Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

(LUẬN văn THẠC sĩ) tìm hiểu tính đa thần trong tín ngưỡng dân gian nhật bản so sánh với việt nam luận văn ths châu á học 60 31 50

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========================

LƢU THỊ THU THỦY

TÌM HIỂU TÍNH ĐA THẦN TRONG
TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN NHẬT BẢN
SO SÁNH VỚI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Ngành: Châu Á học

Hà Nội, 2013

TIEU LUAN MOI download :


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========================

LƢU THỊ THU THỦY

TÌM HIỂU TÍNH ĐA THẦN TRONG
TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN NHẬT BẢN
SO SÁNH VỚI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Ngành: Châu Á học
Mã số: 60 31 50



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS. TS. PHẠM HỒNG THÁI

Hà Nội, 2013

TIEU LUAN MOI download :


LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Lưu Thị Thu Thủy, học viên cao học lớp QH K 2010 – 2013,
Khoa Đông Phương học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu cá nhân
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Phạm Hồng Thái, Tổng biên tập
Tạp chí Nghiên cứu Đơng Bắc Á, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, Viện Hàn
lâm Việt Nam. Luận văn là sự trung thực, không sao chép ở bất cứ cơng trình
nào khác, do đó, tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm trước cam kết cá nhân.
Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Học viên cao học

Lưu Thị Thu Thủy

TIEU LUAN MOI download :


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình hồn thành luận văn này, người viết đã nhận được sự
giúp đỡ của nhiều thầy cô giáo thuộc các Trường đại học, Viện nghiên cứu
trong và ngồi nước. Tơi đặc biệt muốn gửi lời cảm ơn tới PGS. TS Phạm

Hồng Thái, Tổng biên tập tạp chí Nghiên cứu Đơng Bắc Á, Viện nghiên cứu
Đơng Bắc Á, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam; GS. TS Inoue Nobutaka,
Viện trưởng Viện nghiên cứu văn hóa phát triển, Viện trưởng Hiệp hội nghiên
cứu tôn giáo Nhật Bản, Giảng viên ngành xã hội học tôn giáo, trường đại học
Kokugakuin, Nhật Bản. GS.TS Norman Haven giảng viên mơn Tín ngưỡng
dân gian, trực thuộc khoa Văn học, Trường đại học Kokugakuin, Tokyo, Nhật
Bản. Thạc sỹ Yokohama Noboru, giảng viên trường đại học Kokugakuin đã
giúp tơi rất nhiều trong q trình đi tìm hiểu thực tế tại Nhật Bản. Tiến sỹ
Phan Hải Linh, Trưởng bộ môn Nhật Bản học, Khoa Đông Phương Học, Đại
học khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội người đã cho tôi
nhiều nhận xét hữu ích trong q trình hồn thiện luận văn. Cuối cùng, tôi xin
gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa Đông Phương học,
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Thư
viện Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Việt Nam là những thầy
cô, đồng nghiệp và nơi đã giúp tơi trong q trình sưu tầm tài liệu, hoàn thành
bản luận văn này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2013

Lưu Thị Thu Thủy

1

TIEU LUAN MOI download :


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 0
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 4
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN

VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN NHẬT BẢN .....................................................10
1.1. Một số vấn đề lý luận về tín ngƣỡng dân gian ..................... 10
1.1.1.

Tín ngưỡng, tín ngưỡng dân gian và tơn giáo ...................... 10

1.1.2.

Tính đa thần trong tín ngưỡng dân gian .............................. 14

1.2. Tín ngƣỡng dân gian Nhật Bản ............................................ 15
1.2.1.

Khái niệm tín ngưỡng dân gian Nhật Bản ........................... 15

1.2.2. Các loại hình tín ngưỡng dân gian Nhật Bản ......................... 19
1.2.3.

Một vài đặc trưng đa thần giáo trong tín ngưỡng dân gian

Nhật Bản. ........................................................................................ 33
CHƢƠNG 2: TÍNH ĐA THẦN TRONG TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN Ở
NHẬT BẢN .................................................................................................................40
2.1. Tín ngƣỡng thờ cúng tự nhiên ............................................. 46
2.2. Tín ngƣỡng thờ cúng động thực vật của ngƣời Nhật Bản .... 50
2.3. Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên của ngƣời Nhật Bản. .............. 55
2.4. Tín ngƣỡng phồn thực .......................................................... 62
2.5. Sự hợp nhất giữa tơn giáo-tín ngƣỡng ngoại sinh vào trong
tín ngƣỡng bản địa ở Nhật Bản .................................................. 65
2.6. Một vài nét về tính đa thần trong đời sống xã hội Nhật Bản

hiện nay. ...................................................................................... 69
CHƢƠNG 3: TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG TÍNH ĐA THẦN
GIÁO CỦA TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN NHẬT BẢN VIỆT NAM ..............76

2

TIEU LUAN MOI download :


3.1. Sự tƣơng đồng và khác biệt trong hoàn cảnh sống và môi trƣờng
tự nhiên. ............................................................................................... 76
3.2. Sự tƣơng đồng của tính đa thần trong tín ngƣỡng dân gian
hai nƣớc. ..................................................................................... 80
3.3. Sự khác biệt của tính đa thần trong tín ngƣỡng dân gian hai
nƣớc............................................................................................. 85
3.4. Vấn đề bảo tồn văn hóa tín ngƣỡng của Nhật Bản và bài học
kinh nghiệm Việt Nam. ............................................................... 91
KẾT LUẬN .................................................................................................................98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................101

3

TIEU LUAN MOI download :


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đa thần giáo hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là thờ nhiều thần, khái niệm
này dùng để chỉ phân biệt với nhất thần giáo. Tuy nhiên đây cũng là hình thức
tín ngưỡng khác như tô tem giáo, bái vật giáo, vật linh giáo, sa man giáo…,

