhặt hạt rơi vãi, hay ai có cơng việc gì gọi đến thì làm. Một lần
hắn đang gị lưng kéo cái xe bị thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc.
Hắn hò rằng:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bị với anh, nì!”
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chịng ghẹo cơ nào, nhưng mấy cơ gái lại cứ
đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giị thì ra đẩy xe bị với anh
ấy!
6



Thị cong cớn:
- Có khối cơm trắng mấy giị đấy! Này, nhà tơi ơi, nói thật hay nói khốc
đấy?
Tràng ngối cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ! - Thị liếc mắt, cười tít.
Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười
với hắn tình tứ như thế.”
Phân tích bối cảnh diễn xướng
Lời diễn xướng được nhân vật Tràng thể hiện vô cùng sinh động, vừa đẩy xe
cực nhọc, vừa hò vui: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bị với
anh, nì!”. Q trình diễn xướng ấy được thực hiện trong khơng khí sinh hoạt hằng
ngày của người nơng dân, nhưng điều đặc biệt hơn là không phải ở thời bình. Câu
ca dao mà anh Tràng sử dụng ban đầu phải là: Muốn ăn cơm trắng chả giị/ Thì về
Bến Cốc đẩy xe bị với anh. Cũng có nhiều dị bản xuất hiện tương đồng về nội dung,
chỉ thay đổi về món ăn và địa danh tùy theo đặc trưng vùng miền như: Muốn ăn cơm
trắng cá mè/ Thì về làng Quỷnh hái chè với anh/ Muốn ăn cơm trắng cá rơ/ Thì lên
làng Quỷnh quẩy bồ cho anh. Hay Muốn ăn cơm trắng cá mè/ Thì về làng Nội hái
chè với anh. Đây chủ yếu là lời chàng trai ngụ ý muốn ngỏ lời cô gái về chung một
nhà, sướng vui hay buồn khổ cũng đều có nhau. Ngồi ra, cũng có thể hiểu rằng,
trong những giờ lao động vất vả, những thanh niên trai tráng yêu đời cũng cất lên
tiếng hát góp vui cho đời. Trong trường hợp của anh Tràng cũng có thể hiểu như
vậy được. Bởi lẽ, nếu anh Tràng có tình ý nào với một trong những cơ gái ngồi ngồi
cửa kho thì cũng chẳng được. Tràng ế vì nghèo, xấu, lại cịn là dân ngụ cư, thân
mình cịn chưa lo xong sao đèo bồng được. Nạn đói ập tới, ai cũng đã quá khổ rồi,
nên cũng chẳng có ai thiết nghĩ tới chuyện yêu đương nữa. Tuy nhiên, cách khác
biệt trong câu hò của Tràng lại ở chữ “cơm trắng mấy giò” so với bản gốc “cơm

trắng chả giò” nghe rõ là hào phóng hơn nhiều. Cái “mấy giị” ấy đã tác động tới cái
bụng đói của những cơ gái kia. Dù phận Tràng rõ khổ, mấy cô “ngồi vêu” như thế
càng khổ hơn. Những cô gái “cười nắc nẻ” đẩy một cô ả ra ngoài mà ghẹo theo lời
7


