Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Sử dụng di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn quỳnh lưu – nghệ an nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử địa phương lớp 12 tại trường THPT quỳnh lưu 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.45 MB, 53 trang )

GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI
SỬ DỤNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
QUỲNH LƯU – NGHỆ AN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG LỚP 12 TẠI TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 4

Môn: Lịch Sử
Tác giả: Lê Thị Thanh Huyền
Tổ bộ môn: Sử - Địa – GDCD - TDQP
Năm thực hiện: 2021 – 2022
Số điện thoại: 0942120486


TT
PHẦN I

MỤC LỤC

Trang

ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1

Lý do chọn đề tài

1


1.2

Tính mới của đề tài

2

1.3

Mục đích nghiên cứu

2

1.4

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

2

1.5

Nhiệm vụ nghiên cứu

3

1.6

Phương pháp nghiên cứu

3


PHẦN II

NỘI DUNG

2.1

Cơ sở lí luận

4

2.2

Cơ sở thực tiễn

6

2.3

Sử dụng di tích lịch sử - văn hóa ở Quỳnh Lưu – Nghệ
An để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử địa phương
lớp 12 tại trường THPT Quỳnh Lưu 4

8

2.4

Các hình thức sử dụng di tích lịch sử - văn hóa ở Quỳnh
Lưu để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử địa phương
lớp 12 tại trường THPT Quỳnh Lưu 4


18

2.5

Kết quả nghiên cứu

43

PHẦN III KẾT LUẬN
3.1

Kết luận

46

3.2

Bài học kinh nghiệm

46

3.2

Kiến nghị

47

TÀI LIỆU THAM KHẢO

2



PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng dạy:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
Trong giáo dục phổ thông hiện nay, các mơn xã hội nói chung và mơn Lịch sử
nói riêng có vai trị quan trọng trong việc khơi nguồn, bồi dưỡng tâm hồn, nhân
cách, bản lĩnh và tư duy của con người. Do vậy, dạy học lịch sử không chỉ giúp học
sinh nắm được lịch sử hình thành của một quốc gia, dân tộc mà cịn hình thành ở
các em lịng tự hào để từ đó các em thêm u quê hương, đất nước mình hơn.
Tuy nhiên, việc dạy và học lịch sử nói chung và lịch sử địa phương nói riêng
ở trường học từ trước đến nay vẫn cịn nặng nề về nội dung, lý thuyết, thường chỉ
đề cập đến việc mô tả, thống kê các sự kiện; phương pháp truyền đạt chưa thực sự
đổi mới, hấp dẫn, thiếu tính liên hệ, các tư liệu, hình ảnh minh họa chưa thực sự
sống động, các hoạt động trải nghiệm thực tế cịn ít. Vì thế, đa phần học sinh phổ
thơng không chú ý đến lịch sử, hiểu biết về lịch sử hình thành và phát triển của địa
phương nơi mình đang sinh sống còn rất hạn chế.
Ngày 16 tháng 01 năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp Bộ Văn hóa –
Thể thao và Du lịch ban hành Công văn liên ngành số 73/HD - BGD&ĐTBVHTTDL để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện việc “Sử dụng di sản văn hóa trong
dạy học ở trường phổ thơng, trung tâm GDTX”. Theo đó, vai trị của di tích lịch sử
- văn hóa trong dạy học đã được khẳng định và chú trọng.
Trong xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay, việc sử dụng di tích lịch sử - văn
hóa trong tổ chức dạy học bộ mơn lịch sử cần có những thay đổi. Đó là việc đổi
mới phương pháp dạy học truyền thống, kết hợp với các kỹ thuật dạy học tích cực.
Việc dạy học lịch sử bằng hệ thống di tích lịch sử - văn hóa là một nội dung của
việc dạy học khám phá, dạy học bằng việc trao quyền chủ động cho học sinh. Các
em sẽ là người tự tìm tịi, khám phá, làm sáng tỏ các sự kiện liên quan đến các sự
kiện lịch sử dân tộc, địa phương trên cơ sở hướng dẫn của giáo viên. Việc sử dụng

di tích lịch sử - văn hóa trong dạy học lịch sử địa phương sẽ góp phần phát huy
năng lực học sinh, bồi dưỡng lòng yêu quê hương đất nước, góp phần hồn thiện
nhân cách cho các em học sinh.
Quỳnh Lưu – Nghệ An từ xưa đến nay không chỉ được biết đến là mảnh đất
trọng yếu, có vị trí chiến lược liên quan đến sự phát triển của quốc gia, dân tộc, mà
còn là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, có hệ thống di tích lịch sử - văn hóa
phong phú và đa dạng. Di tích lịch sử - văn hóa tại địa phương Quỳnh Lưu đóng
vai trị là nguồn tư liệu, phương tiện trực quan vô giá trong dạy học lịch sử. Việc sử
dụng các di tích lịch sử - văn hóa ở địa phương Quỳnh Lưu vào dạy học lịch sử nói
chung và lịch sử địa phương nói riêng khơng chỉ giúp học sinh hiểu về mảnh đất và
3


con người nơi mình sinh ra và lớn lên, hun đúc niềm tự hào, giáo dục truyền
thống... trách nhiệm công dân mà còn là cách giúp học sinh nhận thức sâu sắc thêm
lịch sử dân tộc.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi quyết định chọn đề tài "Sử dụng di
tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Quỳnh Lưu – Nghệ An nhằm nâng cao chất
lượng dạy học Lịch sử địa phương lớp 12 tại trường THPT Quỳnh Lưu 4" để
làm đề tài nghiên cứu với mong muốn nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học
lịch sử địa phương ở trường THPT, hướng tới mục đích giáo dục con người một
cách tồn diện.
1.2. Tính mới của đề tài
Đây là đề tài hồn tồn mới, chưa có đồng nghiệp nào đề cập đến. Đề tài
chứng minh được tính cần thiết và khả thi của việc sử dụng di tích lịch sử - văn hóa
trong dạy học lịch sử nói chung và lịch sử địa phương nói riêng. Bên cạnh đó, đề
tài cũng đưa ra được các hình thức, biện pháp sử dụng hiệu quả các di tích lịch sử văn hóa địa phương, góp phần đổi mới phương pháp dạy học, từ đó nâng cao chất
lượng dạy học bộ môn lịch sử ở trường THPT.
Nếu áp dụng việc sử dụng di tích lịch sử - văn hóa ở địa bàn Quỳnh Lưu vào
dạy học lich sử địa phương một cách hợp lí sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đổi mới

phương pháp dạy học, từ đó nâng cao chất lượng dạy học lịch sử địa phương trong
nhà trường.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định tầm quan trọng của việc sử dụng di tích lịch sử - văn
hóa ở Quỳnh Lưu trong dạy học lịch sử địa phương, đề tài đã đi sâu vào các hình
thức sử dụng di tích lịch sử - văn hóa khi dạy lịch sử địa phương ở trên lớp và tại
thực địa cho học sinh THPT. Qua đó nhằm mục đích nâng cao hiệu quả giảng dạy
phần lịch sử địa phương ở lớp 12, góp phần giáo dục tình u q hương đất nước
cho học sinh.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 12 trường THPT Quỳnh Lưu 4, các hình thức, biện pháp sử dụng
các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu – Nghệ An nhằm góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn lịch sử địa phương ở trường trung học
phổ thông.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi của đề tài chỉ nghiên cứu việc sử dụng di tích lịch sử - văn hóa trên
địa bàn huyện Quỳnh Lưu để nâng cao hiệu quả dạy học phần lịch sử địa phương.
1.5. Nhiệm vụ nghiên cứu

4


Vai trò, ý nghĩa và thực trạng của việc sử dụng di tích lịch sử - văn hóa trong
giảng dạy lịch sử địa phương ở trường THPT.
Giới thiệu khái quát các di tích lịch sử - văn hóa ở huyện Quỳnh Lưu, các
hình thức sử dụng di tích lịch sử - văn hóa ở Quỳnh Lưu, các biện pháp, hình thức
giảng dạy tại trường THPT Quỳnh Lưu 4 để nâng cao chất lượng dạy học lịch sử
địa phương.
1.6. Phương pháp nghiên cứu

- Nghiên cứu lý thuyết: Đọc và nghiên cứu SGK, tài liệu chuẩn kiến thức kỹ
năng lịch sử lớp 12, tài liệu về lịch sử Quỳnh Lưu, lịch sử Đảng bộ Quỳnh Lưu, tài
liệu về các di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn Quỳnh Lưu.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành dạy học có đối chứng để rút
ra những kết luận khái quát và đề xuất một số biện pháp sư phạm.
- Phương pháp khảo sát: Thăm dò ý kiến đổi mới phương pháp dạy của giáo
viên, ý kiến tiếp thu bài của học sinh, khảo sát những mong muốn của học sinh. Từ
đó tổng kết, đánh giá để đưa ra các hình thức dạy học phù hợp.