tín ngưỡng vào các thần linh, ma quỷ riêng lẻ, chưa thành hệ thống trong đó
có vị thần chủ thể tối cao. Tín ngưỡng đa thần giáo có thể thấy trong tơn giáo,
tín ngưỡng dân gian của Nhật Bản (Shinto), Hàn Quốc (Saman giáo), hay
Hindu giáo của Ấn Độ. Tín ngưỡng đa thần giáo là việc thờ cúng nhiều vị
thần và đa thần giáo trong tín ngưỡng dân gian Nhật Bản được thể hiện một
phần trong hệ thống Yaoyorozu no kami (八百万の神/ Bát Bách Vạn Thần)
của Shinto, trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực, lễ hội
nơng nghiệp, tín ngưỡng thờ cúng thiên nhiên, tục thờ cúng người có cơng với
nước, tín ngưỡng thờ cúng động thực vật, tín ngưỡng thờ cúng linh hồn…v.v.
Ngồi ra, khi tơn giáo ngoại sinh vào Nhật Bản nó hịa nhập, pha trộn
với tín ngưỡng bản địa tạo nên sự đa dạng, phong phú trong hệ thống chủ thể
thờ cúng. Q trình hỗn dung cũng góp phần hình thành nên tính đa dạng
trong hệ thống thờ đa thần trong tín ngưỡng dân gian Nhật Bản. Đây là một
điểm khác biệt trong hệ thống tín ngưỡng Nhật Bản. Sự đa dạng này có nhiều
nét tương đồng với tính đa thần trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Hiện
nay, những nghiên cứu về chủ đề trên chưa nhiều và thiếu tính hệ thống, do
đó tơi đã chọn đề tài “Tìm hiểu tính đa thần trong tín ngưỡng dân gian Nhật
Bản - so sánh với Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sỹ. Trong luận văn, tơi
muốn làm rõ được những tính chất, đặc trưng cụ thể của tính đa thần trong tín
ngưỡng dân gian Nhật Bản, điểm tương đồng, khác biệt giữa tính đa thần
trong tín ngưỡng dân gian hai nước.


Yaoyorozu no kami 八百万の神: やおよろずのかみ được dịch là vô số vị thần.



Đa thần giáo Nhật Bản ở đây là cách viết tắt của tính đa thần giáo trong tín ngưỡng dân gian Nhật Bản.

4


TIEU LUAN MOI download :


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tính đa thần là một trong những đặc trưng nổi bật nhất của tín ngưỡng
dân gian Nhật Bản. Nghiên cứu về mảng đề tài này khá phong phú, ở phạm vi
tiếng Việt có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu: Phạm Hồng Thái (2008),
Tư tưởng Thần Đạo và xã hội Nhật Bản cận hiện đại, H. NXB Khoa học xã
hội; Phạm Hồng Thái (2003). Tín ngưỡng truyền thống của người Nhật,
nguồn gốc và một số quan niệm cơ bản. Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á
số 1 (43); Phạm Hồng Thái (2003). Tín ngưỡng truyền thống của Nhật Bản
qua một vài nghi lễ phổ biến. Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 5 (47);
Lưu Thị Thu Thủy (2012), Tính đa thần giáo trong tín ngưỡng dân gian Nhật
Bản, Tạp chí thơng tin Khoa học xã hội số 6; Nguyễn Kim Lai (2005), Thần
đạo Nhật Bản và tín ngưỡng dân gian Việt Nam những nét tương đồng và
khác biệt, Tạp chí Triết học số 8 năm 2005; Trịnh Cao Tưởng (2005), Shinto
Nhật Bản và thành hoàng làng Việt Nam một nghiên cứu so sánh, NXB Văn
hóa thơng tin…v.v. Ngồi ra là một số cơng trình nghiên cứu của các học giả
Nhật Bản:
Kubota Hiroshi với Nihon tashinkyō no fudo (Phong thổ trong đa thần
giáo Nhật Bản) là công trình nghiên cứu chuyên sâu tìm hiểu về thế giới tâm
linh, đặc trưng của tính đa thần trong tín ngưỡng dân gian địa phương Nhật
Bản. Cơng trình gồm 6 chương, trong chương một, Kubota Hiroshi lần lượt
giới thiệu với độc giả về nguồn gốc các vị thần được sinh ra từ phong thổ
Nhật Bản. Chương hai giới thiệu về tín ngưỡng thờ cúng linh hồn (霊魂信仰
/reikon shinkō), sự hợp nhất trong Thần Phật hợp nhất (神仏習合/shinfutsu
shūgō). Trong chương ba tác giả trình bày khá kĩ bức tranh tồn thể tín
ngưỡng thờ cúng thần rừng, thần biển, quan niệm linh hồn của người Nhật cổ.
Trong chương bốn cụ thể hóa các vấn đề trong tín ngưỡng thờ cúng tự nhiên,

tha giới (thế giới khác). Chương năm giúp người đọc hiểu rõ hơn về q trình
hỗn dung của tơn giáo ngoại sinh vào tín ngưỡng bản địa như thế nào?. Vai
5

TIEU LUAN MOI download :


trị và ý nghĩa của tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh thần của người
Nhật có những thay đổi gì so với trước đây. Chương 6, tổng kết các quan
niệm sinh tử của người Nhật từ cổ đại đến hiện đại [36].
Higiwara Hidesaboru với Nihon bunka to shinkō/kami no hassei (Văn
hóa Nhật Bản và những phát sinh trong thần thánh, tín ngưỡng) là một cơng
trình khá dầy dặn gồm 254 trang sách. Qua nghiên cứu của mình, Higiwara
Hidesaboru đã giúp người đọc tìm được câu trả lời: Thần thánh được sinh ra
từ đâu, có thực sự tồn tại hay không? Tác giả qua điều tra thực tế tại một số lễ
hội ở Nhật Bản, qua nghiên cứu một số tín ngưỡng dân gian tiêu biểu, tìm ra
được bản chất, đặc trưng tín ngưỡng đa thần và mức độ đa dạng trong tín
ngưỡng thờ cúng của người Nhật Bản [37; tr 254 ].
Cơng trình Nihonjin no minkan shinkō to shisō của Sawayama Shintaro
(Tư tưởng và tín ngưỡng dân gian của người Nhật Bản) là một nghiên cứu tự
do tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Nhật Bản. Tín ngưỡng trên
được tiếp cận dưới một góc độ, cách nhìn mới, khá xa lại so các học giả
truyền thống. Nghiên cứu của Sawayama Shintaro đã chứng minh được tục
thờ cúng tổ tiên của người Nhật Bản bắt đầu từ thời kỳ Jomōn và dựa trên tín
ngưỡng nguyên thủy là tục thờ cúng quỷ thần. Vì vậy, cùng với những tập tục,
tín ngưỡng khác, thờ cúng tổ tiên đã góp phần hình thành sự đa dạng trong
chủ thể thờ cúng ở Nhật Bản [54]. Bên cạnh cách tiếp cận thuần Nhật Bản,
học giả Hosaka Yukihiro với góc nhìn mới của triết học Phương Tây đã làm
rõ ảnh hưởng của văn minh Phương Tây trong giao thoa văn hóa, tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên của người Nhật. Cơng trình là nghiên cứu bài bản, chuyên

sâu và hữu ích cho nghiên cứu thế hệ sau. Đó là cuốn Nihon no shizen suihai
seiyō no Animizumu shūkyō to bunmei・hitsujyōna shūkyō rikai heno sasoi
(Sùng bái tự nhiên của Nhật Bản lời kêu gọi hướng tới tìm hiểu tơn giáo, văn
minh phi Phương tây và thuyết vật linh của Phương Tây) [64; tr 362].