hị của Tràng. Lời hị vui trong hồn cảnh thảm thương ấy lại có thể kéo theo nhiều
người cùng tham gia vào, làm cho người nào người nấy cũng tràn trề sinh lực, cười
đùa sảng khối. Tiếng hị của Tràng cũng thật sảng khoái, biểu lộ qua các thán từ
gọi đáp “này”, “nì” ở cuối câu nhằm kéo dài câu hị, nhấn mạnh đến sự việc trước
đó. Lời hị như lời mời gọi những người xung quanh cùng tham gia vào. Lạ lùng
hơn nữa, một người ế như Tràng, qua lời hị vui lại khiến một cơ ả “lon ton chạy lại
đẩy xe”, “liếc mắt, cười tít” với mình. Dường như bao nhiêu mệt mỏi và lo toan
hằng ngày của anh đều tan biến cả. Nói đến nhân vật thị đi lấy lịng một người ế như
Tràng cũng bởi vì cơ tin vào “khối cơm trắng mấy giị” trong lời hò thật, mà sâu xa
hơn là niềm tin giữa người với người.
Nhận xét bối cảnh diễn xướng
Có thể nói, nhân vật Tràng đã diễn xướng câu ca dao xưa ở một trường hợp
vô cùng lạ lùng và thú vị. Nhờ vào đó mà thấy được sức mạnh kết nối mãnh liệt của
văn học dân gian với đời sống. Văn học dân gian vừa là bầu dưỡng mát lành xua tan
đi những khốn khổ của đời người, tin vào tương lai tươi sáng. Bối cảnh này còn thể
hiện được quan điểm nhân đạo sâu sắc và mạch cảm thức dân gian trong sâu thẳm
tâm hồn của Kim Lân.
(3) Bối cảnh trong truyện ngắn Những bài học nông thôn (Nguyễn Huy Thiệp)
Giới thiệu bối cảnh diễn xướng
Chị Hiên đang giã gạo dưới nhà ngang, Hiếu được mẹ Lâm bảo xuống giúp
đỡ chị. Chị hồn nhiên, đứng sau vừa dạy Lâm cách giã gạo, vừa tán róc những
chuyện mà chị từng nghe, từng trải nghiệm ở nơng thơn. Đương lúc nói đến chuyện
“bỏ chồng” là tốt hay xấu, Hiếu bảo là không tốt. Chị Hiên cũng nói: “Phải rồi, Nứa
trơi sơng khơng giập cũng gãy. Gái chê chồng không chứng nọ cũng tật kia”. Ở

trong bối cảnh này, chị Hiên là người diễn xướng, cịn người tiếp nhận là Hiếu. Mục
đích diễn xướng của chị Hiên nhằm gia cố thêm vào suy nghĩ của Hiếu, thể hiện
như một đạo lí ở đời. Thế nhưng qua việc giải thích, chị Hiên vẫn muốn bổ sung
thêm vào đạo lí này. Đây cũng là ý đồ của tác giả khi xây dựng tình huống diễn
xướng rất tự nhiên như vậy. Đoạn trích được in nghiêng dưới đây thể hiện cụ thể
quá trình diễn xướng thú vị:

8


[…]Chị Hiên lại bảo: “Sao đàn bà cứ phải lấy chồng? Như tôi đây, chồng
đi xa, lấy chồng cũng như khơng. Hiếu bảo lấy chồng mà bỏ chồng thì có tốt
không?” Tôi bảo: “Không”. Chị Hiên bảo: “Phải rồi. Nứa trôi sông không giập
cũng gãy. Gái chê chồng không chứng nọ cũng tật kia”. Tôi hỏi: “Thế là thế nào hả
chị?” Chị Hiên bảo: “Thế là đàn bà không ra gì. Nhưng đàn ơng cũng nhiều người
khơng ra gì. Lấy chồng phải anh nghèo, bất tài mà lại cao thượng thì hãi lắm. Nó
làm tan nát đời người đàn bà như bỡn”. Tôi hỏi: “Sao chị nghĩ thế”. Chị Hiên bảo:
“Không phải tôi đâu. Đây là thầy giáo Triệu. Thầy giáo Triệu dạy bổ túc văn hóa
ban đêm, thầy giáo bảo đàn bà khơng cần lịng cao thượng. Đàn bà cần cảm thông
với vuốt ve, cần giúp đỡ bằng tiền mặt. Đấy là tình u. Lịng cao thượng chỉ dành
cho nhà chính trị. Chính trị mà khơng cao thượng thì hãi lắm, chính trị là chỗ người
ta nhìn vào để yên tâm sống”.
Phân tích bối cảnh diễn xướng
Tác phẩm dân gian được diễn xướng trong trường hợp này cụ thể như sau:
“Nứa trơi sơng khơng giập thì gãy
Gái chồng rẫy chẳng chứng nọ thì tật kia”
Nứa là lồi cây cùng họ với tre, mình mỏng, gióng dài, mọc từng bụi ở rừng,
thường dùng để đan phên và làm các đồ thủ công mĩ nghệ. Ống nứa ngày xưa cũng
thường được dùng làm vật đựng (cơm, gạo, muối...). Bởi vậy nên khi trôi sông, dù
nước chảy mạnh hay yếu cũng làm cho thanh nứa bị giập hoặc gãy. Bên cạnh nét