5


PHẦN 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm
* Di tích:
Di tích là dấu vết của quá khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc trên mặt đất có
ý nghĩa về mặt văn hóa và lịch sử. Tiêu chí đầu tiên để xác định một di tích lịch sử
là nó phải có thực từ trước và lưu giữ đến ngày nay, bao giờ cũng gắn liền, phản
ánh, ghi nhận, minh chứng một sự kiện, nhân vật lịch sử, đặc biệt là những sự kiện
lịch sử lớn, quan trọng.
Ở Việt Nam, một di tích khi đủ các điều kiện sẽ được công nhận theo thứ tự:
Di tích cấp tỉnh, di tích cấp quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt. Hệ thống di tích
Việt Nam được phân thành 4 loại hình cơ bản: Di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh.
* Di tích lịch sử:
Di tích lịch sử (hay di tích cách mạng - kháng chiến) là cơng trình xây dựng,
địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Di tích lịch sử là một bộ phận cấu thành hệ thống
các di tích lịch sử - văn hố, tuy nhiên, nó có những điểm khác với các di tích tơn
giáo tín ngưỡng đó là những địa điểm cụ thể, cơng trình kiến trúc có sẵn (nhà ở,

đường phố…), là những cơng trình được con người tạo nên phù hợp với mục đích
sử dụng (địa đạo, hầm bí mật…) gắn liền với những sự kiện, nhân vật lịch sử cụ
thể mà trở thành di tích.
* Di tích lịch sử - văn hóa:
Di tích lịch sử - văn hóa là cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hố, khoa học.
Di tích lịch sử - văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:
Cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu của
quốc gia hoặc của địa phương.
Cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng
dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của
quốc gia hoặc của địa phương trong các thời kỳ lịch sử.
* Lịch sử địa phương:
Lịch sử địa phương là một bộ phận hữu cơ của lịch sử dân tộc, có quan hệ mật
thiết với lịch sử dân tộc. Bất cứ một sự kiện nào của lịch sử dân tộc cũng đều mang
tính địa phương vì nó diễn ra ở một địa phương cụ thể với không gian và thời gian
xác định.

6


Dạy và học lịch sử địa phương không chỉ giúp học sinh hiểu về mảnh đất và
con người nơi mình sinh ra và lớn lên, hun đúc niềm tự hào, giáo dục truyền
thống...trách nhiệm cơng dân mà cịn là cách giúp học sinh nhận thức sâu sắc thêm
lịch sử dân tộc.
Nguồn tài liệu lịch sử địa phương, với những loại hình đa dạng, phong phú,
sinh động, là cơ sở cho học sinh hiểu được những biểu tượng lịch sử và các khái
niệm, các sự kiện, hiện tượng được đúc kết ở các bài.
2.1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng di tích lịch sử - văn hóa trong giảng
dạy Lịch sử địa phương ở trường THPT

Công văn liên ngành số 73/HD - BGD&ĐT-BVHTTDL ngày 16 tháng 01
năm 2013 do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch
ban hành về việc “Sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thơng,
trung tâm GDTX” đã chỉ rõ vai trị quan trọng của di sản văn hóa trong dạy học ở
trường phổ thơng, trung tâm GDTX: Hình thành và nâng cao ý thức tơn trọng, giữ
gìn, phát huy những giá trị của di sản văn hóa; Rèn luyện tính chủ động, tích cực,
sáng tạo trong đổi mới phương pháp học tập và rèn luyện; Góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục, phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu, tài năng của học
sinh". Như vậy, việc sử dụng di tích lịch sử - văn hóa trong dạy học lịch sử nói
chung và dạy học lịch sử địa phương nói riêng là rất cần thiết và có ý nghĩa vơ
cùng to lớn.
Việc sử dụng di tích lích sử - văn hóa trong dạy học lịch sử nói chung và dạy
học lịch sử địa phương nói riêng góp phần giáo dục truyền thống u nước, u
q hương, lịng kính u, khâm phục, biết ơn, tự hào về các anh hùng dân tộc.
Giáo dục cho học sinh tính chân, thiện, mĩ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo
đức và phát triển nhân cách cho học sinh. Giúp học sinh phát huy năng lực hoạt
động tư duy độc lập cho học sinh, rèn luyện kỹ năng quan sát, đánh giá, phân tích
và rút ra kết luận, tạo ra được hứng thú học tập cho các em
Giáo dục cho học sinh biết tôn trọng, bảo vệ các di tích lịch sử - văn hóa. Qua
quá trình tìm hiểu, nghiên cứu nội dung lịch sử, văn hóa hàm chứa trong mỗi di
tích lịch sử - văn hóa sẽ giúp các em biết quý trọng và ý thức bảo vệ di tích lịch sử
- văn hóa từ những việc nhỏ, như giữ gìn vệ sinh, bảo vệ và trồng cây xanh… đến
việc sưu tầm di vật, tài liệu về di tích lịch sử - văn hóa… Qua đó, góp phần bảo vệ,
tơn tạo cảnh quan di tích lịch sử - văn hóa ngày càng sạch đẹp, nghiêm trang.
Giúp học sinh có phương tiện để nhận thức các sự kiện trong quá khứ, tạo
được biểu tượng cụ thể, chính xác, sinh động về các sự kiện, nhân vật lịch sử, góp
phần khắc phục tình trạng "hiện đại hóa lịch sử".
Góp phần bổ sung những tri thức mà học sinh đã tiếp thu ở phần lịch sử dân
tộc (lịch sử Việt Nam), rút ra được những kết luận khái quát, phát hiện quy luật vận
động, phát triển của lịch sử.

7


2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Thực trạng của việc dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT
Dạy học lịch sử địa phương giúp học sinh hiểu biết về lịch sử hình thành và
phát triển, những truyền thống tốt đẹp, ý thức về trách nhiệm và bổn phận của
mình để góp sức xây dựng quê hương. Tuy nhiên trên thực tế, việc dạy học chương
trình lịch sử địa phương ở trường trung học phổ thơng hiện nay vẫn cịn nhiều bất
cập.
Thứ nhất: Nội dung kiến thức lịch sử địa phương kéo dài từ cội nguồn cho
đến nay, trong khi đó chương trình học lịch sử địa phương từ lớp 10 đến lớp 12 chỉ
có 4 tiết, dẫn đến tình trạng kiến thức còn nặng và sự lệch nhau giữa nội dung lịch
sử dân tộc và lịch sử địa phương, làm cho việc chuyển tải kiến thức đến các học
sinh gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai: Mặc dù trong phân phối chương trình bắt buộc tiến hành biên soạn
và giảng dạy nhiều giáo viên chưa đánh giá đúng được vai trò của các tiết học lịch
sử địa phương, thường hướng dẫn học sinh tự học, hoặc sử dụng làm tiết ôn tập,
kiểm tra.
Thứ ba: Nguồn tư liệu ở các địa phương rất hiếm, khó khai thác, chủ yếu dựa
vào nguồn tư liệu truyền miệng, chương trình lịch sử địa phương khơng có một bài
dạy cụ thể nào, chính vì thế, thầy cơ giáo muốn dạy tốt tiết lịch sử địa phương
thường phải bỏ ra rất nhiều thời gian, cơng sức tìm tịi, sưu tầm tài liệu, soạn bài
giảng. Điều này làm cho giáo viên ngại giảng dạy, nếu có thực hiện thì chỉ mang
tính hình thức.
Thứ tư: Mơn lịch sử từ lâu theo quan điểm là mơn học phụ, có rất ít tiết dạy,
(thường mỗi khối lớp chỉ có 1- 2 tiết/tuần), nếu vì lý do gì đó mà phải nghỉ học tất
nhiên sẽ chậm chương trình, và 2 tiết dạy sử địa phương được thầy cô chủ yếu
dùng để dạy bù chương trình chậm. Tiết dạy sử địa phương lại khơng có nội dung
cụ thể trong chương trình nên rất khó để kiểm tra đánh giá. Vì vậy giáo viên có thể

“mạnh ai nấy làm”.
Thứ năm: Chương trình giáo dục trong nhà trường hiện nay quá thiên về
truyền thụ kiến thức để phục vụ cho các kỳ thi cử, kiến thức lịch sử địa phương lại
khơng có trong khung đề thi của kỳ thi THPTQG của Bộ giáo dục, nên đôi khi các
trường ít chú trọng đến các kiến thức về lịch sử, văn hóa dân tộc, do đó, dạy học
lịch sử địa phương nói chung và việc phối hợp đưa di sản văn hóa vào nhà trường
nói riêng càng bị coi là một hình thức mới mẻ, ít được quan tâm.
Trên thực tế, nếu tổ chức được tiết dạy lịch sử địa phương chu đáo, bài bản,
học sinh sẽ rất hào hứng với 2 tiết dạy ít ỏi này. Bởi qua đó, các em được biết thêm
về những danh nhân văn hóa của q hương mình. Các em cũng được đi tham
quan những di tích lịch sử văn hố của nơi mình sinh sống, để hiểu thêm về quê
hương với những truyền thống tốt đẹp và công trạng của các bậc tiền nhân.
8