6

TIEU LUAN MOI download :


Cuối cùng phải kể đến một số cơng trình mang tính thực tiễn, lý luận
cao như nghiên cứu của hai nhà dân tộc học Nhật Bản là Sakura Tokutaro và
Ichiro Hori với: Nihon minkan shinkōron [51] (Lý thuyết về tín ngưỡng dân
gian Nhật Bản) và Japanese folk beliefs [28; tr 405 - 425] (Tín ngưỡng dân
gian Nhật Bản) lần lượt công bố vào năm 1958, 1959; đây là những nghiên
cứu kế thừa từ các quan điểm trước đó. Ba cơng trình này là: Minkan shinkō
[39], Waga kuni minkan shinkō-shi no kenkyū [40], Waga/kuni minkan
shinkō-shi no kenkyū [41] (Tín ngưỡng dân gian Nhật Bản, Nghiên cứu về
lịch sử tín ngưỡng dân gian Nhật Bản, Nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian
của nước ta). Những cơng trình trên đã tập hợp được một số trường phái,
quan điểm tiêu biểu trong nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian, tính đa thần
trong tín ngưỡng dân gian Nhật Bản, hệ thống lễ hội, hệ thống các vị thần
được thờ ở Nhật. Tuy nhiên, điều đáng bàn là các cơng trình này chủ yếu tập
trung nghiên cứu khung lý thuyết, quan điểm kinh điển hơn là nghiên cứu sự
kiện.
Tìm hiểu về tơn giáo, tín ngưỡng, văn hóa của một dân tộc cũng là giúp
chúng ta có thể hiểu rõ hơn về dân tộc đó. Việt Nam và Nhật Bản vốn là hai
nước đồng văn, cùng chịu ảnh hưởng chung từ văn hóa Trung Hoa nên trong
tín ngưỡng, phong tục, tập quán sẽ không hiếm những nét tương đồng, Vì vậy,
việc thực hiện đề tài luận văn Thạc sỹ “Tìm hiểu tính đa thần giáo trong tín

ngưỡng dân gian Nhật Bản – So sánh với Việt Nam" chắc chắn sẽ có ý nghĩa lí
luận, thực tiễn bổ ích. Luận văn là tài liệu cung cấp thêm thông tin về tín
ngưỡng dân gian Nhật Bản, tính đa thần của tín ngưỡng dân gian, điểm tương
đồng và khác biệt trong đa thần giáo hai nước... cho những ai quan tâm, cần
tìm hiểu. Cuối cùng, người viết cũng mong cơng trình trên có thể trở thành
một tài liệu tham khảo hữu ích, góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu
cho ngành nghiên cứu Nhật Bản ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
7

TIEU LUAN MOI download :


Mục đích của luận văn:
Làm rõ tính đa thần giáo trong tín ngưỡng dân gian Nhật Bản là gì?, tín
ngưỡng đa thần giáo đóng vai trị như thế nào đối với đời sống tinh thần của
người Nhật?. Quá trình hội nhập, bản địa hóa các phong tục, tập qn, tín
ngưỡng, tôn giáo ngoại sinh ở Nhật diễn ra như thế nào trong tín ngưỡng đa
thần giáo của Nhật Bản?. Tính đa thần giáo trong tín ngưỡng dân gian Nhật
Bản khác với tính đa thần trong tín ngưỡng dân gian của Việt Nam ở điểm gì?.
Giữa tính đa thần giáo trong tín ngưỡng dân gian hai nước có những điểm
chung nào? Trong khuân khổ luận văn, tôi muốn làm rõ những nghi vấn đã
được nêu ra, đồng thời dựa vào đó xây dựng một cách nhìn khái quát nhất về
lĩnh vực vốn đang còn nhiều tranh luận.
Nhiệm vụ đặt ra cho nghiên cứu đề tài:
1. Tìm hiểu về tình hình nghiên cứu tín ngưỡng dân gian Nhật Bản nói
chung và tính đa thần trong tín ngưỡng dân gian Nhật Bản nói riêng?.
2. Nêu rõ các đặc trưng cơ bản nhất của tính đa thần trong tín ngưỡng
dân gian Nhật Bản. Ngồi ra, luận văn cũng chỉ ra được điểm tương đồng và
khác biệt trong nghiên cứu so sánh với Việt Nam. Những đặc trưng này so với

nghiên cứu trước đây có gì mới hay khơng?.
3. Từ trường hợp Nhật Bản, đề xuất được một số bài học kinh nghiệm
đối với việc nâng cao ý thức của con người trong việc bảo tồn tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tính đa thần trong tín ngưỡng
dân gian Nhật Bản, so sánh với Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tìm hiểu tính đa thần trong tín ngưỡng
dân gian Nhật Bản, so sánh với Việt Nam, tìm ra được điểm tương đồng, khác
biệt trong tính đa thần giáo hai nước.
8

TIEU LUAN MOI download :


6. Cơ sở lí luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận, quan điểm lý luận về tôn giáo của Chủ
nghĩa Mác Lênin, các lý thuyết nghiên cứu văn hóa dân gian của Sakura
Tokutaro, Ichiro Hori, Yanigata Kunio, quan điểm về đa thần giáo của Kubota
Hiroshi ...v.v, tác giả giải quyết các vấn đề cơ bản của đề tài, đồng thời sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích, so sánh, tổng
hợp... Ngồi ra, tác giả cịn kết hợp lý luận với thực tiễn, kết hợp việc tự
nghiên cứu và tham khảo các đề tài nghiên cứu của các tác giả khác đăng trên
các tạp chí khoa học hoặc các trung tâm nghiên cứu, các giáo trình giảng dạy
về Nhật Bản và tôn giáo ở các trường đại học.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
Trên cơ sở bài học từ tính cấp thiết và kinh nghiệm bảo tồn văn hóa tín
ngưỡng từ phía Nhật Bản, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, xây dựng
một luận cứ khoa học cho Việt Nam trong vấn đề bảo tồn văn hóa dân tộc

trong bối cảnh hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần: Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương với các tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tín ngưỡng dân gian và tín ngưỡng
dân gian Nhật Bản
Chương 2: Tính đa thần trong tín ngưỡng dân gian Nhật Bản
Chương 3: Tương đồng và khác biệt trong thờ cúng đa thần của tín
ngưỡng dân gian ở Nhật Bản và Việt Nam
Mục lục.
Danh mục tài liệu tham khảo của luận văn.

