Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Quản lý tài chính của các đơn vị hành chính sự nghiệp hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.83 KB, 104 trang )

Lời mở đầu
Hơn mời năm qua, công cuộc cải cách và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở
Việt Nam đã diễn ra sôi động, toàn diện, tạo thế và lực cho đất nớc phát triển đi
lên. Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, công cuộc cải cách hành chính cũng đã
đợc triển khai, vai trò quản lý nhà nớc về chính trị, kinh tế, xã hội đã đợc khẳng
định và đợc tăng cờng trong khuôn khổ pháp lý... Tuy nhiên, cho đến nay, nhìn
chung bộ máy quản lý vẫn cồng kềnh, trùng lắp, chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ và thẩm quyền giữa các cơ quan. Thực trạng biên chế ở các cơ quan có
tình hình vừa thừa, vừa thiếu, cơ cấu các loại công chức còn bất hợp lý, vừa gây
lãng phí lao động, tiền của vừa hạn chế hiệu quả công tác. Về tiền lơng, sau hơn
7 năm thực hiện Nghị định 25-CP ngày 23/5/1993, trong thực tiễn đã và đang
phát sinh một số diễn biến phức tạp, nhiều yếu tố bất hợp lý nảy sinh đòi hỏi
phải đợc giải quyết kịp thời. Chế độ tiền lơng đối với cán bộ, công chức hiện nay
đã và đang gây khó khăn cho việc thu hút ngời có năng lực vào làm việc ở các cơ
quan nhà nớc. Tiền lơng và thu nhập không còn là động lực để phát huy tính tích
cực, sáng tạo của cán bộ, công chức. Phơng thức cấp phát kinh phí hành chính,
sự nghiệp dựa trên cơ sở dự toán chi tiết theo mục lục NSNN, trong khi chất lợng
dự toán của nhiều đơn vị cha cao, cha kịp thời, nhiều khoản chi đợc dự toán và
cấp phát trên cơ sở biên chế hoặc quỹ lơng đã làm giảm động lực tiết kiệm,
không khuyến khích tinh giản biên chế...
Thực tế bức xúc trên đây đặt ra đòi hỏi phải tìm và lựa chọn các giải pháp
để nâng cao hiệu lực của Bộ máy quản lý nhà nớc, nâng cao chất lợng các dịch
vụ công. Đồng thời, cải thiện đời sống cho cán bộ, công chức trên cơ sở sử dụng
kinh phí ngân sách một cách tiết kiệm, hiệu quả. Trong lĩnh vực tài chính, Nhà
nớc hiện nay đã và đang tiến hành hàng loạt biện pháp để góp phần lành mạnh
hoá nền tài chính quốc gia, nâng cao chất lợng quản lý, sử dụng tiết kiệm và có
hiệu quả nguồn lực của đất nớc kể cả việc khẩn trơng xúc tiến cải tiến chế độ
tiền lơng và thực thi các biện pháp đảm bảo xã hội, trong đó thực hiện khoán chi
hành chính và cơ chế tự trang trải là giải pháp cần thiết, có hiệu quả để tạo bớc
đột phá mới.
Mục tiêu của đề tài đặt ra là trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về


lý luận và thực tiễn của khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải để đề xuất
những nội dung chủ yếu về khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải ở nớc ta,
góp phần thúc đẩy cải cách hành chính trên lĩnh vực tài chính trong giai đoạn
hiện nay. Vì đây là đề tài nghiên cứu ứng dụng nên trọng tâm của đề tài tập trung
1
chủ yếu vào việc đề xuất những nội dung cơ bản của phơng pháp quản lý mới
này. Qua đó phục vụ cho việc xây dựng đề án khoán chi hành chính và thực hiện
cơ chế tự trang trải để thí điểm thực hiện trong thực tiễn cuộc sống. Đến nay đề
án khoán chi hành chính đã đợc tiếp nhận và triển khai thí điểm tại Thành phố
Hồ Chí Minh bớc đầu đã thu đợc kết quả tốt. Cơ chế tự trang trải hiện cũng đang
đợc áp dụng thí điểm đối với đài truyền hình Việt nam và khả năng sẽ đợc mở
rộng cho một số đơn vị sự nghiệp có thu khác.
Kết cấu đề tài đợc chia làm 3 chơng:
Chơng I: Một số vấn đề cơ bản về việc thực hiện khoán chi hành chính và
cơ chế tự trang trải.
Chơng II: Thực trạng tình hình quản lý tài chính của các đơn vị hành chính
sự nghiệp hiện nay.
Chơng III: Các giải pháp tài chính để thực hiện khoán chi hành chính và cơ
chế tự trang trải.
Quá trình nghiên cứu Ban chủ nhiệm đề tài đã nhận đợc sự ủng hộ và hợp
tác chặt chẽ của các cơ quan có liên quan nh Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Bộ
Lao động Thơng binh và xã hội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đặc biệt là
một số Vụ, Cục trong Bộ nh Vụ Hành chính sự nghiệp, Vụ Ngân sách nhà nớc và
một số nhà khoa học trong ngành tài chính. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu
có hạn (1 năm), mặt khác vì đây là vấn đề khá mới mẻ, phức tạp nên đề tài
không thể tránh khỏi một số thiếu sót, Ban chủ nhiệm rất mong tiếp tục nhận đợc
ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa học và các chuyên gia trên lĩnh vực
này nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa phơng pháp quản lý tài chính nói chung
và quản lý ngân sách nhà nớc nói riêng trong thời gian tới.
Chơng I

một số vấn đề cơ bản về việc thực hiện
2
khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải
I. Khái niệm về khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải.
Để nghiên cứu về khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải trớc hết cần
thống nhất cách hiểu về khái niệm này. Tuy nhiên, sẽ rất khó khăn nếu nh muốn
đa ra những khái niệm hoàn chỉnh. Trong phạm vi Đề tài này, chúng tôi chỉ có ý
định đa ra khái niệm nhằm mục đích thống nhất cách hiểu và qua đó có thể thấy
rõ đợc những điểm cơ bản của những cơ chế này trong số rất nhiều cơ chế quản
lý tài chính đã, đang và sẽ có trong thực tế.
trr Để thống nhất cách hiểu và quan niệm về khoán chi hành chính và cơ chế
tự trang trải, trớc hết cần phân loại các cơ quan, đơn vị mà lâu nay vẫn đợc gọi
chung là đơn vị hành chính sự nghiệp. Các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp
hiện nay có thể phân thành 4 loại nh sau:
I + Cơ quan hành chính thuần tuý;
+ Cơ quan hành chính có thu (chủ yếu do cơ chế, do quy định của nhà n-
ớc cho phép đợc để lại một phần phí, lệ phí, ví dụ nh Kho Bạc Nhà nớc, cơ quan
thuế, Hải quan...);
+ Đơn vị sự nghiệp không có thu, hoặc có nguồn thu rất nhỏ so với nhu
cầu chi (trong thực tế, hầu hết các đơn vị sự nghiệp đều có thu).
+ Đơn vị sự nghiệp có thu, loại này có thể phân thành nhiều loại theo khả
năng cân đối giữa nguồn thu và nhu cầu chi cho hoạt động của đơn vị.
Từ cách phân loại nh trên, cùng với các khái niệm đợc trình bày dới đây,
sẽ cho phép xác định cơ chế quản lý phù hợp với từng loại hình hoạt động của
đơn vị.
1/ Khoán chi hành chính.
Cho đến nay cha từng có ai đa ra khái niệm này một cách chính thức, điều
đó cũng dễ hiểu vì bản thân cụm từ khoán chi cũng đã nói lên những nội dung
cơ bản của nó.
Khoán chi hành chính là một phơng pháp quản lý trong đó Nhà nớc (mà

