Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tuyên ngôn độc lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.23 KB, 4 trang )

K
hóa học Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh)

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 1 -


TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
- Hồ Chí Minh -

1. Giới thiệu tác phẩm
Do hoàn cảnh không gian địa lý đặc biệt: lưng tựa Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng ra biển Đông bốn mùa sóng
vỗ, trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta đã từng phải đương đầu với đủ loại ngoại xâm: từ bắc xuống, từ nam
lên, từ tây sang, từ đông vào. Vì vậy cùng với những chiến công hiển hách phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, đuổi
Thanh, nền văn họ
c của chúng ta cũng đã có những áng văn kiệt tác khẳng định đanh thép, hùng hồn chủ quyền độc
lập dân tộc. Bên cạnh bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt sang sảng ngâm trên sông Như Nguyệt, Bình Ngô đại cáo
một thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi, ngày nay chúng ta có bản Tuyên ngôn Độc lập một áng văn chính luận mẫu
mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh- “Tinh hoa của dân tộc, khí phách của non sông
” (Phạm Văn Đồng).

2. Hoàn cảnh sáng tác:
Ngày 19-8-1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26-8-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu
Cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập tại căn nhà 48 phố Hàng Ngang. Ngày
2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào, Người thay mặt Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Lúc này cũng là thờ
i điểm bọn đế quốc thực dân
nấp sau đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật đang âm mưu chiếm lại nước ta. Thực dân Pháp tuyên bố: “
Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị Nhật chiếm đóng, nay Nhật đầu hàng nên Đông Dương phải thuộc quyền của
Pháp


”.

3. Đối tượng của bản Tuyên ngôn
Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc tại quảng trường Ba Đình lịch sử
được Bác viết ra cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới: “Hỡi đồng bào cả nước… chúng tôi trịnh trọng tuyên bố
với thế giới”. Vì viết cho đồng bào nên lời văn của tuyên ngôn xiết bao xúc động:
“ Ôi người cha đôi mắt mẹ hiền sao
Giọng của Người không phả
i sấm trên cao
Ấm từng tiếng thấm vào lòng mong ước
Con nghe bác tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau”
Vì tuyên bố với thế giới nên giọng văn của bản tuyên ngôn sắc bén, lý lẽ đanh thép. Để tái hiện lại giờ phút
thiêng liêng khi Bác đọc tuyên ngôn tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trong trường ca Theo chân Bác, Tố Hữu đã
viết mấy câu thơ thật chân thực và xúc động:

Người đọc tuyên ngôn…rồi chợt hỏi:
“ Đồng bào nghe tôi nói rõ không?”
Ôi câu hỏi hơn mọi lời kêu gọi
Rất đơn sơ mà ấm bao lòng
Cả muôn triệu một lời đáp: “ Có”
Như Trường sơn say gió Biển Đông
Vâng Bác nói chúng con nghe rõ
Mỗi lời Người mang nặng núi sông”


K
hóa học Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh)


Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 2 -


4. Mục đích sáng tác
- Chính thức tuyên bố trước nhân dân, trước thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng
định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
- Tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với dân ta suốt 80 năm qua và tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, xóa
bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
- Khẳng định ý chí của dân tộc Việ
t Nam kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc.

5. Hệ thống luận điểm
a. Những lý lẽ có tính chất nguyên lý
Trước hết, để khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta là đúng nguyên lý, phù hợp với công pháp quốc
tế, Bác đã trích hai câu nói nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Pháp 1791: “ Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong nhữ
ng quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc…
Người ta sinh ra tự do, bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Suy rộng ra câu ấy
có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”.
- Ý kiến suy rộng ra ấy là một đóng góp vô cùng quan trọng của Hồ
Chí Minh đối với phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hóa nổi tiếng của thế giới đã viết: “Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở
chỗ Người đã phát triển quyền của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy là tất cả mọi dân tộc đều có
quyền tự quyết lấy vận mệnh của mình
”. Ý kiến suy rộng ra của Bác có thể được xem là tiếng chuông khởi đầu cho
thời kỳ bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào những năm
60-70 của thế kỷ 20.