9

TIEU LUAN MOI download :


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƢỠNG DÂN
GIAN VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN NHẬT BẢN

1.1. Một số vấn đề lý luận về tín ngƣỡng dân gian
1.1.1. Tín ngưỡng, tín ngưỡng dân gian và tơn giáo
Hiện có hàng trăm cách hiểu khác nhau về tơn giáo, tín ngưỡng, trong
đó định nghĩa của Karl Marx, Friedrich Engels, S. ATokarev, Malinowski,
George James Frazer…, là những định nghĩa phổ biến, được sử dụng nhiều
nhất.
Tôn giáo: Theo Friedrich Engels, tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự
phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người, của những lực lượng bên ngoài
chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực

lượng ở trần thế đã mang những thế lực của siêu nhiên và trong những thời kỳ
đầu của lịch sử, chính những thế lực thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa hết
sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp [3; tr 447].
Tín ngưỡng: từ điển tiếng Việt viết “lịng tin và sự tơn thờ một tơn
giáo” [22; tr 1646], nghĩa là tín ngưỡng chỉ tồn tại trong một tơn giáo. Theo
giải thích của Đào Duy Anh, tín ngưỡng được hiểu là: “lịng ngưỡng mộ, mê
tín đối với một tơn giáo hoặc một chủ nghĩa” [2; tr 284]. Quan điểm của Ngô
Đức Thịnh rõ ràng hơn: “Tín ngưỡng được hiểu là niềm tin của con người vào
cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin, ngưỡng
vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái “trần tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ mó,
quan sát được. Hiện có nhiều loại niềm tin, nhưng ở đây niềm tin của tín
ngưỡng là niềm tin vào “cái thiêng”, do vậy niềm tin vào cái thiêng thuộc về
10

TIEU LUAN MOI download :


bản chất của con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của
con người, cũng như giống đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư
tưởng, đời sống tình cảm...” [15; tr 16].
Khác với học giả Việt Nam, các học giả thế giới lại có cách nhìn về tín
ngưỡng như sau: Trong cơng trình Văn hóa ngun thủy, Tylor E. B cho rằng:
“Cần đặc biệt chú ý là những tín ngưỡng và tập quán khác nhau đều có những
nền tảng vững chắc trong thuyết vật linh nguyên thủy, như thể chúng đã thực
sự mọc lên từ đó. Trong thuyết vật linh phức tạp, chúng trở thành sản phẩm
của sự ngu dốt hơn là của nhà triết học và tồn tại như những tàn tích của cái
cũ hơn là những sản phẩm của thời sau, khi chuyển từ sức sống đầy đủ sang
trạng thái tàn tích” [19; tr 939]. Malinowski trong tác phẩm, “Ma thuật khoa
học và tôn giáo” đã định nghĩa như sau: tín ngưỡng ra đời khi mà cuộc sống
của con người có nhiều sự trở ngại và bất trắc” [5; tr 159]. S. A. Tokarev, nhà

nghiên cứu tôn giáo nổi tiếng của Nga cho biết: “Mặc dù bác bỏ luận thuyết
về sự phát triển nội tại của tôn giáo, chúng tôi vẫn không bao giờ phủ định sự
tồn tại của những mối liên hệ nguồn gốc giữa các tín ngưỡng. Chúng ta đã
thấy rõ những tín ngưỡng đó có tính bảo thủ đến mức nào, bất kỳ một tín
ngưỡng nào đã bắt rễ vững chắc cũng đều tồn tại trong nhân dân rất lâu bền,
thậm chí tồn tại ngay cả lúc những điều kiện sản sinh ra nó đã thay đổi” [10;
tr 55]. Như vậy, theo quan điểm của học giả này tín ngưỡng chính là hình
thức tơn giáo sơ khai: tô tem giáo, bùa ngải và lễ ám hại, chữa bệnh bằng phù
phép, lễ dục tình, ma chay, lễ thành niên, sự thờ cúng của nghề săn bắt, sự thờ
cúng của thị tộc mẫu hệ, sự thờ cúng tổ tiên, Shaman giáo, Naguan giáo, sùng
bái hội kín, thờ cúng thủ lĩnh, thờ thần trong bộ lạc, thờ thần nông
nghiệp…v.v, là nguồn gốc khai sinh ra tôn giáo ngày nay.
Về sự khác biệt giữa tơn giáo và tín ngưỡng có thể sơ đồ hóa như sau:

11

TIEU LUAN MOI download :


Tín ngƣỡng

Tơn giáo

+ Chưa có hệ thống giáo lý, hệ thống + Hệ thống giáo lý, kinh điển thể hiện
thờ cúng chưa được hệ thống hóa mà quan niệm vũ trụ và nhân sinh, truyền
chỉ mới có các huyền thoại, thần tích, thụ qua học tập ở các tu viện, thánh
truyền thuyết.

đường.


Cịn có sự hồ nhập nhất định giữa thế+ Tách biệt thế giới thần linh và con
giới thần linh và con người. Chưa

người, xuất hiện hình thức “cứu thế”.

mang tính cứu thế
+ Chưa thành hệ thống thần điện cịn + Thần điện đã thành hệ thống dưới
mang tính chất đa thần

dạng đa thần hay nhất thần giáo

+ Nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân

+ Nơi thờ cúng riêng, nghi lễ thờ cúng

tán và chưa thành quy ước chặt chẽ

chặt chẽ (chùa, nhà thờ, thánh đường)

+ Gắn với cá nhân và cộng đồng làng + Tổ chức giáo hội, hội đồn khá chặt
xã, chưa thành giáo hội

chẽ, hình thành hệ thống giáo chức

+ Mang tính chất dân gian, sinh hoạt + Khơng mang tính dân gian, có chăng
của dân gian, gắn với đời sống nông chỉ là sự biến dạng theo kiểu dân gian
dân

hố, như Phật giáo dân gian...
Tín ngưỡng dân gian: Theo quan điểm của Patric B. Mullen, tín


ngưỡng dân gian là một thể loại lớn bao gồm sự biểu cảm và cách ứng xử mà
ta gọi là mê tín, tín ngưỡng bình dân, làm phép, các hiện tượng siêu tự nhiên,
các câu của các bà nội trợ già, y học dân gian, tôn giáo dân gian, các biểu hiện
12

TIEU LUAN MOI download :


của thời tiết, cây cỏ, các lời khấn tụng, người hay loài vạt mang vật rủi, đồ
làm từ rễ cây những điều tốt xấu các chuyện yêu ma và những điều cấm kỵ
[14; tr 273]. Nhưng theo quan điểm cá nhân, tín ngưỡng dân gian là niềm tin,
sự ngưỡng mộ đối với một đối tượng siêu nhiên nào đó có ảnh hưởng, chi
phối đến đời sống sinh hoạt của con người, cách hiểu này sẽ được lựa chọn
làm tiêu chí chính trong khi viết luận văn.
Các loại hình tín ngưỡng dân gian
X.A. Tocarep, nhà dân tộc học, tôn giáo học nổi tiếng của Nga, trong
cơng trình“Các hình thức tơn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng” [10].
đã chia ra các loại hình tơn giáo như sau:
(1). Thờ cúng tổ tiên (gia tộc, dịng họ, quốc gia), tơ tem giáo hay cịn
gọi là tín ngưỡng thờ cúng linh hồn.
(2). Tín ngưỡng vịng đời người (Nghi lễ sinh đẻ: thờ bà Mụ; Nghi lễ
cưới xin: thờ ông Tơ, bà Nguyệt; Thờ thần bản mệnh; Tang ma và thờ cúng
người chết…)
(3). Tín ngưỡng nghề nghiệp (Tín ngưỡng nơng nghiệp: Nghi lễ phồn
thực, Tứ pháp, thần Nơng...; Thờ Thánh sư cịn gọi là Tổ nghề thủ cơng; Thờ
Thần tài ; Các tín ngưỡng của ngư dân, nơng dân…)
(4). Tín ngưỡng thờ Thần (đạo thờ Thần) (Thành hồng làng, thổ thần,
thổ cơng, thổ địa ... được gọi là tự nhiên thần; Thờ các anh hùng dân tộc, thờ
người có cơng với nước, thờ người chết trẻ… gọi là nhân thần).