trực tiếp là đơn vị có thẩm quyền duyệt dự toán ngân sách) giao cho các cơ quan
hành chính nhận khoán mức kinh phí ổn định trong một thời kỳ ( có thể là 1 năm
hoặc một số năm) để có thể chủ động sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu quả trên
cơ sở hoàn thành đợc chức năng, nhiệm vụ đợc giao. Phần kinh phí tiết kiệm đợc
cơ quan nhận khoán có thể đợc sử dụng vào các mục đích theo quy định mang
tính chất định hớng và có hớng dẫn phơng thức phân chia, còn việc sử dụng cụ
3
thể nh thế nào phải căn cứ vào quy chế phân phối do đơn vị tự xây dựng trên cơ
sở đảm bảo nguyên tắc công khai, dân chủ.
Với khái niệm này, khoán chi hành chính đợc hiểu là việc khoán chi phí
cho các cơ quan hành chính chứ không phải là khoán các khoản chi phí hành
chính cho tất cả các cơ quan, đơn vị nói chung. Nh vậy, cơ chế khoán chi chỉ
thực hiện đối với các cơ quan hành chính thuần tuý, còn các cơ quan hành chính
có thu cần phải có một cơ chế tài chính riêng, thậm chí cũng có những ý kiến
cho rằng có thể cho phép các cơ quan đó thực hiện cơ chế tự trang trải hoặc
khoán phần kinh phí còn lại đợc ngân sách nhà nớc cấp phát tuỳ theo khả năng
nguồn thu và nhu cầu chi. Thực chất của các khoản thu của các cơ quan này là
do quy định của Nhà nớc mà có, nó hầu nh không liên quan đến hoạt động của
đơn vị nên việc thực hiện khoán chi hoặc áp dụng cơ chế tự trang trải ít có tác
động khuyến khích nâng cao chất lợng hoạt động. Mặt khác, là các cơ quan hành
chính nên việc thực hiện các cơ chế này cũng rất dễ ảnh hởng tới chất lợng hoạt
động của chính các cơ quan đó.
2/ Cơ chế tự trang trải:
Cũng tơng tự nh trên, bản thân khái niệm tự trang trải trong quản lý tài
chính cũng đã nói lên những nội dung cơ bản của nó. Tuy nhiên, ở đây có hai
cách hiểu khác nhau cần phải làm rõ.
Khái niệm tự trang trải theo nghĩa hẹp, là tối thiểu phải có nguồn thu đủ
bù đắp toàn bộ các chi phí cho hoạt động của mình (lấy thu bù chi).
Theo nghĩa rộng, tự trang trải có thể hiểu là có nguồn thu không đủ bù đắp
toàn bộ chi phí hoạt động nhng có thể tự trang trải một số chi phí nào đó, ví dụ

nh tiền lơng chẳng hạn hoặc có thể tự trang trải một phần các chi phí (tính theo
tổng thể). Nh vậy, theo nghĩa rộng thì hầu hết các đơn vị sự nghiệp có thu đều có
thể thực hiện cơ chế tự trang trải một phần kinh phí, phần tự trang trải đó coi nh
khoán cho đơn vị. Với cách hiểu này, chúng ta có thể xây dựng một cơ chế tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, trong đó có phân loại các đơn vị theo
mức độ và khả năng tự trang trải.
Tuy vậy, dù hiểu theo cách nào đi nữa thì cơ chế tự trang trải cũng là việc
Nhà nớc (mà trực tiếp là đơn vị có thẩm quyền duyệt dự toán ngân sách) giao
cho các đơn vị sự nghiệp có thu (trừ những đơn vị có nguồn thu nhỏ) đợc dùng
nguồn thu để trang trải toàn bộ hoặc một số chi phí hoạt động của đơn vị ổn định
trong một thời kỳ( một năm hoặc một số năm) để đơn vị có thể chủ động sử dụng
một cách tiết kiệm, hiệu quả nguồn thu trên cơ sở hoàn thành đợc chức năng,
4
nhiệm vụ đợc giao. Phần kinh phí tiết kiệm đợc đơn vị có thể sử dụng vào các
mục đích theo quy định, trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc công khai, dân chủ.
Nh vậy, với khái niệm này, phạm vi áp dụng của cơ chế đã đợc xác định
rõ là các đơn vị sự nghiệp có thu và với nguồn thu không quá nhỏ.
Tóm lại, thực chất của khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải là việc
thực hiện chuyển đổi phơng thức quản lý, cấp phát và thanh, quyết toán kinh phí
ngân sách nhà nớc đối với một số cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp.
II/ Sự cần thiết của việc thực hiện khoán chi hành chính và cơ chế tự
trang trải.
Thực hiện khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải có ý nghĩa quan
trọng trên nhiều mặt, cụ thể:
Về vấn đề biên chế, tổ chức bộ máy và hiệu quả công việc của cơ quan:
Với cơ chế khoán chi hành chính, cơ chế tự trang trải, các đơn vị thực hiện sẽ
tích cực sắp xếp lại biên chế, tổ chức và phân công lao động trong cơ quan hợp lý
hơn, xoá bỏ tâm lý muốn tăng biên chế khi cha thực sự cần thiết... từ đó sẽ làm
cho biên chế của cơ quan, đơn vị đợc gọn nhẹ, nâng cao hiệu quả và chất lợng
công việc của đơn vị.