2.2.2. Thực trạng của việc sử dụng di tích lịch sử - văn hóa trong dạy học
lịch sử địa phương ở trường THPT hiện nay
Những năm gần đây, trên cơ sở công văn chỉ đạo và hướng dẫn của Bộ giáo
dục, nhiều sở giáo dục và đào tạo đã có những chỉ đạo sát sao về vấn đề sử dụng di
tích lịch sử - văn hóa trong dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT, nhiều cơng
trình nghiên cứu về lịch sử địa phương được biên soạn, nhiều buổi học chuyên đề,
trao đổi kinh nghiệm về hình thức, phương pháp dạy học lịch sử thơng qua di sản
văn hóa, di tích lịch sử, danh nhân… đã được tiến hành. Việc giảng dạy lịch sử,
đặc biệt là tiết lịch sử địa phương ở các trường trung học phổ thông đã có nhiều
thay đổi. Tuy nhiên, việc khai thác các di tích lịch sử - văn hóa trong dạy học lịch
sử địa phương vẫn còn nhiều hạn chế.
Thứ nhất, việc dạy và học lịch sử địa phương chỉ mới dừng ở mức như một
mơn học ngoại khóa, mang tính chất giới thiệu, khái quát chứ chưa được chú
trọng.Việc xếp thời gian để học các nội dung liên quan đến đưa di tích lịch sử - văn
hóa vào nhà trường là cực kỳ khó khăn về mặt thời gian. Do đó, đối với các trường

thật sự có tâm huyết, các giáo viên sẽ phải linh hoạt về thời khóa biểu, bố trí dạy
bù...
Thứ hai, nội dung giáo dục di tích lịch sử - văn hóa mà giáo viên giảng dạy
cho học sinh chưa có tính liên hệ thực tiễn, thường chỉ dừng lại ở vai trò, ý nghĩa
và giá trị của di tích lịch sử - văn hóa. Nhưng trên thực tế, các di tích lịch sử - văn
hóa hiện nay hầu như đã xuống cấp trầm trọng, cần được bảo vệ, thì việc giáo dục
ý thức, trách nhiệm bảo tồn vẫn chưa được giáo viên quan tâm thỏa đáng và truyền
thụ sâu sắc cho học sinh.
Thứ ba, phương pháp giáo viên sử dụng trong giáo dục di tích lịch sử - văn
hóa chủ yếu là phương pháp truyền thống, các phương pháp có tác động đến nhận
thức của học sinh cịn ít được sử dụng thậm chí ít được áp dụng vì cho rằng khơng
có kinh phí và thiếu thời gian.
Thứ tư, hình thức tổ chức dạy học lịch sử địa phương chưa đa dạng. Theo
thống kê sơ bộ thì chủ yếu được tổ chức trên lớp, việc dạy học tại di tích lịch sử văn hóa, hoặc tổ chức ngoại khóa lịch sử địa phương, ứng dụng cơng nghệ thơng
tin chưa được quan tâm thỏa đáng.
Thứ năm, kinh phí để sử dụng cho hoạt động tham quan trải nghiệm cũng hạn
chế, nhiều phụ huynh ngại yếu tố an toàn cho con em nên mỗi lần tổ chức gặp phải
khá nhiều khó khăn trong cơng tác vận động. Chính vì vậy, hoạt động tham quan,
trải nghiệm tại các di tích lịch sử chủ yếu chỉ diễn ra ở những trường nằm ở trung
tâm, hoặc là gần các di tích. Cịn những trường ở xa, vùng khó khăn hầu như
khơng được tiến hành, hoặc tiến hành nhỏ giọt, không đồng bộ.
Thứ sáu, trong giờ học lịch sử địa phương, giáo viên chủ yếu sử dụng tài liệu
thành văn, các loại tài liệu khác như tài liệu đồ dùng trực quan, tài liệu truyền
9


miệng dân gian, tài liệu điền dã ít được khai thác, sử dụng nên bài học thường khô
khan, nhàm chán, thiếu hấp dẫn.
Thứ bảy, tâm lí e ngại học lịch sử đã ảnh hưởng đến thái độ học tập, khiến cho
các em chưa thật sự hào hứng với bộ môn lịch sử nói chung và lịch sử địa phương

nói riêng, điều này dẫn đến tình trạng một số tiết học chưa đảm bảo được nội dung
và yêu cầu của chương trình.
2.3. Sử dụng di tích lịch sử - văn hóa ở Quỳnh Lưu – Nghệ An để nâng
cao chất lượng dạy học lịch sử địa phương lớp 12 tại trường THPT Quỳnh
Lưu 4
2.3.1. Những nguyên tắc sử dụng di tích lịch sử - văn hóa trong giảng dạy
lịch sử địa phương ở trường THPT
Thứ nhất, cần đảm bảo khai thác tính trực quan sinh động của di tích lịch sử
- văn hóa.
Nguyên tắc này xuất phát từ đặc điểm của hiện thực lịch sử, đặc điểm của quá
trình nhận thức lịch sử và đặc điểm tâm lý học của học sinh THPT. Di tích lịch sử văn hóa là một loại phương tiện trực quan nên có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong
dạy học lịch sử. Tuy nhiên, cần lưu ý những đặc điểm của di tích lịch sử - văn hóa
như: Khơng thể mang di tích vào lớp học, hiện đại hóa hay thần thoại hóa di tích…
Để khai thác tối ưu tính trực quan sinh động của di tích lịch sử - văn hóa, tốt
nhất là tổ chức các bài học trải nghiệm thực tế tại các di tích.
Thứ hai, cần đảm bảo tính khoa học, sư phạm.
Chọn các di tích lịch sử - văn hóa để dạy học cần đảm bảo các di tích lịch sử văn hóa đó được các nhà khoa học xác định, lập hồ sơ, các di tích gần trường, quan
trọng nhất là các di tích phản ánh những sự kiện lịch sử tiêu biểu của chương trình
THPT, các di tích cịn ngun vẹn, thường xun được tơn tạo, có cảnh quan đẹp,
các di tích hàng năm tổ chức lễ hội...
+ Thời gian dạy học tại di tích lịch sử - văn hóa nằm trong khn khổ quy
định của chương trình và kế hoạch dạy học (tuy có phần linh hoạt hơn).
+ Tập trung khai thác các kiến thức chứa đựng trong các di tích lịch sử - văn
hóa, phù hợp với yêu cầu bài học và trình độ của học sinh ở từng khối, lớp. Trong
quá trình thực hiện, cần sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học truyền thống
kết hợp với các phương pháp, phương tiện dạy học hiện đại theo tinh thần đổi mới
phù hợp với đặc trưng bộ môn.
+ Giáo viên cần trau dồi kiến thức trên nhiều lĩnh vực liên quan như văn học,
khảo cổ học, địa lý, văn hóa...những kỹ năng chụp ảnh, vẽ bản đồ, tổ chức, giới
thiệu...

- Phát huy tính tích cực, chủ động trong nhận thức của học sinh.