Các nhà dân tộc học và nghiên cứu tín ngưỡng dân gian Nhật Bản lại
có cách hiểu khác trong phân loại hình thức tín ngưỡng. Cách phân loại theo
kiểu này sẽ được giới thiệu một cách cụ thể trong phần: các loại hình tín
ngưỡng dân gian Nhật Bản. Mặc dù sự phân chia trên chỉ là tương đối và
không phải tất cả các nhà nghiên cứu văn hóa, tơn giáo, tín ngưỡng hay dân
tộc học đều đồng thuận. Trong nghiên cứu này, tôi lựa chọn cách phân chia

13

TIEU LUAN MOI download :


của X.A. Tocarep làm tiêu chí cho luận văn do nó phản ánh được một cách
tương đối đầy đủ các loại hình tín ngưỡng thường gặp.
1.1.2. Tính đa thần trong tín ngưỡng dân gian
Cũng như định nghĩa về tơn giáo - tín ngưỡng, khái niệm tính đa thần
giáo cũng có nhiều cách hiểu khác nhau, trong đó đa thần giáo được hiểu là
một tôn giáo thờ nhiều thần phân biệt với nhất thần giáo, loại hình chỉ thờ một
thần duy nhất. Những hình thức tín ngưỡng khác nhau như tơ tem giáo, bái
vật giáo, vật linh giáo, sa man giáo đều được hiểu là tín ngưỡng đa thần, nó
khác với các tín ngưỡng khác. Đó là tín ngưỡng thờ các vị thần linh, ma
quỷ riêng lẻ…v.v. Tuy nhiên, tất cả các loại hình tín ngưỡng này đều chưa
trở thành một tơn giáo vì nó chưa có hệ thống, khơng có giáo chủ hay vị
thần tối cao.
Lý thuyết tôn giáo đa thần đưa ra với mục đích nhằm chống lại những
tơn giáo có tính độc thần như Do Thái giáo, Kito giáo, Hồi giáo và chủ trương
của đa thần giáo là nhằm đối kháng lại nhất thần giáo. Tại Nhật Bản, Phật
giáo đã ăn sâu bén rẽ vào nước này từ hàng ngìn năm, bén rễ vào trong Shinto
giáo, tơn giáo - tín ngưỡng nguyên thủy của người Nhật tạo nên hỗn dung tôn
giáo. Hỗn dung tôn giáo theo kiểu Thần Phật hợp nhất là một đặc trưng hiếm

có, biểu hiện tính đa thần giáo của Nhật Bản. Nhiều cơng trình nghiên cứu
của Takeshi Yoro, Takeshi Umehara, Masahiro Fujiwara, Hayao Miyazaki,
Kishida Shigeru và Izawa Motohiro, Kubota Hiroshi, Ichiro Hori… là những
công trình nghiên cứu tiêu biểu về lĩnh vực này.
Kubota Hiroshi, học giả nổi tiếng về tơn giáo, tín ngưỡng dân gian
người Nhật đã định nghĩa tín ngưỡng đa thần như sau: Tín ngưỡng đa thần
phát sinh từ sự kính sợ các hiện tượng thiên nhiên hay từ cảm tính về cái
thiêng của một vật thể nào đó. Tín ngưỡng đa thần cũng bắt nguồn từ những



Các tác giả trên sẽ được lần lượt đưa ra trong các chú thích khác

14

TIEU LUAN MOI download :


thần thoại mơ tả rất nhiều nhân vật có hình tướng lạ thường, tính cách phi
thường, có sức mạnh siêu phàm. Những thần này đặc trách cai quản và phù
trợ cho một lãnh vực đời sống thế gian. Tín ngưỡng đa thần cịn đi đến sự
thần hóa các vị anh hùng trong dã sử hay lịch sử của một dân tộc, hình thành
nên một chủ thể đa dạng các vị thần trong việc thờ cúng. Thuật ngữ
Yaoyorozu no kami (vô số các vị thần) trong Shinto là một trong những đặc
trưng đa thần của tơn giáo, tín ngưỡng Nhật Bản [36; tr 21].
Như vậy, qua một vài quan điểm kể trên chúng ta đã có được cái nhìn
cơ bản về tín ngưỡng, tơn giáo, tín ngưỡng dân gian và khái niệm tính đa thần
giáo. Tuy nhiên trong luận văn này, khung lý thuyết vẫn dựa trên những
nghiên cứu cơ bản của các nhà nghiên cứu Nhật Bản.
1.2. Tín ngƣỡng dân gian Nhật Bản

1.2.1. Khái niệm tín ngưỡng dân gian Nhật Bản
Việc phân biệt giữa khái niệm tín ngưỡng dân gian và tôn giáo dân gian
hiện nay rất rộng và mơ hồ. Sự phân biệt rạch rịi, hay tìm một từ ngữ có thể
liên kết giữa hai thuật ngữ này thực sự rất khó, một nhà khoa học hàng đầu
trong lĩnh vực này đã phải thốt lên “Có lẽ khơng một lĩnh vực nào của kiến
thức lại có nhiều hiểu lầm hơn thế”. Folk beliefs một thuật ngữ thường dùng
trong tiếng Anh, được dịch sang tiếng Việt là tín ngưỡng dân gian và từ tương
ứng trong tiếng nhật là Minkan shinkō (民間信仰).
Hầu hết các học giả Nhật Bản cho rằng: Minkan shinkō là thuật ngữ
dùng để chỉ một tập hợp niềm tin, các nghi thức, hành vi sùng kính một đối
tượng nào đó được sản sinh ra từ bản địa, được duy trì phát triển qua truyền
khẩu trong nhân gian, trở thành tín ngưỡng phổ biến trên khắp Nhật Bản.
Theo ghi chú của học giả Fujii Masao, tín ngưỡng dân gian là “thuật ngữ rất
tồn diện” và theo nghĩa rộng đó là tồn bộ niềm tin tơn giáo được tổ chức bởi


Dẫn lại theo trích dẫn trong tập bài giảng Folk belies in morder Japan của giáo sư Norman Haven, Bài
giảng tại khoa Văn hóa truyền thống, Đại học Kokugakuin, Tokyo, Nhật Bản.