nghĩa tường minh này, cịn có nét nghĩa hàm ẩn, hình ảnh thanh nứa trơi sơng cũng
giống như hồn cảnh của cô gái đi lấy chồng, kiểu nào cũng khổ, bởi số phận mỏng
manh, thấp bé. Ở nét nghĩa tường minh, câu “Nứa trơi sơng khơng giập thì gãy” thể
hiện kinh nghiệm sống của con người với tự nhiên, sang đến nét nghĩa hàm ẩn, câu
nói lại mang ý châm biếm, mỉa mai tư tưởng “trọng nam khinh nữ” cổ hủ, có phần
thương xót cho số phận của những người phụ nữ xưa. “Gái chồng rẫy chẳng chứng
nọ thì tật kia” là cách nói chê trách những kiểu hạng phụ nữ hư hỏng, bởi vì “chứng
nọ”, “tật kia” mới bị chồng bỏ; hoặc có thể là lời khun dạy những cơ gái cịn chưa
lấy chồng nên tu tâm dưỡng tính, tránh sau này bị chồng bỏ; hoặc đó là lời than trách
phận của chính người phụ nữ về số phận rẻ rúng, khơng được tự quyết định lại cịn
bị điều tiếng, chê trách. Cặp câu đi liền với nhau sẽ có nhiều cách dùng, hoặc thiên
9


về kinh nghiệm của ông bà răn dạy con cháu trước khi lấy chồng, hoặc thiên về thể
hiện những bức xúc và cảm thương trước sự đối xử bất công với người phụ nữ trong
hơn nhân, gia đình.
Chị Hiên trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng tác phẩm dân
gian như một kiểu kinh nghiệm sống, cho nên trong trường hợp này, tác phẩm thuộc
thể loại tục ngữ. Cách chị Hiên diễn xướng có sự khác biệt ở một số từ ngữ theo
đúng mục đích của chị: “Nứa trôi sông không giập cũng gãy. Gái chê chồng không
chứng nọ cũng tật kia”. Ở sự thay đổi ấy, ta thấy “khơng giập cũng gãy” đã làm
tăng tính khẳng định cho sự hiển nhiên ở đời người. “Gái chồng rẫy” biến đổi thành
“Gái chê chồng”. Nếu dùng “Gái chồng rẫy” thì người phụ nữ ở thế bị động, cịn
dùng “Gái chê chồng” thì người phụ nữ lại ở thế chủ động, do đó rất phù hợp để
thể hiện hàm ý chê trách người phụ nữ hơn là xót thương cho người phụ nữ. Mặc
dù, Hiên mới hai mươi tuổi, lấy chồng mà cũng như khơng, nhưng lại cảm thấy mình
già, lỡ thì và sợ. Cho nên khi nói đến chuyện bỏ chồng, dù lịng chị có xao động thì
trong vơ thức vẫn chấp thuận với quy luật trớ trêu ấy. Trong lời giải thích về kinh
nghiệm dân gian này, chị Hiên vẫn có ý muốn bênh vực thêm cho số phận người

phụ nữ rằng: “Nhưng đàn ông cũng nhiều người khơng ra gì. Lấy chồng phải anh
nghèo, bất tài mà lại cao thượng thì hãi lắm. Nó làm tan nát đời người đàn bà như
bỡn”. Nét thay đổi trong suy nghĩ của Hiên một phần do tác động của nhân vật thầy
giáo Triệu. Như vậy, chị Hiên có ý muốn bổ sung thêm phần chê bai dành cho nhiều
người đàn ông cũng không ra gì, chứ không riêng gì người phụ nữ đòi bỏ chồng.
Câu trả lời dường như chưa làm Hiếu chấp thuận vì Hiếu vốn là người ở thành phố
và cũng là đàn ông. Chị Hiên nhằm chắc chắn lời giải thích của mình là đúng nên
đã truyền lại lời dạy của thầy giáo Triệu một cách tâm đắc: “thầy giáo bảo đàn bà
khơng cần lịng cao thượng”. Lúc này Hiếu cũng khơng cịn thắc mắc nữa, tuy nhiên
cũng chưa nhận thấy dấu hiệu của sự tán thành tuyệt đối. Dù vậy, ở bối cảnh này
vẫn toát ra sức hấp dẫn của tác phẩm dân gian. Qua các lượt lời hồn nhiên, cao hứng
của chị Hiên khi kể về những chuyện ở nông thôn, dường như Hiếu chỉ nghe nhưng
chưa có sự phản hồi, cho đến khi chị sử dụng câu nói dân gian. Như vậy, cách dùng
kinh nghiệm dân gian để trình bày suy nghĩ đã gây tò mò và thu hút người nghe
cùng tham gia.
10