Về thu nhập, chất lợng cán bộ, hiệu quả công tác của từng cán bộ, công
chức: Có thể thấy, với đội ngũ cán bộ, công chức đợc tinh giản trong khi tổng
quỹ lơng của đơn vị vẫn đợc giữ nguyên sẽ tạo điều kiện nâng cao thu nhập cho
cán bộ công chức, đồng thời giải quyết chế độ, trợ cấp thêm cho những ngời dôi
d do quá trình sắp xếp lại lao động. Thu nhập của từng cán bộ đợc nâng cao, tổ
chức lao động hợp lý sẽ tạo điều kiện để mỗi cán bộ phát huy đợc hết khả năng
của mình, chất lợng cán bộ cũng vì thế đợc nâng cao và đảm bảo hiệu quả công
tác của mỗi cán bộ công chức.
Về việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng
kinh phí ngân sách: Với việc cho phép các đơn vị có quyền quyết định việc sử
dụng phần kinh phí tiết kiệm đợc vào những mục đích khác theo quy định sẽ
tăng cờng ý thức tiết kiệm trong sử dụng kinh phí, việc sử dụng kinh phí cũng sẽ
phù hợp hơn với thực tế của mỗi đơn vị, kinh phí ngân sách nhà nớc sẽ đợc sử
dụng có hiệu quả hơn.
ý nghĩa chung về kinh tế - xã hội: sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm lao
động xã hội, tiết kiệm vốn, tài sản chung. Với những phân tích nh trên, có thể
khẳng định rằng thực hiện khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải không chỉ
5
có ý nghĩa đối với việc nâng cao chất lợng, hiệu quả hoạt động, tiết kiệm kinh
phí ngân sách của các cơ quan hành chính, sự nghiệp mà cả đối với toàn xã hội.
Để góp phần thực hiện tốt chủ trơng cải cách hành chính thúc đẩy thực
hành tiết kiệm, vấn đề thực hiện khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải thời
gian gần đây đã đợc Đảng và Nhà nớc ta quan tâm chú ý. Sự cần thiết của phơng
pháp quản lý này xuất phát từ một số cơ sở khoa học và thực tiễn sau:
- Kinh nghiệm thực tế các nớc đã cho thấy một trong những biện pháp
quan trọng góp phần thực hiện có hiệu quả công việc cải cách hành chính là phải
đa ra giới hạn ngân sách hàng năm của các cơ quan Nhà nớc. Điều này đòi hỏi
các cơ quan, đơn vị phải tự hạn chế việc chi tiêu của mình trên nguyên tắc hạn
chế việc tuyển thêm ngời. Hoạt động kiểm soát sử dụng kinh phí ngân sách tập
trung vào quá trình dự toán ngân sách. Khi ngân sách đã đợc thông qua, vấn đề

cách thức chi tiêu là do mỗi đơn vị tự quyết định để đạt đợc mục tiêu hoàn thành
nhiệm vụ đợc giao theo chức năng, nhiệm vụ đã đợc quy định. Các cơ quan sẽ
phải tự tổ chức, phân công lại các vị trí công tác để đảm bảo cho việc sử dụng
tiết kiệm và quản lý cán bộ có chất lợng cao nhất.
- Để thực hiện đợc việc cải cách tiền lơng, tăng thu nhập đối với khu vực
hành chính sự nghiệp trong điều kiện ngân sách nhà nớc không phải cấp phát
thêm thì thực hiện khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải sẽ có tác dụng
mạnh mẽ thúc đẩy các cơ quan đổi mới, rà soát lại để có sự phân định rõ nhiệm
vụ chức năng của từng bộ phận, sắp xếp lại biên chế và điều hành quản lý. Chỉ có
trên cơ sở tổ chức lại lao động hợp lý, quản lý chi tiêu chặt chẽ thì đơn vị mới có
điều kiện để tăng thu nhập cho cán bộ trong đơn vị.
- Thực hiện khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải là biện pháp hữu
hiệu để hạn chế việc xin tăng biên chế hàng năm, mở rộng quyền tự chủ, quyền
tự quản của đơn vị trong việc điều hành chi tiêu tài chính, nâng cao ý thức tiết
kiệm và tinh thần đấu tranh chống lãng phí của các cán bộ trong đơn vị hành
chính sự nghiệp.
- Tạo điều kiện cho cơ quan, đơn vị có thể thực hiện khuyến khích vật chất
xứng đáng đối với những ngời làm việc có năng lực, có hiệu quả, tạo ra phong
trào thi đua thực sự trong đơn vị, thu hút đợc ngời tài, góp phần hạn chế tình
trạng chảy máu chất xám. Hợp pháp hoá đợc các khoản thu nhập chính đáng của
cán bộ, hạn chế các hiện tợng tiêu cực trong quản lý và lãng phí trong chi tiêu tài
chính. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi ngời và của tập thể cán bộ, công
chức trong việc thực hiện tốt công việc đợc giao.
6
- Là biện pháp quan trọng thúc đẩy các cơ quan phải thờng xuyên xem xét
lại về tổ chức, về chức năng nhiệm vụ của từng ngời, từng bộ phận cũng nh tự
điều chỉnh các định mức chi tiêu của đơn vị mình sao cho hợp lý, phù hợp với
khả năng tài chính hiện có.
Lợi ích đem lại từ việc khoán quỹ lơng và ngân sách hoạt động là: tăng c-
ờng chủ động cho đn vị hành chính sự nghiệp, xoá bỏ cơ chế "xin-cho", giảm

phiền hà và tiêu cực; thực hiện có hiệu quả chính sách tiết kiệm; tạo điều kiện
thực hiện cơ chế trả lơng theo kết quả công việc, đảm bảo công bằng, có điều
kiện tăng thu nhập, khuyến khích tinh thần hăng say làm việc, tận tuỵ với công
việc của cán bộ công chức; tạo điều kiện cho cấp trên tập trung vào việc kiểm tra
chất lợng công việc, đem lại hiệu quả trong quản lý của các cấp.
Tóm lại, khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải là một việc
làm khá và phức tạp nhng nó sẽ là biện pháp quan trọng có tính đột phá nhằm sử
dụng tiết kiệm, hiệu quả biên chế, kinh phí ngân sách nhà nớc, khắc phục những
yếu kém trong hiệu quả công việc của một số cơ quan hành chính sự nghiệp,
nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nớc. Đồng thời, thực hiện khoán chi
hành chính và cơ chế tự trang trải sẽ thúc đẩy quá trình cải cách hành chính, góp
phần vào việc thực hiện cải cách tiền lơng đang đợc đặt ra.
III/ Kinh nghiệm nớc ngoài.
1/ Lý thuyết quản lý theo đầu ra và những ứng dụng trong việc thực
hiện kinh phí trọn gói.
Đầu những năm 80, lý thuyết quản lý đầu ra đã đợc nghiên cứu và có tác
động mạnh đến việc quản lý tài chính công của các nớc phát triển, nội dung cơ
bản của lý thuyết này là chuyển từ việc quản lý chặt chẽ đầu vào sang việc cố
định những gì đợc cung cấp ở đầu vào, tăng chủ động, linh hoạt trong vận hành
của bản thân hệ thống và chủ yếu tập trung quản lý sản phẩm đầu ra của hệ
thống ấy. Với lý thuyết trên, nhiều nớc đã vận dụng để chuyển đổi phơng thức
quản lý của mình nhất là trong quản lý chi tiêu ngân sách, chuyển từ việc cấp
kinh phí theo những nội dung chi tiết, cụ thể sang cấp kinh phí trọn gói cho một
số hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nớc. Có thể khái quát về lý thuyết
quản lý đầu ra bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ mô tả về lý thuyết quản lý đầu ra
7
Hoạt
động của
hệ thống