10


+ Tạo ra nhiều tình huống có vấn đề để học sinh tìm hiểu, hướng dẫn học sinh
khai thác các nguồn sử liệu, rèn luyện các thao tác nhận thức lịch sử, phát triển tư
duy quan sát, tưởng tượng, miêu tả…
+ Khai thác triệt để tính trực quan sinh động của các hiện vật, tranh ảnh duy
trì hứng thú học tập của học sinh để bài học đạt hiệu quả cao nhất.
+ Sử dụng di tích lịch sử - văn hóa ngồi việc minh họa kiến thức sách giáo
khoa, cần tạo ra các dữ liệu, tổ chức cho học sinh các hoạt động tìm kiếm, phát
hiện tri thức lịch sử mới cho học sinh.
+ Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng làm tốt các bài tập thực hành bộ môn từ
đơn giản đến phức tạp. Những học sinh khá giỏi tập dượt các công việc của nhà
nghien cứu như sưu tầm, chỉnh lý tài liệu, hiện vật, lập hồ sơ di tích.
2.3.2. Di tích lịch sử - văn hóa ở huyện Quỳnh Lưu được sử dụng để nâng
cao chất lượng dạy học Lịch sử địa phương lớp 12 tại trường THPT Quỳnh Lưu
4
Huyện Quỳnh Lưu hiện có 26 di tích lịch sử - văn hố được xếp hạng cấp tỉnh
và cấp quốc gia.
Để giảng dạy phần lịch sử địa phương lớp 12, các di tích lịch sử - văn hóa có
thể sử dụng là:
- Di tích đền thờ ngun tổ họ Hồ
Trang Bào Đột là tên gọi cổ xưa của vùng đất thuộc xã Quỳnh Lâm và Ngọc
Sơn (Quỳnh Lưu) bây giờ, nơi ông tổ họ Hồ Việt Nam đầu tiên đặt chân đến khai
cơ lập ấp. Đền thờ nguyên Tổ họ Hồ hiện nay nằm trên địa phận xã Ngọc Sơn,
khởi công tôn tạo khoảng 10 năm nhưng đã có tới hàng trăm năm lịch sử.
Theo sử sách ghi lại, Đức Nguyên Tổ họ Hồ Việt Nam là Trạng nguyên Hồ
Hưng Dật, thời vua Hậu Hán Ẩn Đế (948 - 951). Hồ Hưng Dật sang làm thái thú

Châu Diễn mấy năm thì xảy ra loạn 12 sứ quân, ông đến hương Bào Đột (nay
thuộc địa phận 2 xã Ngọc Sơn và Quỳnh Lâm) lập nghiệp. Sau khi thôi quan, ông
lui về chiêu dân lập ấp, làm trại chủ tại hương Bào Đột, được nhân dân tôn làm
Thần Thành Hoàng, và cũng là nguyên tổ họ Hồ duy nhất ở nước ta.
Đến thời nhà Hồ, vua Hồ Quý Ly sau khi lên làm vua được một năm thì
nhường ngơi cho con là Hồ Hán Thương, rồi làm Thái thượng hoàng cùng coi việc
nước. Năm Quý Mùi (1403), niên hiệu khai đại thứ nhất, vua Hồ Hán Thương theo
lệnh vua cha Hồ Quý Ly về Ngũ Bàu “Dựng miếu thờ ở làng Bàu Đột phủ Linh
Nguyên, để thờ cúng tổ tiên”.

11


Đền thờ nằm trên đồi Thượng Đọt, tựa lưng vào hòn Rồng, bên trái là núi
Ngọc, bên phải là hòn Rết. Cả 3 hòn này đều nằm trên dãy núi Y Sảo, gọi là thế
“long ngai”. Đền làm theo kiểu nội cơng ngoại quốc, có cửa tam quan, một sân

rộng là đến tịa chính Ảnh: Đền thờ Ngun tổ họ Hồ điện 5 gian. Sau tịa
chính diện là 1 sân nhỏ, 2 bên có tả vu, hữu vu, tịa trung điện 3 gian 2 hồi, hậu
cung, sân ngồi góc bên phải có miếu thờ Thái Dương cơng chúa… Cả một khu
đền họ Hồ với quy mơ hồnh tráng trên vùng địa linh nhân kiệt đã được xây dựng
và tồn tại suốt hàng trăm năm.
Về sau, nhân dân trong vùng phối tế 2 vua (vua Hồ Quý Ly và vua Quang
Trung), nên thường quen gọi là Đền vua Hồ, nhưng tên gọi chính xác là đền thờ
nguyên Tổ họ Hồ. Trang Bào Đột năm xưa, cịn có tên Bào Trạch, dần dần đổi
thành Bào Giang, rồi làng Ngũ Bàu (vì được chia làm 5 thôn: Ngọc Viên, Bào An,
Bào Trung, Bào Ngọc và Bào Hậu).
Hằng năm, tại nơi đây tổ chức lễ hội vào ngày 12/3 âm lịch, rất trang nghiêm,
linh đình, mang đậm màu sắc văn hóa dân gian. Riêng Đại tế thì 3 năm một lần, từ
3 đến 5 ngày. Cịn có 300 mẫu đất cơng điền chia cho 5 thôn Ngũ Bàu, lấy hoa lợi

rồi luân phiên tổ chức tế lễ. Các thôn đến đền vua Hồ làm lễ tế, rước thần qua 5
thôn, giếng nền ở giữa đồng, rồi quay trở về đền. Ngồi lễ, cịn có hội như rước
kiệu, cờ người, bài điếm, đánh đu, đấu vật, chọi gà, diễn tuồng chèo, đêm đại tế
bắn pháo hoa…
Trải qua bao thăng trầm thời gian, cả một công trình kiến trúc tâm linh lớn
cũng theo đó mà chẳng cịn lại vết tích. Những người dân trong vùng kể lại, cho
đến trước năm 1971, vẫn còn nền cũ của Đền vua Hồ năm xưa, với những gạch đá
vỡ và 2 cột nanh phía trước. Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, tất cả đã bị san
phẳng. Luyến tiếc một công trình linh thiêng xưa, và cũng từ cái đạo nghĩa “uống
nước nhớ nguồn”, bà con họ Hồ cả nước quyết tâm phục dựng lại đền thờ nguyên
Tổ họ Hồ, làm linh từ của dòng họ Hồ Việt Nam trên nền đất cũ. Dù có thể khơng
hồn thành ngay được cả cơng trình, cũng là nơi để con cháu hằng năm đi về. Bắt
đầu khởi công từ năm 2006, đến nay, đền vua Hồ đã xây dựng được cổng, tường
bao xung quanh, mái nhà bia, hồn thành điện chính. Từ đó đến nay, cứ mỗi dịp
12


đầu xuân năm mới, vào ngày 10, 11 tháng Giêng âm lịch, nơi đây lại tổ chức ngày
tế Tổ họ Hồ Việt Nam, đón con cháu khắp nơi hướng tâm về cội. Và không chỉ
riêng con cháu họ Hồ, cứ đến ngày rằm và mùng một, ngày càng đông người dân
lại về đây, thắp hương cúng bái, tỏ lòng thành kính đối với các vị thần được thờ
trong đền.
Ngày 12/12/2014, Bộ văn hóa thể thao và du lịch có quyết định số 4106/QĐBVHTT&DL xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia - Đền thờ Nguyên tổ Họ Hồ
Việt Nam, Trạng nguyên Hồ Hưng Dật - thần thành hoàng; thờ các vua Hồ và các
bậc tiên liệt họ Hồ Việt Nam. Đây là sự ghi nhận của nhà nước và xã hội đối với
những người có cơng với dân, với nước; với một cơng trình có giá trị lớn về đời
sống văn hóa tâm linh, lịch sử và nghệ thuật kiến trúc.
- Mộ và nhà thờ họ Hồ Tùng Mậu
Mộ và nhà thờ họ Hồ Tùng Mậu, tọa lạc tại thôn 5, xã Quỳnh Đôi, Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An. Tổng diện tích khn viên: 1.500 m2, nơi tơn thờ và tưởng

niệm cụ Hồ Tùng Mậu và các bậc hậu duệ trong dịng họ đã có cơng bảo quốc, hộ
dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Cụ Hồ Tùng Mậu, tên khai sinh là Hồ Bá Cự, sinh ngày 15 tháng 6 năm 1896,
quê ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cụ ra đời trong một gia
đình khoa bảng có truyền thống u nước. Năm 1920 Hồ Tùng Mậu ra nước ngồi,
với hồi bão tìm con đường giải phóng nước nhà khỏi ách thực dân. Năm 1923, tại
Quảng Châu (Trung Quốc), ông cùng Lê Hồng Sơn thành lập Tâm Tâm xã (Tân
Việt Thanh niên đoàn).
Tháng 6 năm 1925, được sự chỉ dẫn của Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu đã
cùng Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong tập hợp những thanh niên tích cực nhất,
chuyển Tâm tâm xã thành tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội.
Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản đoàn (trong lớp 9 người đầu tiên) là tổ
chức nòng cốt trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội.
Những năm 1925 – 1927, Hồ Tùng Mậu làm phụ giảng và phụ trách công tác
tổ chức các khóa học. Tháng 3 năm 1926, đồng chí gia nhập Đảng cộng sản Trung
Quốc.
Trong những năm hoạt động tham gia chống thực dân pháp Hồ Tùng Mậu bị
bắt và bị tù đày nhiều lần. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đơng
Dương, Hồ Tùng Mậu cùng anh em tù vượt ngục, trở về quê hương sau 14 năm bị
giam cầm, đồng chí tiếp tục vào Thừa Thiên Huế tham gia khởi nghĩa giành chính
quyền. Kháng chiến tồn quốc bùng nổ, đồng chí Hồ Tùng Mậu được cử làm Chủ
tịch uỷ ban hành chính kháng chiến Liên khu IV. Tháng 8/1948, đồng chí được
Chính phủ điều động lên Việt Bắc giữ chức Tổng thanh tra Chính phủ. Tháng 2
năm 1951, tại Đại hội lần thứ hai của Đảng, đồng chí Hồ Tùng Mậu được bầu vào
Ban chấp hành Trung ương, giữ chức Trưởng ban kiểm tra Trung ương Đảng.
13


Đồng chí vẫn kiêm giữ chức Tổng thanh tra Chính phủ và Hội trưởng Hội Việt Hoa hữu nghị.
Đang lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp

Mỹ bước vào giai đoạn quyết liệt, đồng chí được cử đi cơng tác Liên khu V.
Khoảng 5 giờ chiều ngày 23/7/1951, trên đường quốc lộ 1A, đồng chí vừa ra khỏi
chợ Cồng (nay là thị trấn Tĩnh Gia, Thanh Hóa) liền bị máy bay giặc Pháp bắn. Thi
hài đồng chí được Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa đưa về mai táng tại xã Quỳnh
Đơi, Đồng chí Hồ Tùng Mậu thọ 55 tuổi.
Nhà thờ và Mộ cụ Hồ Tùng Mậu ở Quỳnh Lưu, Nghệ An đã được xếp hạng
Di tích lịch sử văn hố Quốc gia vào tháng 2/2000 theo Quyết định số 03/QĐ BVHTT.