Nhận xét bối cảnh diễn xướng
Trường hợp của bối cảnh diễn xướng trên đã cho ta thấy được hiệu quả giao
tiếp khi sử dụng tác phẩm dân gian thay thế cho một kinh nghiệm sống. Qua đó, ta
cũng thấy được sự tế nhị của chị Hiên đang cố gắng làm cho bầu khơng khí làm việc
vui vẻ, thoải mái hơn, bởi Hiếu vẫn là người khách còn mới lạ với nơng thơn. Cuộc
trị chuyện cũng xua tan đi nỗi lo về việc có hai người khác giới trong căn nhà tối
om mà chỉ thắp một ngọn đèn dầu bé tí. Cách chị Hiên dẫn vào câu tục ngữ vừa tự
nhiên, vừa hợp lí, đồng thời cũng thể hiện quan điểm của cá nhân đối với kinh
nghiệm dân gian, bổ sung và khai thác ý nghĩa của câu nói xưa. Chính nhờ vào sự
dẫn dắt của thầy giáo Triệu, chị Hiên dũng cảm hơn trước định kiến về giới. Ngoài
ra, ta cũng thấy được tài năng sắp xếp tình huống và sự lựa chọn khéo léo yếu tố
dân gian của Nguyễn Huy Thiệp. Cái tài của tác giả đã khai thác được phần nào kiểu

con người chưa trải đời, hồn nhiên của nhân vật Hiếu và người phụ nữ trẻ tuổi có số
phận ưu tư nhưng vẫn vui tươi, yêu đời của chị Hiên.
CHỦ ĐỀ 3.
Văn học dân gian được biết đến như một loại hình nghệ thuật ngơn từ truyền
miệng, gắn liền với quá trình diễn xướng dân gian. Theo Richard Bauman, hình thức
diễn xướng của văn học dân gian là “sự nổi trội trong nghệ thuật truyền miệng”. Bên
cạnh đó cịn “là nền tảng cho một nền folklore mới, thoát khỏi viễn cảnh phải đối mặt
với quá khứ và có khả năng hiểu thêm rất nhiều về kinh nghiệm của con người”. Đây là
một định hướng đúng đắn khi nghiên cứu về văn học dân gian theo bối cảnh. Khi được
tiếp cận chuyên đề “Nghiên cứu văn học dân gian trong bối cảnh” do PGS. Nguyễn Thị
Ngọc Điệp giảng dạy, bản thân tôi nhận ra đây là một môn học rất thú vị và bổ ích. Đó
cịn là phương hướng đầy tiềm năng để ta có thể nhận diện được bộ mặt toàn diện của
văn học dân gian.
Sự nhận diện các yếu tố diễn xướng có trong văn bản sẽ càng làm cho tác phẩm
văn học dân gian thêm phần hấp dẫn, sinh động hơn. Hoạt động diễn xướng còn là
phương thức để tác phẩm dân gian tiếp tục được biến đổi để phù hợp, luôn tồn tại, phát
triển cùng với văn học viết. Qua diễn xướng, tác phẩm dân gian được truyền bá một
cách rộng rãi, chân thật nhất. Mỗi văn bản chỉ là một diễn bản của một cá nhân, trong
một bối cảnh cụ thể, tại một thời điểm cụ thể. Văn học dân gian giữ đúng bản chất khi
11