(cơ quan,
tổ chức)
Đầu ra
(sản
phẩm,
dịch vụ,
kết quả
công)
tác)
Đối tợng
đợc h-
ởng,
hoặc
chịu tác
động
Hiệu quả hoạt động của hệ thống:
tơng quan giữa đầu vào và đầu ra (3)
Thông tin phản hồi để đánh giá và điều chỉnh
đầu vào hoặc đầu ra (2)
Hiệu quả: gồm hiệu quả hoạt động của hệ thống và hiệu quả của
chính sách so với mục tiêu đề ra (1)
Sơ đồ trên có thể giải thích đối với mọi lĩnh vực sản xuất, cung ứng dịch
vụ và các hoạt động quản lý của các tổ chức. Tuy nhiên, trong phạm vi Đề tài
này, chúng tôi chỉ trình bày đối với hoạt động quản lý và cung cấp dịch vụ công
của Nhà nớc. Để thực hiện chức năng quản lý và bảo đảm xã hội, Nhà nớc đặt ra
các mục tiêu về quản lý và cung cấp dịch vụ công, đồng thời tổ chức ra hệ thống
các cơ quan, đơn vị để thực hiện (khu vực hành chính sự nghiệp). Để hệ thống đó
có thể hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ đợc giao, Nhà nớc phải cung cấp đầu
vào bao gồm nhân lực, vật lực và tài lực cho các cơ quan, đơn vị. Hoạt động của
hệ thống sẽ tạo ra các sản phẩm đầu ra, những sản phẩm đó đối với khu vực hành

chính sự nghiệp là các sản phẩm, dịch vụ công đợc cung cấp (theo nghĩa rộng
bao gồm cả các dịch vụ về hành chính, an ninh...), là kết quả hoạt động quản lý
nhà nớc của các cơ quan hành chính. Những sản phẩm đầu ra đó sẽ tác động trực
tiếp tới các đối tợng quản lý, đối tợng đợc hởng và chính sự tác động này sẽ
quyết định việc hoạt động của hệ thống có đạt đợc các mục tiêu đề ra hay không,
qua đó tác động tới mục tiêu đã đề ra, nó là cơ sở để đánh giá hiệu quả của chính
8
Mục
tiêu
Đầu vào
(nhân
lực, vật
lực, tài
lực)
sách và căn cứ để điều chỉnh mục tiêu (1). Đồng thời, nó cung cấp thông tin phản
hồi trực tiếp về các sản phẩm đầu ra, là căn cứ để đánh giá về các sản phẩm đó
để có những điều chỉnh thích hợp nhằm đạt đợc các mục tiêu (với phơng thức
quản lý nh hiện nay, ngời ta sử dụng thông tin này để điều chỉnh đầu vào, điều
chỉnh hoạt động của hệ thống nhằm đạt đợc mong muốn về sản phẩm đầu ra phù
hợp với đối tợng mà hệ thống cung cấp) (2).
Hiệu quả hoạt động của hệ thống (3) đợc quyết định bởi quan hệ tơng
quan giữa đầu vào và đầu ra, hiệu quả tăng khi đầu ra không đổi mà đầu vào
giảm hoặc khi đầu vào không đổi mà đầu ra tăng (đây cũng là cách tiếp cận mới
về hiệu quả).
Sơ đồ trên cho thấy, để bảo đảm hiệu quả hoạt động của hệ thống, ngời ta
có thể quản lý đầu vào hoặc đầu ra. Tuy nhiên, đầu ra là yếu tố cơ bản, trực tiếp
tác động đến các đối tợng đợc hởng và quyết định việc có đạt đợc mục tiêu hay
không (đầu vào chỉ tác động gián tiếp). Chính vì vậy, lý thuyết này đa ra khuyến
nghị là Nhà nớc nên chuyển từ quản lý đầu vào của khu vực hành chính sự
nghiệp sang quản lý đầu ra của khu vực đó trên cơ sở ấn định đầu vào.

Việc vận dụng lý thuyết quản lý đầu ra:
Theo cách quản lý ngân sách truyền thống thì chi tiêu đợc phân loại bởi
hình thức tổ chức và theo các mục chi cụ thể (mục lục ngân sách), ví dụ nh chi l-
ơng, chi công tác phí, chi vật liệu văn phòng... Để kiểm soát các nguồn lực, các
mục chi đợc phân loại rất chi tiết và ở một số nớc có đến hàng trăm mục chi.
Cách phân chia các khoản chi theo Mục lục ngân sách phù hợp với việc kiểm
soát đầu vào, theo những nguyên tắc cứng, không đợc chuyển từ mục chi này
sang mục chi khác. ở một số nớc, hệ thống kiểm soát đợc thành lập chỉ với mục
đích không cho phép chuyển từ mục chi cho con ngời sang mục chi khác. Nhợc
điểm của cách quản lý ngân sách truyền thống này là quá cứng nhắc, không linh
hoạt trong việc giải quyết những mục tiêu của chính phủ, những vấn đề liên quan
đến ngân sách. Vì vậy, ngay từ đầu những năm 1950 đến nay, hàng loạt các cải
cách về chơng trình ngân sách đợc thực hiện ở cả những nớc phát triển và những
nớc đang trong quá trình công nghiệp hoá để nhằm giải quyết những vấn đề này.
Một trong những cải cách có kết quả đáng kể đó là quản lý chi tiêu công
cộng kiểu mới. Mặc dù đến nay phơng pháp quản lý chi tiêu công kiểu mới đã
trở nên rất quen thuộc ở các nớc phát triển nhng ở nhiều nớc đang phát triển và
một số nớc phát triển ở Đông á thì phơng pháp quản lý công cộng kiểu mới vẫn
còn là vấn đề khá mới mẻ. Phơng pháp quản lý chi tiêu công kiểu mới đợc áp
9
dụng ở các nớc nh úc, Canada, New Zealand, Anh, Mỹ và Singapore... Theo ph-
ơng pháp này, thay vì kiểm soát đầu vào, ngời ta tập trung vào kiểm soát kết quả
đầu ra. Nhiều quốc gia hiện nay rất coi trọng các chỉ số thực hiện ở đầu ra. Trong
các báo cáo hàng năm cũng nh báo cáo ngân sách đều cho thấy rất rõ các thông
tin về hoạt động. Các hợp đồng đợc sử dụng nh một công cụ để cho thấy kết quả
mong đợi và phân chia trách nhiệm trong khu vực công cộng. Quan niệm truyền
thống về hợp đồng giữa ngời mua và ngời cung cấp dịch vụ công đang đợc sử
dụng rộng rãi đặc biệt trong lĩnh vực ngân sách giữa cấp ngân sách trung ơng và
các bộ, ngành, thậm chí trong nội bộ của một cơ quan. ở Anh và úc, ngời ta đã
sử dụng rộng rãi các hợp đồng ký kết về thực hiện dịch vụ công giữa Sở tài chính