Ảnh: Nhà thờ và mộ cụ Hồ Tùng Mậu
Hiện nay,
di tích nhà thờ và mộ
đồng chí Hồ Tùng Mậu đang được tu bổ, tơn tạo với tổng dự tốn cơng trình trên
17,5 tỷ đồng với các hạng mục cơng trình: Nhà tưởng niệm nhà cách mạng tiền bối
Hồ Tùng Mậu được xây dựng với tổng diện tích 1.208,66m 2, gồm các hạng mục
chính là: Nhà thờ và nhà bái đường Nhà lưu niệm, sân, cổng, tường rào, bồn cây,
ao cá, bể hoá vàng…; Tu bổ lăng mộ cụ Hồ Tùng Mậu với diện tích 104m 2. Đây sẽ
là khu di tích lịch sử quan trọng của xã Quỳnh Đôi và huyện Quỳnh Lưu, là nơi
tham quan học tập, nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp cách mạng của đồng chí
Hồ Tùng Mậu và là địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ.
- Đình làng Quỳnh Đơi
Đình làng Quỳnh Đôi thuộc xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, đa số sĩ phu, nhân dân Quỳnh Đôi đứng
về phe chủ chiến. Tiêu biểu nhất là các cụ Văn Đức Giai, Dương Dỗn Hài, Hồ Bá
Ơn. Thời Cần Vương, sĩ phu Quỳnh Đôi như các ông Phan Duy Phổ, Hồ Trọng
Miên... đều nhiệt liệt hưởng ứng. Tham gia khởi nghĩa chống Pháp có các cụ giải
nguyên Nguyễn Quý Yêm bỏ quan theo Tống Duy Tân rồi bị Pháp bắt và xử tử
năm 1891 hay như cụ giải nguyên Dương Quế Phổ chống Pháp ở Quỳ Châu bị bắt
giải về Vinh đã uống thuốc độc tự tử để giữ tròn danh tiết (1887). Cũng trong
14



phong trào chống Pháp sau đó ít lâu nổi bật lên những gương mặt khí tiết của
người Quỳnh Đơi như bà Lụa (Trần Thị Trâm), vợ ông Hồ Bá Trị, em ruột ám sát
Hồ Bá Ơn. Bà Lụa đã bơn ba từ Việt Nam sang Xiêm mua vũ khí cho nghĩa qn
Phan Đình Phùng, Nguyễn Xn Ơn... và làm liên lạc cho các chí sĩ cách mạng. Bà
bị giặc bắt, dụ dỗ, tra tấn song không hé răng một lời. Đình làng Quỳnh Đơi đã trở
thành nơi gặp gỡ của các sỹ phu yêu nước trong phong trào Văn Thân Cần Vương.
Trong phong trào xuất dương cứu nước nhiều thanh niên Quỳnh Đôi đã hăng
hái ra đi như Hồ Học Lãm, Nguyễn Nhu, Hồ Ngọc Chương, tiêu biểu là đồng chí
Hồ Tùng Mậu, một trong những đảng viên cộng sản đầu tiên của Quỳnh Lưu được
chủ tịch Hồ Chí Minh đào tạo ở Quảng Châu, Trung Quốc năm 1924. Đồng chí là
tấm gương tiêu biểu cho tinh thần yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Từ năm 1925 trở về sau, phong trào cách mạng ở Nghệ Tĩnh lên cao, đình
Quỳnh Đơi trở thành nơi tập trung các cuộc đấu tranh, hội họp bí mật của các tổ
chức cách mạng như: Tân Việt và Thanh Niên. Những thanh niên yêu nước làng
Quỳnh thường tổ chức các hoạt động văn hố tại đình làng, diễn kịch, tuồng, trị
Trưng Trắc, Trưng Nhị, bình thơ để tuyên truyền, cổ động trong quần chúng nhân
dân.
Trên cơ sở sự phát triển của các tổ chức Tân Việt và Thanh Niên, sau khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào tháng 3-1930 chi bộ Đảng làng Quỳnh được
thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiều cuộc diễn thuyết, mít tinh biểu tình đã
được tổ chức tại đình làng đã lơi kéo nhân dân các làng đến tham dự.
Tại đình làng đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử cách mạng tiêu biểu trong thời
kì 1930-1931. Ngày 20-6-1930 nhân dân Quỳnh Đơi cũng tham gia tích cực trong
cuộc biểu tình tại xã Quỳnh Thuận. Để chuẩn bị cho cuộc biểu tình tối hơm trước
đó, chi bộ Quỳnh Đôi đã tổ chức treo cờ và diễn thuyết tại đình làng để biểu dương
lực lượng và cổ vũ cho khí thế cách mạng.
Ngày 1-8-1930 nhân kỷ niệm ngày thế giới đứng lên đấu tranh chống đế quốc
thì chi bộ Đảng Quỳnh Đơi đã tổ chức treo cờ, rải truyền đơn tại đình làng và các
địa điểm trọng yếu. Đầu tháng 10-1930 chi bộ Quỳnh Đôi đã tổ chức cho nhân dân

tham gia vào phong trào đấu tranh ở Quỳnh Yên. Tự vệ đỏ đã tổ chức treo cờ tại
đình làng để cổ vũ tinh thần cho nhân dân.
Đội tự vệ đỏ làng Quỳnh hàng đêm tập trung diễn tập tại đình làng để chuẩn
bị tinh thần cho các cuộc đấu tranh. Trong các cuộc biểu tình, tiếng trống lệnh
được phát ra từ đình làng đã kêu gọi, thúc dục quần chúng nhân dân tập trung tập
hợp lực lượng tại đình rồi kéo lên phủ huyện đấu tranh, đưa u sách địi quyền lợi.
Khi chính quyền Xơ Viết ra đời ở các thơn xã thì đình trở thành nơi làm việc của
các chính quyền xã Bộ Nơng. Mọi hoạt động chính trị, xã hội, văn hố, qn sự,
kinh tế và văn hoá đều được quy tụ tại đình làng. Chính quyền Xơ Viết ra đời đã
đem lại một cuộc sống mới no ấm, tươi vui cho nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch
sử, tại ngơi đình làng Quỳnh Đơi, chính quyền Xơ viết đứng ra gánh vác công việc
15


như một chính quyền cách mạng theo gương cách mạng tháng Mười Nga. Tại đây
chính quyền đã đứng ra tuyên bố xố bỏ địa tơ, bãi miễn vụ mùa cho nhân dân.
Các lớp học chữ quốc ngữ, lớp học văn hố được tổ chức ngay tại đình làng.
Khơng chỉ vậy đình làng Quỳnh Đơi cịn là chứng tích tố cáo tội ác dã man
của kẻ thù. Tại nơi đây đã diễn ra nhiều hành động trắng trợn tàn bạo của bọn thực
dân phong kiến. Sau các sự kiện đấu tranh và sự ra đời của chính quyền Xơ Viết.
Bọn đế quốc tay sai vô cùng căm tức, chúng mở nhiều cuộc khủng bố trắng để đàn
áp cách mạng. Từ tháng 1-1931 tại Quỳnh Đơi thực dân Pháp kéo về đóng đồn tại
đình làng Quỳnh và đặt 9 điếm canh ở những nơi có phong trào mạnh. Suốt ngày
bọn lính lùng sục bắt bớ những người hoạt động cách mạng đem về tra khảo, giam
giữ. Để uy hiếp tinh thần cách mạng của quần chúng, thực dân Pháp và lũ tay sai
đã tra tấn dã man các chiến sỹ ngày tại đình làng. Chúng dùng vũ lực, dụ dỗ, mua
chuộc cũng khơng làm lay chuyển được ý chí cách mạng của những người con
làng Quỳnh gang thép, kiên cường, thuỷ chung. Giữa tháng 2 năm 1931, chúng đã
đem bắn 9 chiến sỹ cách mạng trước cửa đình làng, đó là các đồng chí: Dương
Ngọc Liễn, Hồng Văn Hợp, Hồ Sỹ Nam, Hồ Phi Phồn, Hồ Sỹ Hoan, Phan Minh