- Bác đã dùng những lý lẽ của chính tổ tiên người Mỹ, người Pháp đã ghi trong những bản tuyên ngôn được cả
thế giới công nhận và từng làm vẻ vang cho truyền th
ống, tư tưởng văn hóa của những dân tộc đó. Cách viết như thế
là vừa khéo léo, vừa kiên quyết. Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mỹ.
Kiên quyết vì như ngầm cảnh cáo: “Nếu họ tiến quân xâm lược Việt Nam, thì chính họ đã phản bội lại tổ tiên mình,
làm vấy bẩn lên lá cờ nhân đạo, thiêng liêng của những cuộc cách mạng vĩ đạ
i của họ mà được cả thế giới ngưỡng
vọng”. Ở đây Bác đã vận dụng thủ pháp nghệ thuật rất hiệu quả trong việc đánh địch là dùng “gậy ông để đập lưng
ông”. Nhà thơ Chế Lan Viên cho rằng: “ Những câu tuyên ngôn trích trên kia vừa là quả táo với chúng ta, vừa là quả
lựu đạn đối với kẻ thù: khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào”.
- Vả lạ
i cách viết như vậy, phải chăng Bác đã đặt ba bản tuyên ngôn ngang nhau, đặt ba cuộc cách mạng ngang
nhau ? Điều đó gợi lại trong ta niềm tự hào mà Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi năm trăm năm trước khi mở đầu
tác phẩm bằng hai vế cân xứng để đặt ngang hàng Triệu - Đinh - Lý - Trần của Đại Việt với Hán - Đường- Tống -
Nguyên của phong kiến phương Bắc. Bác Hồ đặ
t cân xứng bản tuyên ngôn của ta với bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp.
Cũng phải thôi, vì cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 hầu như đã giải quyết đúng nhiệm vụ hai cuộc cách mạng
của Mỹ (1776) và của Pháp (1789). Bản tuyên ngôn của Bác đã nêu rõ: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân
gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Đó cũng là yêu cầu đặt ra cho cuộc cách mạng nướ
c Mỹ,
đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa Bắc Mỹ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản tuyên ngôn cũng viết: “Dân ta lại
đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Đây cũng là tinh thần cơ bản của
cuộc cách mạng dân quyền, nhân quyền của Pháp thế kỷ XVIII.
b. Những lý lẽ nhằm bác bỏ luận điệu s
ảo trá của kẻ thù
Tiếp đó là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ để đẩy lùi kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất
đe dọa nền độc lập dân tộc đó là thực dân xâm lược Pháp, Bác đã nêu lên lý lẽ và lập luận hết sức thuyết phục về mặt
pháp lý nhằm bác bỏ luận điệu của bọn đế quố
c thực dân.
K

hóa học Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh)

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 3 -


- Để vạch trần luận điệu về công lao khai hóa của Pháp đối với Đông Dương, Bác đã nêu rõ “ những hành
động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” của chúng trong 80 năm thống trị nước ta về hai phương diện: chính trị
và kinh tế, thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ Tổ quốc ta thành ba kỳ:
“ Giặc cướp hết non cao biển rộng
Cướp cả tên nòi giống tổ tiên
Lưỡi gươm cắt đất ngăn miền
Núi sông một khúc ruột liền chia ba”
Chúng “tắm các phong trào yêu nước và cách mạng của ta trong những bể máu”.
Thi hành chính sách ngu dân, đầu độc dân ta bằng thuốc phiện, rượu lậu, bóc lột vơ vét đến tận xương tủy làm
cho nước ta xơ xác, dân ta tiêu điều, cuối cùng chúng đã gây ra nạn đói rùng rợn khủng khiếp khiến cho từ Quảng Trị
đến Bắc Kỳ hơn hai triệ
u đồng bào ta chết đói. Như vậy là khai hóa đó sao? Sự thực là các ngài đã khai tử cả dân tộc
chúng tôi.
- Để phơi bày luận điệu xảo trá về “công lao bảo hộ Đông Dương” của Pháp, bản tuyên ngôn đã chỉ rõ đó
không phải là công mà là tội. Vì chúng chẳng những không bảo hộ mà trong năm năm chúng đã bán đứng nước ta hai
lần cho Nhật.
- Và cuối cùng bác bỏ lời tuyên bố: Đông Dươ
ng là thuộc địa của chúng với tư cách là thành viên của đồng
minh, bản tuyên ngôn chỉ rõ đó là tội: Pháp đã quỳ gối đầu hàng Nhật, kẻ thù của đồng minh, dâng Đông Dương cho
Nhật làm một căn cứ đánh đồng minh. Pháp không còn tư cách gì là đồng minh để trở lại đây nữa. Và dân ta đã giành
độc lập từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp, giành bằng sự nổi dậy của chính mình, giành khi đồng minh chưa
bén mảng đến đây. Luận điểm này đứng về ý nghĩa pháp lý là vô cùng quan trọng. Nó sẽ dẫn đến lời tuyên bố hùng
hồn tiếp theo của bản tuyên ngôn: “ Bởi thế, cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu

cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký
về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quy
ền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
- Việt Nam đã độc lập: đó là thực tế. Việt Nam phải được độc lập đó là theo các nguyên tắc của Hội nghị Cựu
Kim Sơn của các nước đồng minh “ Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và thực tế đã trở thành một nước
tự do, độc lập” chính là nhấn mạnh lý và sự ấy, đồ
ng minh khó bẻ một lý nào.
c. Những lý lẽ nhằm khẳng định dân tộc ta có đủ tư cách để hưởng độc lập
Còn dân tộc ta thì sao? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập tự do hay không? Có đủ tư cách làm chủ
đất nước mình hay không? Bản tuyên ngôn cũng đưa ra những lý lẽ đầy tính chất khẳng định.
- Nếu thực dân Pháp có tội phản bội đồng minh - dâng Đông Dương cho Nhật thì nhân dân ta đã anh dũng
chống Nhật với tư cách là thành viên đồng minh.
- Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất hèn nhát phản động phi nhân đạo ở hành động thẳng tay khủng bố Việt
Minh. Thậm chí đến khi thua chạy còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng thì nhân dân ta
vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo với kẻ thù khi chúng đã thất thế “ Sau cuộc biến động 9 - 3 Việt Minh
đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy, l
ại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi trại giam Nhật và bảo vệ tính
mạng, tài sản của họ”
Một dân tộc đã chịu bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập, tự do; đã đứng
hẳn về phe đồng minh chống phát xít; đã nêu cao tinh thần nhân đạo bác ái , như thế “ Dân tộc đó phải được tự do,.
Dân tộc đó phải
được độc lập”

6. Đặc sắc nghệ thuật
Bản tuyên ngôn độc lập của Bác không chỉ thuyết phục người đọc bằng những lý lẽ chặt chẽ, mà còn lay động
hàng triệu trái tim người đọc bởi lời văn đầy cảm hứng yêu nước, nhân đạo: “ khi đanh thép hùng hồn, khi căm giận
uất ức, khi lâm li thắm thiết”. Vì là tuyên ngôn nên vừa khẳng định quyền của ta vừa vạch trần tội ác của giặc. Trong
một đoạ
n văn ngắn mà Bác láy lại 13 chữ “ quyền” và sau đó 14 câu, câu nào cũng có “ chúng” nặng như búa tạ. Và
K

hóa học Luyện thi Đại học đảm bảo môn Ngữ văn
Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh)

Hocmai.vn – Ngôi trường chung của học trò Việt Tổng đài tư vấn: 1900 58-58-12
- Trang | 4 -


mỗi chữ “chúng” ấy, mỗi tội ác của “chúng” ấy như trút xuống chữ “ ta” làm xúc động lòng người… “một dân tộc”
hai lần nhấn mạnh chữ “gan góc”, bốn lần nhấn mạnh chữ “ dân tộc”, rồi hai câu điệp lại như những nhát dao mỗi
lúc chém xuống mạnh hơn “ dân tộc đó… dân tộc đó” “đọc lên sảng khoái biết chừng nào
"(Chế Lan Viên).

Tổng kết
Tóm lại bản Tuyên ngôn Độc lập của Bác đã trở thành một bài văn chính luận mẫu mực nổi tiếng. Bài văn đã
xây dựng được một hệ thống lập luận chặt chẽ, đưa ra được những bằng chứng hùng hồn, không ai có thể chối cãi
được. Đằng sau đó là một tầm tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh, Người đã tổng kết được một cách giản dị mà xúc
tích những kinh nghiệm đấu tranh của nhiều thế kỷ giành độc lập dân tộc, dân quyền, nhân quyền của dân tộc ta và
nhân loại.
“ Trời bỗng xanh nắng chói lòa
Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta
Bốn phương chắc cũng nhìn ta đó
Nước Việt nam dân chủ cộng hòa”



Giáo viên: Nguyễn Quang Ninh
Nguồn: Hocmai.vn



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×