và các đơn vị thụ hởng ngân sách. Hầu hết các hợp đồng này đều liên quan đến
chi phí hoạt động nhng cũng có một số liên quan đến chi tiêu chơng trình. Sau
đây chúng ta xem xét kinh nghiệm của một số nớc trên thế giới về quản lý kinh
phí thờng xuyên đối với các đơn vị thụ hởng kinh phí ngân sách nhà nớc.
2/ Kinh nghiệm về quản lý kinh phí thờng xuyên đối với các đơn vị thụ
hởng kinh phí ngân sách nhà nớc:
Kinh nghiệm của Thuỵ Điển:
Vào đầu những năm 70 của thế kỷ, việc quản lý kinh phí ngân sách của
Thuỵ Điển đối với các cơ quan hành chính nhà nớc cũng gần giống nh Việt Nam
hiện nay, Chính phủ quản lý và quyết định rất chi tiết về cơ cấu tổ chức của các
cơ quan, về nhân sự, biên chế... Kinh phí cấp cho các cơ quan hành chính cũng
đợc chi tiết theo từng mục chi. Hàng năm, các cơ quan này cũng phải lập dự toán
về kinh phí ngân sách của mình theo từng mục cụ thể về chi lơng, chi phí hành
chính.
Giữa những năm 70, việc quản lý kinh phí ngân sách cấp cho các cơ quan
hành chính bắt đầu có những cải cách đáng kể. Trớc hết là việc cải tiến và hợp lý
hoá các tác nghiệp, cải tiến công tác quản lý nhân sự và về biên chế, tiếp đó là hệ
thống quản lý ngân sách và kế toán công đợc cải tiến để hỗ trợ cho việc lập kế
hoạch hành năm. Quá trình cải cách đó đã tiến tới xây dựng nên một cơ chế quản
lý linh hoạt trong đó tiền lơng của công chức không chỉ phụ thuộc một cách cứng
nhắc theo quy định của Nhà nớc mà còn lệ thuộc vào kết quả đàm phán với công
đoàn, để qua đó tiền lơng của khu vực công tiến gần đến giá cả của thị trờng lao
động chung. Đối với các địa phơng, mặc dù ngân sách địa phơng là ngân sách tự
chủ nhng việc điều chỉnh lơng của công chức tại các địa phơng đợc đảm bảo bởi
các quỹ do ngân sách trung ơng đảm bảo để thực hiện việc điều chỉnh. Việc quản
10
lý đợc chuyển dần sang chú trọng hơn đến cả chất lợng và thời gian cung cấp các
dịch vụ công do khu vực nhà nớc đảm nhận. Quyền hạn và trách nhiệm của các
cấp cũng từng bớc đợc tăng thêm, đặc biệt là trách nhiệm về quản lý biên chế và
tài chính của thủ trởng các cơ quan, đơn vị.

Với việc áp dụng lý thuyết quản lý theo đầu ra trong quá trình cải cách, từ
năm 1985, Thuỵ Điển đã thực hiện cấp kinh phí ngân sách cho các cơ quan, đơn
vị theo hớng ổn định, dự toán kinh phí ngân sách đợc lập và thực hiện ổn định
cho 3 năm. Cùng với quá trình cải cách, hệ thống báo cáo kết quả công tác hàng
năm của các cơ quan, đơn vị đã đợc ban hành và thực hiện đều đặn. Các đơn vị
đợc tự xác định và trả lơng cho từng công chức (lơng ngạch, bậc đợc xoá bỏ từ
đầu những năm 90). Các nghĩa vụ của cơ quan, đơn vị và ngời đứng đầu cơ quan
về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ đợc thiết lập và coi đó là cơ sở cho việc
quản lý chất lợng công tác.
Sau một loạt những cải cách, ngày nay ở Thuỵ Điển, Chính phủ chỉ ấn
định khối lợng và chất lợng đầu ra của các sản phẩm do các cơ quan hành chính
sự nghiệp cung cấp. Kinh phí ngân sách của từng đơn vị bao gồm lơng và các chi
phí hành chính khác đợc cấp phát một cách ổn định.
Canada:
Lơng đợc trả dựa trên kết quả đàm phán với các tổ chức công đoàn, tiền l-
ơng của công chức tại các địa phơng phụ thuộc vào kết quả đàm phán, khả năng
ngân sách địa phơng...
Kinh phí ngân sách cấp ổn định cho các đơn vị hành chính sự nghiệp,
chuyển từ việc cấp theo mục chi tiết sang những mục tổng hợp, một số đơn vị đ-
ợc cấp phát kinh phí theo hình thức trọn gói (giao trọn gói kinh phí cho việc thực
hiện một số nhiệm vụ cụ thể nào đó đã đợc xác định trớc).
Cộng hoà Pháp:
Hệ thống thang bảng lơng thực hiện theo chức năng của mỗi nghề nghiệp
và thống nhất toàn quốc (do đặc điểm của nền hành chính tản quyền), kinh phí
hành chính đợc giao ổn định, việc dự toán hàng năm (kể cả việc quyết định ngân
sách của Quốc hội chỉ biểu quyết những khoản kinh phí mới, những kinh phí
thực hiện ổn định đợc quyết định chuyển nguyên vẹn sang năm mới). Việc lập và
duyệt dự toán cho các cơ quan hành chính cũng thực hiện nh vậy, những cơ quan
đã hoạt động ổn định thì kinh phí ngân sách hầu nh không thay đổi. Quản lý
kinh phí ngân sách cũng đợc chuyển từ những mục chi rất chi tiết sang những