15

TIEU LUAN MOI download :


tín ngưỡng của người dân thường (庶民の信仰/Shomin no shinkō) nằm bên
ngồi ngoại vi của tơn giáo đã được định danh (Seiritsu shūkō) [52; tr 68].
Tuy nhiên cách hiểu Minkan shinkō là tín ngưỡng dân gian lại gặp một
số bất đồng trong quan điểm. Miyake Hitoshi là một học giả như vậy, ông gần
như đã đồng nhất hai khái niệm tôn giáo dân gian và tín ngưỡng dân gian vào
nhau, theo ông về cơ bản đó là hành vi tôn giáo hay tín ngưỡng bản địa, có

các yếu tố từ Thần đạo, đạo Phật, Đạo giáo, thuyết nhị nguyên luận và các
hành vi tôn giáo khác [29; tr 121]. Không kế thừa quan điểm đó, Sakurai
Tokutaro đã tiếp tục chứng minh có sự khác biệt giữa hai thuật ngữ trên. Ơng
cho rằng tơn giáo dân gian là có người sáng lập cụ thể, có tổ chức, có giáo lý,
giáo hội, có tổ chức nhóm như kiểu Kito giáo hay Phật giáo. Ngược lại, tín
ngưỡng dân gian khơng có giáo chủ, giáo lý như tơn giáo, nó mang đậm tính
nhân gian, tính đặc thù địa phương và chủ yếu tồn tại thông qua con đường
truyền khẩu. Tuy có sự phân biệt rạch rịi như vậy, song cũng khơng thiếu
những trường hợp nhiều yếu tố trong hành vi tôn giáo dân gian lại đồng hóa
vào mơi trường bản địa và trở thành một tín ngưỡng dân gian, góp phần hình
thành nên tính đa thần trong tín ngưỡng dân gian Nhật Bản. Ví dụ trong tín
ngưỡng Taishikō (德太講), Kanoko (観音講), Jizokukō (地蔵講) ban đầu có
một số yếu tố liên kết với yếu tố Phật giáo, sau mất dần và trở thành tín
ngưỡng dân gian ở địa phương [52; tr 1 - 4].
Như vậy có thể thấy rằng Minkan shinkō theo quan niệm của các học
giả Nhật Bản thường được đồng nhất với những cách hiểu cơ bản về định
nghĩa tín ngưỡng dân gian trong tiếng Anh.
Khái niệm Minkan shinkō lần đầu tiên được phát triển bởi Yanagita
Kunio trong Tổng tập chương trình nghiên cứu về văn hóa dân gian Nhật Bản.
Tác giả đã phản biện lại giải thuyết nghiên cứu trước đây của một số học giả


Taishikō là giáo phái do thái tử Nhật Bản Shotoku lập lên. Kanoko, Jizokukō đều là những tín ngưỡng địa

phương của Nhật Bản.

16

TIEU LUAN MOI download :



cho rằng Minkan shinkō là một thuật ngữ mới xuất hiện trong nghiên cứu về
dân gian (minzoku: folklore). Theo quan điểm của Yanigita Kunio, Minzoku
shinkō hiểu theo một khía cạnh nào đấy có ý nghĩa gần tương tự với Minzoku
(dân tộc học), thực tế đây không phải là một thuật ngữ mới mà nó là một phần
trong thuật ngữ Minzoku [62; tr 173 – 176 và 56; tr 367].
Lịch sử hình thành, nghiên cứu, phát triển của tín ngưỡng dân gian
không hiếm những lúc thăng trầm. Trong giai đoạn hậu hiện đại, quan điểm
về tín ngưỡng dân gian, giá trị của nó thường bị lập lờ nước đơi. Quan điểm
kiểu này đã xuất hiện ở ngay giai đoạn đầu hiện đại, đó là xu hướng xem
thường tơn giáo và tín ngưỡng dân gian. Tiêu biểu là cho quan điểm này là
Chizuka Nakai (1730 – 1804), người sống vào cuối thời kỳ Edo. Ông là nhà
lãnh đạo thuộc trường phái Nho học thế hệ thứ tư, học viện Kaitokudō (懐徳
堂), Osaka đã phủ nhận tín ngưỡng dân gian với thái độ hết sức gay gắt: “Xem

bói, đốn mộng để cầu nguyện hạnh phúc và thoát khỏi bệnh tật đấy là điều
điên rồ, khi bị ốm nếu như ngừng sử dụng thuốc chúng ta sẽ tìm đến cái chết,
việc tìm đến những điều thần bí trong dân gian là phản khoa học. Sự sùng
kính đối với thần đánh cá Ebisu (恵比寿神/Huệ Tỉ Thọ Thần) và Daikoku (大黒
天/Đại Hắc Thiên) là sự ngụy biện, lý do khơng thành thật cho thói dâm ơ và

sự gian ác, nó biến đền thờ Tenmagu trở thành nơi hành dục, biến nơi thờ
Phật Bà Quan Âm thành một nơi của Bà Mụ. Hơn nữa việc tôn sùng hai con
vật là con lửng và con cáo, gán cho chúng tất cả các đặc tính phi thường đến
mức khơng đáng tin, biến chúng thành thần, biến người bán thuốc dạo, người
biểu diễn trị ảo thuật, người hành nghề bói dạo, nhà kiếm thuật, nhà phong
thủy, bói đất… thành những người truyền tin của thần thánh…v.v là điều phi
lý. Tất cả những điều này đều là những loại tín ngưỡng tà giáo, gây bối rối,
hoang mang cho dân chúng, do đó cần loại bỏ [44; tr 82].



Đền Tenmangu là một ngôi đền kiểu Shinto được xây dựng ở Osaka vào năm AD 949.