Khang…
Trong cách mạng tháng 8 năm 1945, đình làng Quỳnh Đơi cũng là nơi hội họp
làm việc của Mặt trận Việt Minh. Đình được xây dựng từ năm 1850, nhưng bị
chiến tranh và thiên tai tàn phá làm hư hỏng nhiều. Năm Tự Đức thứ 17 (1854)
đình được thiết kế sửa chữa lại. Ông Phạm Đại Phu giúp làng đá, một số người
cùng lo việc xây dựng đình như ơng Hồ Văn Viễn - cựu lý trưởng, Dương Đức
Quán, Phạm Đình Uyển, Phạm Đình Tối (cụ Hường Phạm) làm quan trong triều
đình Huế. Tồn bộ số gỗ lim làm đình và ngói lợp đều do cụ Phạm Đình Tối bỏ
tiền ra để lo liệu. Đến năm Tân Hợi 1861 tồn bộ cơng trình ngơi đình được hồn
thành. Cột đình 3 người ơm, đình cao hơn cả điện Thái Hịa triều Nguyễn ở Huế.
Đình làng cao ráo thống mát, xung quanh có nhiều cây cối làm cho đình càng
thêm vẻ uy nghiêm.
Đình làng Quỳnh Đôi khá đồ sộ, mặt ngoảnh hướng Đông Nam, gồm có 5
gian, 2 hồi có 6 vì kèo, 24 cột, cột cao 5,3m có đường kính một người ơm khơng
xuể. Đình xây theo kiểu tứ trụ, mái chng, lợp ngói nam ta, vì kèo được chạm trổ
hoa văn hoa lá. Trước sân đình dựng 2 bia đá nói về lịch sử xây dựng và trùng tu
đình.

16
Ảnh: Đình làng Quỳnh Đơi


Đình làng là trung tâm hành chính, văn hố của làng. Đây là nơi diễn ra mọi
sinh hoạt chung của cả làng, hàng năm nhân dân thường tổ chức các kỳ tế lễ, vui
chơi sinh hoạt trong các lễ hội như lễ kỳ yên, lễ kỳ phúc.... Các lễ hội tổ chức tại
đình khá long trọng, nhất là Lễ rước Thần từ Đền về đình . Sau các nghi thức tế lễ
dân làng tổ chức các trò vui chơi, ca hát. Đình làng Quỳnh Đơi cịn là một di tích
cách mạng trong thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh. Năm 1978 đình làng đã được chính
quyền địa phương dùng làm nhà truyền thống của xã để phục vụ công tác giáo dục
truyền thống cách mạng cho con em địa phương. Trong đó có trưng bày một số tài

liệu hiện vật liên quan đến phong trào cách mạng Quỳnh Đôi như báo Lao Động,
mâm chè, mác, gậy mun, va ly, sắc lệnh của Hồ Chủ Tịch…..
Đình làng Quỳnh Đơi được cơng nhận di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia
ngày 30/8/1991.
- Nhà thờ họ Hồ
Nhà thờ họ Hồ Đại tộc, tọa lạc tại thôn 4, xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An. Tổng diện tích khn viên: 6.200 m2, nơi tôn thờ và tưởng niệm cụ Hồ
Kha và các bậc hậu duệ trong dịng họ đã có cơng giúp nước, an dân trong hai cuộc
kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

Cụ Hồ Kha Ảnh: Nhà thờ Hồ đại tộc sau khi được tôn tạo sinh vào khoảng
đầu thế kỷ 14 và
lập nghiệp tại
thôn Quỳ Trạch (nay là xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An ), ông là
cháu đời thứ mười ba của Trạng nguyên, thứ sử châu diễn Hồ Hưng Dật, sau đó
ơng dời sang trang Tiên sinh xã Nghĩa Liệt, tổng đường Khê (thuộc địa phận 3 xã
Nghĩa Thuận, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Trung, huyện Nam Đàn - nay là thị xã Thái Hòa ).
Vào năm 1314 (Giáp Dần, năm đầu đời Trần Minh Tông niên hiệu Đại
Khánh) ông từ Tiên sinh qua Bào Đột đến xem xét vùng đất sa bồi ở Đơng bắc xã
Hồn Hậu. Từ đường thiên Lý vượt qua Đồi Thần, ông thấy phong thủy, hữu tình,
với nhận thức và tâm linh thửa ấy, cụ cho đất này là “Đinh long dẫn mạch, đinh
thủy dáo đường” con cháu đời sau sẽ khai thác những cảnh vật thiên tạo ấy như là
17


điểm trợ lực về tinh thần để gây sự phấn chấn trong học tập, trong sự nghiệp. Sau
một thời gian khai phá ông đã giao khu đất này lại cho con trai là Hồ Hồng kế tục
sự nghiệp khai hoang lập ấp. Ông Hồ Kha được phong làm phúc thần của làng
Quỳnh, “Hồ khai cơ ”.
Nhà thờ họ Hồ được cơng nhận di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia ngày

22/01/1992.
- Nhà thờ họ Nguyễn Triệu Cơ
Nhà thờ họ Nguyễn Triệu Cơ, tọa lạc ở thôn 4 xã Quỳnh Đơi, Quỳnh Lưu,
Nghệ An. Tổng diện tích khn viên: 1.587 m2, nơi tôn thờ, tưởng nhớ công đức
cụ Nguyễn Thạc và các bậc tiền nhân đã có cơng giúp nước, giúp dân trong cuộc
sống đời thường. Cụ Nguyễn Thạc húy là Ma Lạnh công, hiệu là An tâm cư sĩ, ông
là hậu duệ của Đinh Quận Công Nguyễn Bặc. Ông sinh ra và lớn lên ở thôn Hà
Giang, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Nay là thơn Bình Hàn, huyện Nam
Sách, tỉnh Hải Dương. Cuối thời Trần chế độ phong kiến trung ương tập quyền thối
nát, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra
trong cả nước. Năm 1344, Ngô Bệ ở Trà Hưng, Hải Dương dựng cờ khởi nghĩa.
Ông đã tham gia chiến đấu tích cực trong hàng ngũ nghĩa quân. Cuộc khởi nghĩa
kéo dài 16 năm gây tiếng vang rất lớn, tháng 3 năm 1960 cuộc khởi nghĩa bị quân
đội triều Trần dật tắt, Nguyễn Thạc đã lẩn trốn vào vùng Hoan Diễn. Trong một
thời gian khảo sát tìm hiểu địa lý trong vùng và liên hệ cộng tác được với Hồ
Hồng; Hành Khiển, Châu Diễn, Hoàng Khánh, ba người quyết định về định cư ở
thổ đôi chiêu dân lập ấp, khai hoang quyết tâm biến mảnh đất hoang vu này thành
nơi sinh sống lâu dài và con cháu đời sau. Sau khi Hồ Hồng hy sinh, Hoàng Khánh
bận việc quan, tất cả việc xây dựng cơ sở tổ chức thôn trang giao cho Nguyễn Thạc
trông coi. Hai công trình thủy lợi: đập Hói, đật Bờ Re hồn thành dưới sự chỉ huy
của Nguyễn Thạc, diện tích canh tác của Thổ Đôi được mở rộng. Ngày 25 tháng 7
năm Khải Định thứ 9 (1924) cụ được phong làm phúc thần của làng Quỳnh cùng
với các ông Hồ Kha, Hồ Hồng và Hồng Khánh. Hiện nay, tại nhà thờ cịn lưu giữ
nhiều hiện vật, tài liệu có giá trị, tiêu biểu Sắc phong của vua trao cho cả bốn Cụ.