11
mục chi tổng hợp để tạo cho quá trình sử dụng của các cơ quan đợc chủ động
hơn. Hiện nay, Cộng hoà Pháp cũng đang tiếp tục nghiên cứu và chuẩn bị thực
hiện từ năm 2002 việc cấp kinh phí trọn gói theo hớng quản lý đầu ra của sản
phẩm.
3/ Kinh nghiệm của các nớc trong việc tăng cờng trách nhiệm và quyền
hạn cho cơ sở, cho cộng đồng:
Hàn Quốc:
Hàn Quốc đã thực hiện phi tập trung hoá việc cung cấp dịch vụ phát triển
nông thôn trên phạm vi rộng lớn, coi đó là một phần trong chơng trình xây dựng
đất nớc và phát triển cộng đồng trong thập kỷ 70 và 80. Bằng cách phi tập trung
hoá công việc, Chính phủ đã làm cho những ngời dân thấm nhuần dần tinh thần
địa phơng tự giúp mình. Mọi ngời cùng làm việc để cải thiện cộng đồng của
mình và thông qua các hoạt động hợp tác mà phát triển kỹ năng lãnh đạo và quản
lý cơ bản. Do Chính phủ hỗ trợ và cung cấp vật t cho các dự án tự giúp mình và
đào tạo những ngời lãnh đạo nên việc phi tập trung hoá đã tăng cờng sự hợp tác
chặt chẽ giữa các tổ nhóm ở địa phơng với các Bộ của Chính phủ. Chi phí dịch
vụ cũng giảm xuống nhờ sự nâng cao hiệu quả quản lý và tăng cờng khai thác, sử
dụng nguyên, vật liệu đầu vào của địa phơng.
Cô -Lôm -Bi -a:
ở Colombia, để khuyến khích một số loại hình đầu t nhất định, Chính phủ
có thể áp dụng các luật lệ cụ thể hoặc cung cấp các khoản trợ cấp tơng xứng cho
các đầu t này. Các khoản trợ cấp đợc hoạch định thích đáng, quy định cụ thể việc
tham gia, sự cam kết và trách nhiệm của địa phơng đối với các hoạt động đợc
Chính phủ ủng hộ.
Về việc tăng cờng khả năng của chính quyền địa phơng, cơ sở trong
khoảng cuối thập kỷ vừa qua, Colombia đang phát triển theo hớng phi tập trung
hoá các trách nhiệm và nguồn lực cho tỉnh và xã.
Mặc dù cha đầy đủ và mới chỉ là sơ khởi, nhng những nghiên cứu mới đây
tiến hành với 16 địa phơng trên khắp Colombia đã tìm ra một loạt kết quả có lợi

cho quá trình phi tập trung hoá nhằm tăng cờng khả năng của chính quyền địa
phơng về lực lợng lao động, vốn và công nghệ, khả năng và hiệu quả quản lý của
các xã, các cộng đồng.
Cùng với lý thuyết về quản lý theo đầu ra, cơ sở khoa học cho việc đề xuất
giải pháp thực hiện cơ chế khoán chi hành chính và tự trang trải còn xuất phát từ
cách tiếp cận mới về hiệu quả. Cách tiếp cận mới về hiệu quả đợc áp dụng cho
12
cả khu vực dịch vụ quản lý hành chính. Hiệu quả là mối quan hệ giữa đầu vào và
số lợng, chất lợng đầu ra. Khi các cơ quan HCSN hoàn thành công việc (đầu ra
quy định trớc) thì nâng cao hiệu quả là giảm chi phí đầu vào. Biện pháp để quản
lý chi phí đầu vào trong hoạt động của cơ quan HCSN chính là biện pháp khoán
quỹ lơng, khoán kinh phí ngân sách hoạt động.
4/ Những bài học kinh nghiệm:
Qua kinh nghiệm áp dụng lý thuyết quản lý theo đầu ra trong thực tế của
một số nớc, có thể rút ra một số bài học cho Việt Nam nh sau:
- Trong quản lý tài chính, khi kinh phí đợc giao cho một cộng đồng, một tập
thể tự quản và quyết định thì nó thờng đợc sử dụng hợp lý, sát nhu cầu thực tiễn
và đạt đợc hiệu quả cao hơn.
- Đối với một số cơ quan, tổ chức có quy trình hoạt động phức tạp thì việc
ấn định chi phí đầu vào và quản lý, kiểm soát các sản phẩm đầu ra sẽ buộc tổ
chức đó tự sắp xếp, cải tiến quy trình và sử dụng kinh phí hiệu quả hơn. Đồng
thời, với quy trình đợc cải tiến một cách thờng xuyên, trong điều kiện kiểm soát
chặt chẽ về chất lợng sản phẩm, dịch vụ, các sản phẩm đầu ra của tổ chức đó
cũng luôn đợc nâng cao chất lợng.
- Đối với các cơ quan hành chính nhà nớc và các đơn vị sự nghiệp có thu,
việc thực hiện cơ chế khoán chi và tự trang trải là có thể thực hiện và đem lại
hiệu quả vì: việc phân bổ ngân sách trọn gói, giao đơn vị chủ động về cách thức
chi tiêu sẽ thúc đẩy các cơ quan, đơn vị phải tự tiết kiệm chi tiêu trên nguyên tắc
hạn chế việc tuyển thêm ngời, tổ chức, phân công lại lao động có hiệu quả hơn vì
không ai hiểu hơn chính họ về những vấn đề đó.

- Qua quá trình thực hiện vềcác khoản kinh phí trọn gói (khoán chi và tự
trang trải) ngời ta có thể dần dần xây dựng đợc các định mức chi tiêu, định biên
và mô hình tổ chức, phân công lao động một cách sát thực, hợp lý hơn.

Chơng II
Thực trạng tình hình quản lý tài chính của các đơn
vị hành chính sự nghiệp hiện nay.
I/ Thực trạng tình hình thu chi của các đơn vị hành chính sự nghiệp:
1/ Đơn vị hành chính thuần tuý.
13
Đối với các đơn vị hành chính thuần tuý, nguồn kinh phí hoạt động và chi
phí trả lơng cho cán bộ, công chức chỉ trông chờ duy nhất vào nguồn kinh phí
ngân sách cấp, phụ thuộc hoàn toàn vào các định mức phân bổ kinh phí và khả
năng ngân sách của từng cấp, từng địa phơng. Nhìn chung do điều kiện kinh phí
khó khăn nên nhiều nhu cầu chi cho hoạt động cha đợc đáp ứng nhng trong thực
tế lại có những khoản chi cha thực sự cần thiết lại đợc bố trí. Tiền lơng và thu
nhập của cán bộ công chức cũng vậy, có thể nói thu nhập của cán bộ, công chức
ở những cơ quan này chủ yếu dựa vào tiền lơng, phụ cấp và tiền thởng rất hạn
chế. Những đơn vị này thờng xuyên gặp những khó khăn và bất cập giữa việc
thực hiện dự toán chi và nhu cầu chi thực tế. Tiền lơng và thu nhập cán bộ, công
chức thuộc loại thấp nhất so với các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp khác.
2/ Đơn vị hành chính có thu ( KBNN, NHNN, Tổng Cục thuế...).
Đối với các đơn vị hành chính có thu, đây là những đơn vị hành chính nhà
nớc, trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nớc của mình, đơn vị thực
hiện thu cho nhà nớc một số khoản thu, chủ yếu là phí, lệ phí theo quy định và đ-
ợc Nhà nớc cho phép để lại một tỷ lệ nhất định trên tổng số thu hoặc một số
khoản thu nào đó để đơn vị trang trải một phần chi phí khi thực hiện tổ chức thu.
Với điều kiện nh vậy, nguồn kinh phí hoạt động của đơn vị có linh hoạt
hơn so với đơn vị hành chính thuần tuý, do đó đơn vị cũng chủ động và đỡ khó
khăn hơn về kinh phí hoạt động. Thu nhập của cán bộ, công chức ngoài tiền l-