17

TIEU LUAN MOI download :


Truyền thống phê bình khơng coi trọng tín ngưỡng dân gian được tiếp
tục kế thừa bởi Hội trí thức Meirokusha và những người ủng hộ “văn minh
khai sáng” do quan điểm của trường phái này cho rằng tín ngưỡng dân gian là
“văn hóa của nơng dân nên khơng cần quan tâm đến loại văn hóa này”. Một
số học giả khác có quan điểm ơn hịa hơn, họ cho rằng đó là văn hóa tín
ngưỡng đẹp, hữu ích cho quốc gia, nên cần bảo tồn, nhưng đồng thời phải bài
trừ mê tín dị đoan, điều xấu trong tín ngưỡng dân gian [26; tr 178 - 186]. Chủ
trương ơn hịa này được Anesaki Masaharu, người luôn làm việc dưới quan
điểm Phương Tây, kế thừa và phát triển: tín ngưỡng dân gian là người bảo trợ
cho mơn phái Shinto mới và nó “mặc dù cịn thơ, chưa được tinh luyện nhưng
tương đối tinh khiết” [23; tr 310]. Tuy nhiên quan điểm cho rằng Minkan
shinkō cịn thơ và chưa tinh khiết của Anesaki Masaharu bị đồng nghiệp của
ông Yanigita Kunio cùng nhiều học giả khác, những người ln bảo vệ quan
niệm tín ngưỡng dân gian theo kiểu truyền thống phản kháng lại. Họ cho rằng
tín ngưỡng dân gian ln gắn với việc truyền khẩu, là những sáng tác của
nông dân, là tinh túy được chắt lọc và sản sinh ra từ trong đời sống của người
nông dân, tầng lớp chiếm chủ yếu trong xã hội. Theo quan điểm này, tín
ngưỡng dân gian gắn liền với tầng lớp dân thường (Jōmin/常民) hay với các tầng
lớp như: bình dân (Heimin/平民); dân đen (Shomin/庶民); nhân dân (Jinmin/
人民); đại chúng (Taishū 大衆); dân chúng (Minshū/民衆) [63; tr 57]. Dựa

trên lập luận này, Yanigita Kunio đã làm sáng tỏ hơn nữa quan điểm của

Sakura Tokutaro: Minkan shinkō bao gồm cả tín ngưỡng truyền khẩu, là học
thuyết có tổ chức tơn giáo, người lãnh đạo và có sự đào thải. Một cách chính
xác Minkan shinkō là một phần đặc biệt của tơn giáo dân gian, là bộ phận



Hội trí thức Meirokusha 明六社 những người đi tiên phong trong việc tiếp thu văn hóa Tây phương chính
là những nhà Tây học mà tiếng Nhật gọi là Yōgakusha (Dương học giả), trong đó thành viên của hội trí thức
Meirokusha là những học giả có ảnh hưởng sâu rộng nhất.

18

TIEU LUAN MOI download :


khơng thể thiếu và qua đó người Nhật Bản có thể hiểu về lịch sử phát triển
của tổ tiên [53; 587].
Một vài phác họa trên về cơ bản đã giúp chúng ta đã có cái nhìn tổng
qt về tín ngưỡng dân gian Nhật Bản trong hệ thống thuật ngữ folk beliefs
trên thế giới. Trong cách nhìn khái quát, rộng hơn về Minkan shinkō cho
chúng ta thấy mức độ rộng, đa dạng những quan điểm học thuật về thuật ngữ
này. Kể từ khi thuật ngữ tín ngưỡng dân gian: folk beliefs được sử dụng rộng
rãi lần đầu tiên và tồn tại cho đến tận ngày nay, cách hiểu chung nhất về tín
ngưỡng dân gian Nhật Bản được nhiều nhà nghiên cứu đồng thuận, nó bao
gồm hai yếu tố căn bản. Thứ nhất, tín ngưỡng dân gian của xã hội cổ đại là tín
ngưỡng được dựa trên một xã hội nơng nghiệp, có mối quan hệ sản xuất ln
ràng buộc với tự nhiên. Thứ hai, tín ngưỡng dân gian trong bối cảnh hậu hiện
đại được hiểu là bao gồm một phần của tín ngưỡng và phần thực hành của “tri
thức bản địa” ở một cộng đồng. Theo cách hiểu này tín ngưỡng đã tiến gần
với khái niệm tôn giáo hơn, tuy nhiên cách hiểu trên hiện vẫn còn nhiều tranh

luận, chưa đi đến thống nhất.
1.2.2. Các loại hình tín ngưỡng dân gian Nhật Bản
Hiện nay, cách phân chia loại hình tín ngưỡng dân gian khá đa dạng và
phong phú, do đó trường hợp Minkan shinkō Nhật Bản cũng không ngoại lệ.
Hiroshi Kubota có cách nhìn gần giống với X. A Tơcarep, trong Phong thổ đa
thần giáo Nhật Bản, ơng đã chia tín ngưỡng dân Nhật Bản thành bốn nhóm
tín ngưỡng: thờ cúng linh hồn (Reikon shinkō /霊魂信仰) và nhóm tín ngưỡng
Thần Phật hợp nhất (Shinfutsu shūgō /神仏習合), nhóm tín ngưỡng thờ cúng
thiên nhiên (Shizen sūhai shinkō /自然崇拝信仰), nhóm nhóm tín ngưỡng địa
phương

(Genchi shinkō /現地信仰).

Ichiro Hori, nhà nghiên cứu dân tộc học, văn hóa dân gian nổi tiếng
Nhật Bản chia tín ngưỡng dân gian Nhật Bản ra làm hai loại: Thứ nhất gọi là
nhóm tín ngưỡng đồng tộc (Dōzoku shinkō/ 同族信仰 ), hay là nhóm tín
19

TIEU LUAN MOI download :


ngưỡng truyền thống của một nhóm người cùng huyết thống sống trên cùng
một địa bàn. Thứ hai là nhóm tín ngưỡng hỗn hợp (Kongō shinkō /混合信仰)
bao gồm một phần tín ngưỡng bản địa và một phần của tín ngưỡng mới.
Trong tín ngưỡng mới, sự du nhập các yếu tố bên ngoài (ngoại tộc hay ngoại
quốc) khi được truyền vào thường được đề cao, nhanh chóng hội nhập ở mức
độ cao nhất, bị bản địa hóa và trở thành tín ngưỡng dân gian truyền thống của
địa phương, tuy khơng hồn tồn mất đi yếu tố ban đầu [28; tr 405 - 425].
Đồng quan điểm với Ichiro Hori là nhiều cơng trình nghiên cứu của các
học giả khác, nhưng Dōzoku shinkō còn được gọi dưới nhiều tên khác như: tín

ngưỡng về quan hệ huyết thống, tín ngưỡng về quan hệ họ hàng ở xã hội nơng
thơn Nhật Bản. Đó là nghiên cứu của Ariga Kizaemon năm 1943 [35];
Yanagita Kunio năm 1943 [61]; Kenichi Sugiura năm 1937 [57]; Mogami
Takayoshi năm 1937 [47]; Miyamoto Tsuneichi năm 1949 [46]; Kitano
Seiichi năm 1939 [42]; Oikawa Hiroshi năm 1939 [48]; Nagai Michiko năm
1953 [32]. Theo các nghiên cứu này, nhóm tín ngưỡng đồng tộc và tín
ngưỡng hỗn hợp được hiểu như sau:
Tín ngưỡng đồng tộc: Trong cách chia này, đồng tộc (dòng tộc), là đơn
vị phân chia nhỏ nhất ở vùng nơng thơn Nhật Bản và nhóm tín ngưỡng đồng
tộc là đơn vị nhỏ nhất trong tổng hệ thống tín ngưỡng dân gian Nhật Bản.
Dōzoku- đồng tộc là thuật ngữ biểu thị một nhóm gia đình của tộc chính
(honkō /本仰) và các nhánh phụ (bunkō/分仰) được liên kết bởi mối quan hệ
họ hàng theo chế độ phụ hệ, sống quần cư trên một quần thể cùng với một số
nhóm gia đình khác. Qua các di chỉ khảo cổ học, người ta đã chứng minh
được mối quan hệ họ hàng kiểu Dōzoku ở Nhật Bản có từ thời cổ đại. Mối
quan hệ họ hàng kiểu này luôn bao gồm gia đình chính và các nhánh phụ hệ
(các chi) liên quan, tuy nhiên đơi khi lại có một vài gia đình khơng có liên