nó chỉ diễn ra trong bản thân nhóm ít người. Vì vậy, cần lưu ý tình trạng những văn bản
bị chỉnh sửa quá nhiều sẽ làm mất đi tính dân gian, mà đã theo ý đồ của người sưu tầm.
Trên cơ sở kế thừa, cách tân sáng tạo kinh nghiệm dân gian sẽ là kết quả chung của tính
truyền thống. Các tác phẩm dân gian khơng vì thế mà ngưng đọng, trì trệ, mà vẫn có sự
tiếp nối những tinh hoa của dân tộc, nổi lên bề dày văn hóa đất nước, tạo ra nét độc đáo
cho văn học văn hóa dân gian. Có thể lấy ví dụ về thể loại dân ca đối đáp của người Việt
là dạng sinh hoạt tập thể, diễn ra trong những buổi sinh hoạt lao động, vui chơi, hội hè…
Trong cuộc hát diễn ra nhiều chặng hát, mỗi chặng đều có nét ý nghĩa riêng. Cụ thể, ở

chặng hát mở đầu, để thể hiện phép lịch sự, hiếu khách, bên mời hát có thể hát bài xin
trầu, mời trầu, đòi trầu, khất trầu… hay lời mời hút thuốc, chè, rượu… vô cùng đa dạng,
phong phú. Tùy theo tục lệ từng địa phương, tùy văn hóa vùng miền, tùy từng bối cảnh,
tuổi tác, vốn có của người tham gia hát mà cuộc hát có sự khác biệt. Như ở Nghệ Tĩnh,
trong hát phường vải, bên nữ mời mọc khi đã phục tài trí của bên nam sẽ hát bằng nhiều
cách: Mời chàng quân tử vào chơi…, Mời chàng nho sĩ vào trong mà ngồi…, Ai kia
ngồi ngõ mời vào…, Mời chàng nhẹ gót vào sân… Ngữ điệu của các cô gái phường vải
cũng rất khác, thể hiện sự ân cần, tha thiết, cách dùng từ vừa trang trọng, vừa tài hoa.
Muốn tiếp cận bối cảnh sử dụng của các tác phẩm dân gian, trước hết phải tìm
hiểu và phân tích cụ thể bối cảnh lớn (bối cảnh văn hóa) hoặc bối cảnh diễn xướng cụ
thể (bối cảnh tình huống) của tác phẩm. Đối với những bối cảnh diễn xướng cụ thể cần
lưu ý cần ghi- chép, mơ tả kĩ q trình kể một tác phẩm diễn ra như thế nào. Nội dung
của tác phẩm đó được thể hiện ra sao, bố cục có thay đổi khơng, trình tự diễn ra theo các
bước nào. Người kể đã dùng các “khố” gì để thu hút sự chú ý ở người nghe. Đối tượng
tham dự gồm những ai, có phản ứng và tác động gì khi tham qua q trình diễn xướng.
Khơng chỉ vậy, cịn phải xác nhận được quan điểm của người trong cuộc và người ngoài
cuộc diễn xướng. Việc sáng tạo ra các công cụ để ghi nhận quá trình diễn xướng phải
được thực hiện thành một nội dung cụ thể. Công việc này không phải là một thao tác
đơn giản, mà là công việc rất cơng phu, lâu dài u cầu cao về tính tỉ mỉ, cẩn thận.
Khi nắm được các bối cảnh, người nghiên cứu phải chỉ ra mối quan hệ giữa bối
cảnh và văn bản, kết cấu và sự tương tác giữa chúng một cách tồn diện. Những tác
động có tính phản ứng về mặt tâm lí của người diễn xướng và người nghe khi có người
khác tham gia vào q trình kể chuyện có tác động thế nào đến kết cấu của câu chuyện
12


họ đang kể. Yếu tố nào trong bối cảnh quyết định đến thành công của việc kể chuyện.
Những sự kiện nào là yếu tố rập khuôn cho bối cảnh. So sánh với kết cấu tác phẩm đã
được văn bản hoá: Với ba yếu tố trên, kết cấu của một câu chuyện được diễn xướng đã
thay đổi như thế nào so với câu chuyện đã được in trong văn bản và trở thành tư liệu. Lí