ơng, phụ cấp lơng theo quy định nh đối với đơn vị hành chính thuần tuý còn có
thêm một số nguồn thu nhập nh: tiền ăn tra, tiền thởng khá ổn định.
3/ Đơn vị sự nghiệp có thu, có thể tự trang trải một phần hoặc toàn bộ
nhu cầu chi tiêu.
Theo thống kê sơ bộ, cả nớc có khoảng 106.500 đơn vị hành chính sự
nghiệp, trong đó đơn vị sự nghiệp có thu chiếm khoảng 40% (41.400 đơn vị).
Các đơn vị sự nghiệp đợc Nhà nớc đầu t cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí hoạt
động thờng xuyên để thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyên môn đợc giao. Ngoài
ra, đơn vị đợc phép thực hiện một số khoản thu nh: thu các loại phí, lệ phí theo
quy định của Nhà nớc, thu từ các hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ rất đa
dạng và ở hầu hết các lĩnh vực.
3.1/ Về số thu:
Qua thống kê sơ bộ số thu tại một số khu vực và địa phơng nh sau:
Số thu của một số đơn vị sự nghiệp do Trung ơng quản lý đạt tỷ lệ tơng
đối cao so với kinh phí ngân sách nhà nớc cấp; Năm 1999, số thu của 56 trờng
14
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đạt 304,946 tỷ đồng, bằng 68,43%
kinh phí NSNN cấp; Số thu của 36 bệnh viện đạt 346,811 tỷ đồng, bằng 143,4%
kinh phí NSNN cấp; Số thu của 21 đơn vị thuộc Bộ KHCN&MT, Trung tâm
khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia đạt 6,373 tỷ đồng, bằng 16,4% kinh phí
NSNN cấp.
Số thu của một số đơn vị sự nghiệp do địa phơng quản lý nh sau:
Tỉnh Thanh Hoá, số thu sự nghiệp năm 1999 đạt 121,053 tỷ đồng,
bằng 12,15% kinh phí NSNN cấp. Trong đó lĩnh vực sự nghiệp kinh tế thu sự
nghiệp bằng 12,79% kinh phí NSNN cấp; lĩnh vực giáo dục đào tạo bằng
14,5%; Sự nghiệp y tế bằng 21,68%; văn hoá thông tin là 5,68%, phát thanh
truyền hình: 23%; thể dục thể thao: 0,45%.
Tỉnh Hà Tây: Số thu sự nghiệp đào tạo của 5 trờng đạt 3,414 tỷ đồng
bằng 18,22% kinh phí NSNN cấp; Sự nghiệp giáo dục đạt 30,226 tỷ đồng bằng
14,66%; Sự nghiệp y tế đạt 8,695 tỷ đồng bằng 34,23%; Sự nghiệp văn hoá đạt

0,304 tỷ đồng, bằng 7,67%; sự nghiệp nông nghiệp đạt 0,734 tỷ đồng, bằng
25% kinh phí NSNN cấp.
Thành phố Hà Nội: Số thu của 22 đơn vị sự nghiệp y tế đạt 42,018 tỷ
đồng, bằng 63% kinh phí NSNN cấp; sự nghiệp giáo dục đào tạo 57 đơn vị thu
đạt 47,503tỷ đồng, bằng 85,27%; Đài phát thanh truyền hình Hà Nội phần thu
đợc để lại chi 18,341 tỷ đồng, bằng 128,97% kinh phí ngân sách nhà nớc cấp
(tổng số thu là 65,278 tỷ đồng).
Tỉnh Bắc Ninh: Số thu sự nghiệp y tế đạt 8,429 tỷ đồng, bằng 49,35%
kinh phí NSNN cấp; sự nghiệp giáo dục đào tạo thu đạt 11,838 tỷ đồng, bằng
16,45%.
3.2/ Về chi của các đơn vị sự nghiệp:
Theo quy định hiện hành tiền thu học phí, viện phí đợc để lại đơn vị sử
dụng 100%; các loại phí, lệ phí khác đơn vị đợc để lại chi theo tỷ lệ % để chi cho
công tác tổ chức thu. Toàn bộ số thu sự nghiệp trong các hoạt động sản xuất,
cung ứng dịch vụ sau khi trừ chi phí và thuế theo Luật định, chênh lệch thu lớn
hơn chi đợc phân bổ 65% để trích lập 2 quỹ khen thởng và quỹ phúc lợi, 35% đ-
ợc bổ sung kinh phí hoạt động của đơn vị.
Nhìn chung các đơn vị sự nghiệp có thu đều đã hạch toán các khoản thu,
chi của các hoạt động sự nghiệp vào sổ sách kế toán. Tuy nhiên thông qua công
tác quản lý, duyệt quyết toán, thanh tra, kiểm tra còn một số đơn vị cha thực hiện
theo đúng quy định của Nhà nớc.
15
Qua kết quả thanh tra cho thấy 6 trờng Đại học thuộc Trờng đại học quốc
gia TP HCM trong 2 năm 1997, 1998 cha tổng hợp báo cáo quyết toán với Nhà
nớc về kết quả hoạt động sản xuất dịch vụ, thu: 275,430 tỷ đồng, chi: 257,816 tỷ
đồng, cha nộp thuế vào NSNN: 9,201 tỷ đồng. 3 trờng Đại học thuộc Bộ giáo
dục và đào tạo năm 1999 và quý I/2000 cha báo cáo quyết toán với Nhà nớc về
số thu hoạt động sản xuất dịch vụ 9,22 tỷ đồng ( trong đó trờng Đại học kiến trúc
0,780 tỷ đồng, trờng đại học ngoại ngữ 0,304 tỷ đồng, Trờng Đại học mỏ địa
chất 8,136 tỷ đồng); Cha kê khai và nộp thuế thiếu :0,596 tỷ đồng` (trong đó tr-