Nhóm tín ngưỡng mới là nhóm tín ngưỡng được hình thành trên cơ sở các yếu tố hỗn hợp là tín ngưỡng bản
địa và tín ngưỡng ngoại lai bị bản địa hóa

20

TIEU LUAN MOI download :


quan đến quan hệ huyết thống, đó là ngơi nhà của các tơi tớ phục vụ cho gia
đình chính (tộc trưởng) [35; 98 - 100]. Ngoài ra ở mức độ rộng hơn Dōzoku
còn mang ý nghĩa một đơn vị kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội nhỏ nhất ở

làng. Do đó sự hợp nhất các tơn giáo, tín ngưỡng của bất kì nhóm Dōzoku nào
trên thực tế được thể hiện bằng các nguyên tắc trong đền thờ riêng (từ đường)
và nghĩa trang của dòng tộc. Cách thành viên của dòng tộc phải tham gia vào
lễ hội hàng năm, các ngày giỗ chạp, húy kị về tổ tiên do người tộc trưởng tổ
chức. Vì vậy, ở nhóm tín ngưỡng dịng tộc sự gắn kết giữa các yếu tố chặt
hơn so với các nhóm tín ngưỡng khác.
Tín ngưỡng hỗn hợp: Khi việc thờ cúng tổ tiên trong các dòng tộc dần
dần bị ảnh hưởng do gia tăng số lượng các vị thần trong xã hội như thành
hoàng, thổ địa, thần rừng, thần biển… thì tín ngưỡng hỗn hợp ngày càng trở
nên phát triển [39; tr 143 - 168]. Tuy nhiên, trong hệ thống tín ngưỡng Nhật
Bản, các tín ngưỡng phát triển từ hệ thống dòng tộc trở thành quan trọng nhất
trong cấu trúc xã hội Nhật Bản. Đặc biệt khi người chết được phong thần trở
thành đối tượng thờ cúng trên bàn thờ Kamidana (神棚), họ sẽ là vị thần giúp
liên lạc giữa các thành viên trong dòng tộc với tổ tiên của họ.
Trong xã hội nông nghiệp Nhật Bản, sự tăng trưởng và phát triển của
tín ngưỡng dân gian Nhật Bản cũng giống như quá trình phát triển của xã hội,
đi từ tự cung tự cấp, sau phát triển lên thành hệ thống giáo lý, đi từ tín ngưỡng
lên thành tơn giáo. Ngồi ra, khi có sự phân hóa diễn ra giữa các nhóm gia tộc,
sự nổi lên của một nhóm gia tộc có kinh tế, quyền lực thống trị thì hệ thống
tín ngưỡng của nhóm gia tộc này sẽ trở thành hệ thống tín ngưỡng chung của
cộng đồng. Sau thời gian nhóm tín ngưỡng đầu tiên sẽ hịa nhập vào nhiều
yếu tố mới trong đó có yếu tố từ ngoại tộc (tín ngưỡng ở gia tộc khác), tuy
nhiên dù các tín ngưỡng này có thể thay đổi nhưng khơng bao giờ được làm


Đó là việc người đã khuất được con cháu truy phong thờ cúng tôn sùng như một vị thần gia đình sau lần giỗ
thứ 33 của họ.

21


TIEU LUAN MOI download :


mất đi cái bản sắc của dòng tộc. Hơn nữa, khi có sự gia nhập và sự phổ biến
của các tơn giáo khác như Đạo Phật, hay tín ngưỡng Nho giáo vào trong xã
hội Nhật Bản thì ngay cả Thần đạo cũng dần dần bị nó xâm nhập. Ảnh hưởng
tơn giáo theo kiểu này là từ các cuộc xâm lược, thống trị hoặc làn sóng di cư
hay do truyền giáo. Do đó, một cách mơ hồ tín ngưỡng tơn giáo ban đầu của
địa phương dần dần trở nên khác trước. Các thần trong gia đình hoặc làng có
thể trở thành Thành hồng của vùng. Những lớp tín ngưỡng ngày đan xen vào
nhau và tạo thành tín ngưỡng đồng tộc. Vì vậy, các nhà khoa học cho rằng có
nhiều tầng lớp tín ngưỡng với các hệ thống thần khác nhau cùng phát triển
trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Nhật Bản và tạo thành đa thần giáo kiểu
Nhật.
Quá trình phát triển này cho chúng ta thấy rõ mối quan hệ tuần hồn
giữa các nhóm tín ngưỡng và các tổ chức xã hội. Mặc dù về cơ bản các nhóm
tín ngưỡng có đặc điểm, chức năng khác nhau nhưng lại chung sống hài hòa,
bổ trợ lẫn nhau cùng tồn tại trong một hệ thống đa dạng tín ngưỡng. Đây là
hình thức phổ biến điển hình trong xã hội Nhật Bản. Trong thời kỳ cổ đại, các
lớp tín ngưỡng thường tương ứng với vai trị, vị trí mà nó đảm nhận trong cấu
trúc kinh tế - chính trị xã hội. Trong hệ thống tín ngưỡng này, các vị thần
được thờ trong nhóm là dựa trên liên minh kinh tế và tôn giáo. Tuy nhiên lại
có nhiều hình thức hợp tác theo nhóm hay thực hành hài hịa tơn giáo giữa các
nhóm tín ngưỡng. Đó là vào các dịp lễ hội hàng năm, ma chay, ngày kị, hiếu
hỉ, ngày lễ mừng năm mới…, các hình thức tín ngưỡng khác nhau cũng tương
hỗ lần nhau và Kō (講) là một dạng hiệp hội tôn giáo làng dựa trên các tiêu chí
như tuổi tác, giới tính, tình trạng gia đình, nghề nghiệp. Khi đó tín ngưỡng
hỗn hợp được ra đời dựa trên sự tương hỗ giữa các nhóm tín ngưỡng với nhau
tuy vẫn bảo tồn được các tính chất ban đầu của tín ngưỡng cơ sở [39; tr 187 202].


22

TIEU LUAN MOI download :


×