Ảnh: Nhà thờ họ Nguyễn Triệu Cơ
18


Nhà thờ họ Nguyễn Triệu Cơ được công nhận di tích Lịch sử - Văn hóa cấp

quốc gia ngày 19/02/1998.
- Nhà thờ họ Hoàng Khánh
Nhà thờ họ Hoàng Khánh, tọa lạc tại thôn 4, xã Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
An. Tổng diện tích khn viên: 2.660 m2, nơi tơn thờ và tưởng niệm cụ Hoàng
Khánh và các bậc hậu duệ trong dịng họ đã có cơng bảo quốc, hộ dân trong cuộc
đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ảnh: Nhà thờ họ Hoàng Khánh
Cụ Hoàng Khánh sinh năm 1358 ở Diễn Vạn - huyện Diễn Châu, là cháu nội
của Sát Hải đại vương Hoàng Tá Thốn - người có cơng lao to lớn trong cuộc kháng
chiến chống Mơng - Nguyên lần thứ 2 (1258). Tuổi trưởng thành ông theo cha đi
tiểu phạt thổ phỉ ở vùng núi phía tây Thanh Hóa và một số cuộc chinh phạt giặc
Chiêm ở Phương Nam; Ông thi đậu Hương cống và lập được nhiều công lao nên
dần dần được cân nhắc, ông được nhà Trần (Trần Duệ Tông 1375 - 1377) phong
hàm hành Khiển và được giao Quản thủ Lộ Diễn Châu. Trong thời gian đó ơng vừa
tiếp tục củng cố cơ sở kinh tế, quân sự, vừa tổ chức xây dựng những cơ sở phòng
thủ và mở mang kinh tế, văn hóa trong vùng. Người chăm lo kinh tế xã hội của Lộ
Diễn Châu, Hoàng Khánh đã tổ chức chiêu dân lập ấp, tạo nên một xã ở huyện
Quỳnh lưu trong đó có Thổ Đơi xưa (nay là xã Quỳnh Đơi ).
Đền thờ Hồng Khánh được cơng nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc
gia ngày 12/02/1999.
2.4. Các hình thức sử dụng di tích lịch sử - văn hóa ở Quỳnh Lưu để
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử địa phương lớp 12 tại trường THPT
Quỳnh Lưu 4
Trên cở sở các văn bản hướng dẫn của Bộ giáo dục để tài liệu chương trình
bám sát hướng phát triển phẩm chất, năng lực cho người học, nhiều năm gần đây,
nhiều sở giáo dục và đào tạo đã giao quyền tự chủ cho các đơn vị trường xây dựng
19



phân phối chương trình, nội dung dạy học lịch sử địa phương cho phù hợp với từng
trường, từng địa phương. Trong phân phối chương trình của các trường THPT,
phần lịch sử địa phương lịch sử 12 gồm 2 tiết học.
Khi sử dụng di tích trong dạy học lịch sử địa phương, giáo viên có thể lựa
chọn nhiều hình thức dạy học đa dạng: Dạy học tiết lịch sử địa phương trên lớp
(nội khóa); Tổ chức hoạt động ngoại khóa; hoạt động trải nghiệm tại di tích...
Căn cứ vào điều kiện thực tế của từng trường, từng địa phương mà giáo viên
lựa chọn các hình thức khác nhau để giáo dục, phát triển phẩm chất, năng lực cho
học sinh.
2.4.1. Dạy học tiết lịch sử địa phương trên lớp (nội khóa)
Đây là hình thức dạy học chủ yếu được giáo viên lựa chọn bởi nó phù hợp với
thời lượng của chương trình, đồng thời còn phù hợp vào điều kiện và kinh phí của
mỗi trường. Khi sử dụng hình thức này, giáo viên có thể đưa di tích lịch sử làm tư
liệu cho tiết lịch sử địa phương trên lớp theo phân phối chương trình làm nguồn
minh chứng thực tế, sinh động, cụ thể gần gũi với sự kiện lịch sử.
Giáo viên có thể sử dụng tư liệu về di tích dưới hình thức sử dụng tài liệu như
tranh ảnh, video, sưu tầm các tài liệu có liên quan, kết hợp với phương tiện dạy học
hiện đại (máy tính, máy chiếu, một số phần mềm tiện ích…). Cụ thể:
* Sử dụng di tích lịch sử - văn hóa để dạy lịch sử địa phương Nghệ An lớp 12
Phần Lịch sử địa phương Nghệ An được dạy trong 2 tiết:
- Tiết 1: Tìm hiểu di tích lịch sử - văn hóa: Đình làng Quỳnh Đơi.
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
TÌM HIỂU LỊCH SỬ NGHỆ AN QUA MỘT SỐ DI TÍCH
LỊCH SỬ - VĂN HĨA

I. MỤC TIÊU
1. Năng lực
- Học sinh trình bày được một số hiểu biết về đình làng Quỳnh Đơi.
- Học sinh trình bày được được bối cảnh xây dựng, vai trò và các sự kiện lịch
sử quan trọng diễn ra tại đình làng Quỳnh Đơi.

- Học sinh đánh giá được vai trị, vị trí của thế hệ trẻ nói chung và học sinh
nói riêng trong việc giữ gìn và phát huy đình làng Quỳnh Đôi.
2. Phẩm chất
- Nhận thức đúng giá trị, vai trị của di tích lịch sử - văn hóa địa phương.
- Bồi dưỡng tình cảm, lịng biết ơn cội nguồn, quê hương.
II.THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU
20


- Máy tính, điện thoại thơng minh, mạng Internet.
- Các hình ảnh, video về đình làng Quỳnh Đơi.
III.TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY HỌC
1. Hoạt động 1
Tạo tình huống: Thực hiện trò chơi Mảnh ghép lịch sử.
a. Mục tiêu: Tạo hứng thú cho học sinh, thu hút học sinh sẵn sàng thực hiện
nhiệm vụ học tập của mình. Học sinh khắc sâu kiến thức nội dung bài học.
b. Tổ chức thực hiện:
- Bước 1: GV công bố luật chơi
- Bước 2: HS lựa chọn mảnh ghép có chứa câu hỏi
- Bước 3: HS trả lời, HS khác bổ sung
- Bước 4: GV cơng bố đáp án, từ khóa mảnh ghép
c. Dự kiến sản phẩm:
1. Lịch sử
2. Di tích
3. Quỳnh Đơi
4. Xơ Viết
5. Cần Vương
6. Tự vệ đỏ
Từ khóa mảnh ghép: Đình làng Quỳnh Đơi
2. Hình thành kiến thức mới

2.1. Nội dung 1 - “Tìm hiểu lịch sử”
a). Mục tiêu
- HS trình bày được những hiểu biết về đình làng Quỳnh Đơi.
- HS giải thích được nguồn gốc và vai trị của đình làng Quỳnh Đơi.
b). Tổ chức thực hiện
- Bước 1:
GV thông báo cách đánh giá, cho điểm từng phần, giải thưởng cho nhóm
thắng cuộc.
Nội dung: Đúng, đủ, chọn lọc (20 điểm)
Hình thức: Sáng tạo, phù hợp, cơng phu (20 điểm)
Thời gian: Dưới 6 phút cho mỗi hoạt động của 3 nhóm (10 điểm)
21


- Bước 2:
GV tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm, chuẩn bị ở nhà.
Chủ đề: Tìm hiểu về di tích lịch sử - văn hóa: Đình làng Quỳnh Đơi.
Lần lượt hai nhóm lên trình bày sản phẩm đã chuẩn bị.
- Bước 3:
+ Các thành viên của các nhóm nhóm đánh giá phần trình bày, hình thức tổ
chức và nội dung của nhau, phản biện và chất vấn.
+ GV đánh giá, nhận xét, cho điểm từng nhóm.
+ GV sử dụng tư liệu, hình ảnh trình chiếu powerpoint để giới thiệu thêm cho
HS về đình làng Quỳnh Đơi.
- Sản phẩm:
Đình làng Quỳnh Đôi thuộc xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Đây là di tích lịch sử - văn hóa có ý nghĩa hết sức quan trọng, gắn liền với quá
trình đấu tranh cách mạng của nhân dân huyện Quỳnh Lưu.
Đình làng Quỳnh Đơi khá đồ sộ, mặt ngoảnh hướng Đơng Nam, gồm có 5
gian, 2 hồi có 6 vì kèo, 24 cột, cột cao 5,3m có đường kính một người ơm khơng

xuể. Đình xây theo kiểu tứ trụ, mái chng, lợp ngói nam ta, vì kèo được chạm trổ
hoa văn hoa lá. Trước sân đình dựng 2 bia đá nói về lịch sử xây dựng và trùng tu
đình.
Đình làng là trung tâm hành chính, văn hố của làng. Đây là nơi diễn ra mọi
sinh hoạt chung của cả làng, hàng năm nhân dân thường tổ chức các kỳ tế lễ, vui
chơi sinh hoạt trong các lễ hội như Lễ kỳ yên, lễ kỳ phúc.... Các lễ hội tổ chức tại
đình khá long trọng, nhất là Lễ rước Thần từ Đền về đình . Sau các nghi thức tế lễ
dân làng tổ chức các trò vui chơi, ca hát.
Khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, đa số sĩ phu, nhân dân Quỳnh Đôi
đứng về phe chủ chiến. Tiêu biểu nhất là các cụ Văn Đức Giai, Dương Doãn Hài,
Hồ Bá Ơn. Thời Cần Vương, sĩ phu Quỳnh Đơi như các ông Phan Duy Phổ, Hồ
Trọng Miên... đều nhiệt liệt hưởng ứng. Đình làng Quỳnh Đơi đã trở thành nơi gặp
gỡ của các sỹ phu yêu nước trong phong trào Văn Thân Cần Vương.
Trong phong trào xuất dương cứu nước nhiều thanh niên Quỳnh Đôi đã hăng
hái ra đi như Hồ Học Lãm, Nguyễn Nhu, Hồ Ngọc Chương, tiêu biểu là đồng chí
Hồ Tùng Mậu, một trong những đảng viên cộng sản đầu tiên của Quỳnh Lưu được
chủ tịch Hồ Chí Minh đào tạo ở Quảng Châu, Trung Quốc năm 1924. Đồng chí là
tấm gương tiêu biểu cho tinh thần yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Từ năm 1925 trở về sau, phong trào cách mạng ở Nghệ Tĩnh lên cao, đình
Quỳnh Đơi trở thành nơi tập trung các cuộc đấu tranh, hội họp bí mật của các tổ
chức cách mạng như: Tân Việt và Thanh Niên. Những thanh niên yêu nước làng
22