do nào khiến các yếu tố trong văn bản bị lược bỏ. Hướng xử lí với những trường hợp
tác phẩm đã khơng cịn hiện diện trong đời sống nhưng vẫn cịn trong tư liệu. Việc tìm
hiểu quan niệm cách hiểu của chính người dân về tác phẩm cũng là một nội dung quan
trọng mà người nghiên cứu cần thực hiện. Để thâm nhập vào môi trường diễn xướng
của một tiết mục folklore, người nghiên cứu phải nắm vững và kết hợp các phương pháp
ghi chép và điền dã của nhân học văn hoá. Người nghiên cứu phải tham dự và cùng trải
nghiệm vào những bối cảnh diễn ra hoạt động văn học dân gian mới có thể chuyển tải
hết những đặc điểm và giá trị của tác phẩm văn học dân gian trong bối cảnh thành văn
bản mang tính q trình.
Tóm lại, văn học dân gian là một q trình sống động, ln tồn tại và phát triển
trong mạch ngầm cuộc sống của con người. Hướng đi nghiên cứu văn học dân gian theo
bối cảnh đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu chú ý vận dụng trong các cơng trình
như: Nguyễn Xn Đức, Nguyễn Thị Ngọc Điệp, Nguyễn Văn Nở, Nguyễn Hữu Nghĩa,
Huỳnh Vũ Lam… Đây không chỉ là trào lưu của bối cảnh, mà còn là việc “thiết lập sự
cân bằng trong truyền thống nghiên cứu folklore vốn đặt nặng vấn đề văn bản”. Như
vậy, qua chuyên đề người học phần nào nắm được mối quan hệ mật thiết giữa văn bản
và bối cảnh. Từ đó có cái nhìn mở rộng, sâu sắc hơn về các giá trị của tác phẩm dân
gian, có thể xác định những yếu tố luôn biến động của dân gian. Dựa vào phương pháp,
người học còn chủ động nắm bắt tinh thần của tác phẩm dân gian một cách hào hứng và
thực tế hơn./.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị An (2008), Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif – những
khả thủ và bất cập, tạp chí Văn học, số 7.
2. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian - Mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên
cứu thể loại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2015), Các dạng thức đối thoại trong hát đối đáp nam nữ

người Việt, NXB Văn học, Hà Nội.
4. Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Hiền (1999), Quan niệm mới về folklore và quá trình văn bản hóa folklore
ở Hoa Kỳ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4.
6. Đinh Gia Khánh (1999), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện
Tấm Cám, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
7. Huỳnh Vũ Lam (2014), “Văn học dân gian như một quá trình” – Một hướng tiếp cận
hứa hẹn nhiều thay đổi trong nghiên cứu truyện kể dân gian Việt Nam, Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ, số 33.
8. Lê Thị Hồng Minh (2019), Vài nét về tục ngữ mới, Những vấn đề giảng dạy tiếng
Việt và nghiên cứu Việt Nam trong thế giới ngày nay, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ
Chí Minh, tr 780 – 792.
9. Bùi Mạnh Nhị, Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Văn học dân gian –
Những cơng trình nghiên cứu, NXB Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh.
10. Nhiều tác giả (1990), Văn hóa dân gian – Những phương pháp nghiên cứu, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan (chủ biên) (2005), Folklore thế giới – một số cơng
trình nghiên cứu cơ bản, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Hữu Nghĩa (2016), Ngơn ngữ học, nhân học văn hóa và tâm lí học hành vi
– một phối hợp liên ngành theo đường hướng nghiên cứu văn học dân gian trong bối
cảnh, tạp chí Khoa học Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh, số 8.
13. Nguyễn Hữu Nghĩa (2018), Truyện cổ dân gian có yếu tố phật giáo của Việt nam và
Myanmar nghiên cứu theo hướng tiếp cận bối cảnh, Luận án tiến sĩ, trường Đại học
sư phạm TP Hồ Chí Minh.
14


14. Vũ Ngọc Phan (2005), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
15. Lê Thị Thanh Vy (2012), Hướng tiếp cận “Bối cảnh” trong Folklore học - một

hướng tiếp cận liên ngành, Tạp chí Đại học Sài Gịn, số chun đề Bình luận văn học.
16. Nguyễn Văn Nở (2005), Vấn đề nghĩa của tục ngữ, />
17.



Thị

Thanh

Vy

(2015),

Nghĩa

của

tục

ngữ

trong

bối

cảnh,

/>
15




×