Quỳnh thường tổ chức các hoạt động văn hoá tại đình làng, diễn kịch, tuồng, trị
Trưng Trắc, Trưng Nhị, bình thơ để tuyên truyền, cổ động trong quần chúng nhân
dân.
Trên cơ sở sự phát triển của các tổ chức Tân Việt và Thanh Niên, sau khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào tháng 3-1930 chi bộ Đảng làng Quỳnh được
thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiều cuộc diễn thuyết, mít tinh biểu tình

đã được tổ chức tại đình làng đã lơi kéo nhân dân các làng đến tham dự.
Tại Đình làng đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử cách mạng tiêu biểu trong thời
kì 1930-1931. Khi chính quyền Xơ Viết ra đời ở các thơn xã thì đình trở thành nơi
làm việc của các chính quyền xã Bộ Nơng. Mọi hoạt động chính trị, xã hội, văn
hoá, quân sự, kinh tế và văn hoá đều được quy tụ tại đình làng. Chính quyền Xơ
Viết ra đời đã đem lại một cuộc sống mới no ấm, tươi vui cho nhân dân. Lần đầu
tiên trong lịch sử, tại ngơi đình làng Quỳnh Đơi, chính quyền Xơ viết đứng ra gánh
vác cơng việc như một chính quyền cách mạng theo gương cách mạng tháng Mười
Nga. Tại đây chính quyền đã đứng ra tun bố xố bỏ địa tơ, bãi miễn vụ mùa cho
nhân dân. Các lớp học chữ quốc ngữ, lớp học văn hoá được tổ chức ngay tại đình
làng.
Khơng chỉ vậy Đình làng Quỳnh Đơi cịn là chứng tích tố cáo tội ác dã man
của kẻ thù. Tại nơi đây đã diễn ra nhiều hành động trắng trợn tàn bạo của bọn
thực dân phong kiến. Sau các sự kiện đấu tranh và sự ra đời của chính quyền Xô
Viết. Bọn đế quốc tay sai vô cùng căm tức, chúng mở nhiều cuộc khủng bố trắng
để đàn áp cách mạng. Chúng dùng vũ lực, dụ dỗ, mua chuộc cũng khơng làm lay
chuyển được ý chí cách mạng của những người con làng Quỳnh gang thép, kiên
cường, thuỷ chung. Giữa tháng 2 năm 1931, chúng đã đem bắn 9 chiến sỹ cách
mạng trước cửa đình làng, đó là các đồng chí: Dương Ngọc Liễn, Hồng Văn
Hợp, Hồ Sỹ Nam, Hồ Phi Phồn, Hồ Sỹ Hoan, Phan Minh Khang…
Trong cách mạng tháng 8 năm 1945, đình làng Quỳnh cũng là nơi hội họp
làm việc của Mặt trận Việt Minh.
Đình làng Quỳnh Đơi được cơng nhận di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia
ngày 30/8/1991.
2.2. Nội dung 2 - “Theo dịng lịch sử”
a). Mục tiêu
- HS trình bày được các kiến thức về đình làng Quỳnh Đơi.
- HS giải thích được một số sự kiện cơ bản về đình làng Quỳnh Đơi.
b). Tổ chức thực hiện
- Bước 1: Hai nhóm lần lượt trả lời 8 câu hỏi, mỗi câu hỏi có thời gian trả lời

15 giây, trả lời đúng được 5 điểm.
+ Nội dung:
23


1. Đình làng Quỳnh Đơi được xây dựng năm nào?
2. Đình làng Quỳnh Đơi là điểm gặp gỡ của các chí sĩ u nước trong phong
trào gì?
3. Tên của một trong những đảng viên đảng cộng sản đầu tiên của Quỳnh
Lưu gắn liền với phong trào xuất dương cứu nước?
4. Nhà nước phong tặng danh hiệu di tích lịch sử - văn hóa cho đình làng
Quỳnh Đơi vào năm nào?
5. Lễ hội quan trọng nhất được tổ chức tại đình làng Quỳnh Đôi là?
6. Tên của lực lượng cách mạng trong thời kỳ 1930 – 1931 ở đình làng
Quỳnh Đơi?
7. Giữa tháng 2 năm 1931, đình làng Quỳnh Đơi đã diễn ra sự kiện gì?
8. Tổ chức nào trong cách mạng tháng Tám năm 1945 đã từng hội họp và
làm việc tại đình làng Quỳnh Đơi?
- Sản phẩm:
1. Đáp án: 1850
2. Đáp án: Cần Vương
3. Đáp án: Hồ Tùng Mậu
4. Đáp án: 1991
5. Đáp án: Lề rước Thần
6. Đáp án: Tự vệ đỏ
7. Đáp án: 9 chiến sĩ cách mạng bị Pháp xử bắn trước cửa đình
8. Đáp án: Mặt trận Việt Minh
- Bước 3: GV nhận xét, cho điểm phần thi thứ 2 của 2 nhóm
2.3. Nội dung 3 – “Nhận định lịch sử”
a). Mục tiêu

- HS đánh giá vai trị của di tích lịch sử - văn hóa đình làng Quỳnh Đơi.
- HS rút ra được bài học của thế hệ trẻ đối với việc bảo vệ, giữ gìn di tích lịch
sử, văn hóa.
b). Tổ chức thực hiện
- Bước 1: GV cho 2 nhóm trình bày vai trị, trách nhiệm của thế hệ trẻ trong
việc bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa đình làng Quỳnh Đơi nói riêng và các di tích
lịch sử - văn hóa của đất nước nói chung.
- Bước 2: GV nhận xét, bổ sung, chốt kiến thức.
24


- Bước 3: GV tổng kết, đánh giá bài học, nhận xét, cho điểm 2 nhóm và trao
thưởng.
- Sản phẩm:
+ Vai trị:
Lưu giữ một bộ phận văn hóa của địa phương, đất nước.
Có giá trị lớn về đời sống văn hóa tâm linh, lịch sử và nghệ thuật kiến trúc.
Thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” răn dạy các thế hệ sau về công lao
của các anh hùng dân tộc đã có cơng với đất nước.
+ Trách nhiệm thế hệ trẻ:
Biết ơn những anh hùng có cơng với đất nước.
Giữ gìn, bảo tồn, phát huy và quảng bá di tích.
3. Hoạt động 3: Luyện tập (Thực hiện trên lớp, hướng dẫn thực hiện 5 phút)
a). Mục tiêu: Hệ thống hóa kiến thức
b). Tổ chức thực hiện
- Bước 1: GV chia sẻ màn hình trị chơi Chiếc nón kỳ diệu
- Bước 2: HS tham gia trò chơi, trả lời câu hỏi
- Bước 3: GV chiếu đáp án, nhận xét.
- Sản phẩm:
1. Tự Đức

2. Lễ Kỳ Phúc
3. Tân Việt
4. Trần Thị Trâm
5. Phạm Đình Tối
4. Hoạt động 4: Vận dụng (5 phút ) giao nhiệm vụ làm ở nhà
a). Mục tiêu
HS làm bài tập nhằm vận dụng kiến thức mới mà HS đã được lĩnh hội để giải
quyết những vấn đề mới trong học tập và thực tiễn
b). Tổ chức thực hiện
- Bước 1: GV chia sẻ màn hình giao nhiệm vụ cho HS:
HS và thế hệ trẻ cần có những hành động thiết thực gì để bảo tồn và phát huy
các di tích lịch sử văn hóa ở địa phương.

25


×