ờng đại học kiến trúc 0,025 tỷ đồng, Trờng đại học ngoại ngữ 0,456 tỷ đồng, Tr-
ờng Đại học Mỏ - Địa chất 0,115 tỷ đồng). Trờng Đại học Thuỷ lợi - Bộ
NN&PTNT năm 1997 cha báo cáo quyết toán với Nhà nớc về thu sản xuất dịch
vụ 36,887 tỷ đồng và cha làm nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN.
Về thu nhập của cán bộ: Thu nhập bình quân năm 1999 của một số đơn
vị nh sau: Đài Truyền hình Việt Nam 1,8 triệu đồng/ngời/tháng; Đài tiếng nói
Việt Nam 1,7 triệu đồng/ngời/tháng; Trờng Đại học Kiến trúc 1 triệu đồng/ng-
ời/tháng; Trờng Đại học Mỏ - Địa chất 1,5 triệu đồng/ngời/tháng.
Đối với các cơ sở khám chữa bệnh: Năm 1999 riêng chi khen thởng từ
nguồn thu 30% viện phí của khám chữa bệnh Bộ Y tế là 80,566 tỷ đồng, bình
quân 6,387 triệu đồng/ngời/năm (cha kể số lao động hợp đồng), trong đó cao
nhất là bệnh viện Chợ Rẫy bình quân 16,28 triệu đồng/ngời/năm, thấp nhất là
bệnh viện tâm thần TW bình quân 2,79 triệu đồng/ngời/năm; Nếu tính cho cả lao
động hợp đồng thì thu nhập bình quân thấp hơn.
II/ Thực trạng về cơ chế quản lý kinh phí ngân sách đối với các đơn vị
hành chính sự nghiệp.
1/ Về phân bổ kinh phí ngân sách:
Theo quy định hiện hành, các đơn vị dự toán ngân sách nhà nớc đều phải
xây dựng dự toán để làm căn cứ phân bổ kinh phí. Dự toán đợc duyệt là cơ sở để
quản lý, cấp phát, thanh quyết toán kinh phí ngân sách cấp cho đơn vị. Tuy
nhiên, việc phân bổ kinh phí thờng dựa trên các định mức tổng hợp để bố trí kinh
phí chi thờng xuyên ở các đơn vị hành chính sự nghiệp, các định mức này thờng
đợc tính theo biên chế, hoặc quỹ lơng của đơn vị. Có những khoản chi thờng
xuyên do không có hoặc nếu có thì định mức, chế độ chi tiêu đa ra không phù
hợp với thực tế nên đã dẫn đến nhiều hiện tợng lãng phí.
Nhiều tiêu chuẩn định mức chi tiêu đã lạc hậu, thiếu cụ thể và không còn
phù hợp. Dự toán nhiều khoản chi thờng xuyên ở các đơn vị hành chính sự
16
nghiệp thờng đợc tính theo đầu ngời, theo quỹ lơng, dẫn đến không thực hiện đ-
ợc việc giảm biên chế, mà còn có tác dụng ngợc lại, ngầm khuyến khích tăng

biên chế để đợc kinh phí nhiều hơn. Tơng quan giữa các khoản chi cho con ngời
(lơng, có tính chất lơng) với những khoản chi hành chính khác cũng còn nhiều
bất hợp lý. Trong quá trình quản lý thì những khoản chi lơng, có tính chất lơng
lại không tơng xứng với nhiệm vụ đợc giao. Những khoản chi quản lý hành chính
thờng cao hơn nhiều so với chi phí cho con ngời.
Thực tế trên, đã ảnh hởng đến chất lợng cán bộ, công chức và hiệu quả
của bộ máy quản lý hành chính.
2/ Về cấp phát và thanh toán, quyết toán kinh phí:
Việc quản lý, cấp phát kinh phí ngân sách nhà nớc cho các đơn vị dự toán
(chủ yếu là các đơn vị hành chính sự nghiệp) hiện đang đợc cấp phát theo hạn
mức kinh phí cho từng mục chi theo Mục lục ngân sách nhà nớc, hết năm ngân
sách nếu không sử dụng hết thì phần hạn mức thừa sẽ bị huỷ bỏ. Cơ chế đó nhằm
khắc phục tình trạng sử dụng kinh phí không đúng mục đích và tình trạng tồn
đọng kinh phí ngân sách ở các đơn vị. Tuy nhiên, do chất lợng dự toán còn hạn
chế hoặc có những biến động cha lờng hết nên dẫn đến tình trạng nhiều đơn vị
thừa hạn mức kinh phí ở mục này, nhng lại thiếu ở mục khác. Nhiều cơ quan
phải cố sử dụng hết trong năm (chạy kinh phí cuối năm)...làm cho kinh phí ngân
sách bị sử dụng lãng phí, hiệu quả thấp, nhiều khoản kinh phí ngân sách bị sử
dụng để mua sắm hoặc chi tiêu vào những việc cha thực sự cần thiết.
Đơn vị thụ hởng kinh phí ngân sách phải chấp hành theo dự toán đ-
ợc duyệt, kinh phí cấp cho mục nào thì chỉ đợc phép chi đúng theo mục đó.
Song trong thực tế, có một số khoản chi không dự toán trớc đợc hoặc có dự toán
nhng không sát thực tế, quá trình thực hiện dự toán kinh phí ngân sách ở các đơn
vị thờng gặp phải tình trạng có mục thừa nhng không sử dụng việc khác đợc,
trong khi đó có mục chi cần thiết lại thiếu kinh phí dẫn đến các trờng hợp phải
đối phó theo các cách:
=> Hoặc là đơn vị sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách theo
thực tế phát sinh và tìm mọi cách để có chứng từ hợp lý hoá theo đúng mục đích
để có thể thanh, quyết toán.
=> Hoặc là đơn vị thực hiện chi ngân sách theo đúng thực tế phát sinh

và sau đó xin điều chỉnh dự toán cho phù hợp với thực tế đã chi để đợc chấp nhận
thanh, quyết toán, nổi bật nhất là các khoản chi tiếp khách, hội nghị; tổng kết;
điện thoại,... Điều này làm nảy sinh cơ chế xin - cho rất tiêu cực.
17
3/ Về quản lý các nguồn thu và sử dụng nguồn thu của các đơn
vị sự nghiệp:
Đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, phần kinh phí đợc ngân sách nhà nớc
cấp (ngoài phần thu đợc để lại cho đơn vị và trừ vào tổng dự toán kinh phí hoạt
động của đơn vị) đợc quản lý nh phần kinh phí ngân sách cấp cho các cơ quan
hành chính thuần tuý (không có thu). Với phần thu đợc để lại để chi cho các hoạt
động thờng xuyên của đơn vị, sau khi trang trải hết các khoản chi theo quy định
(cùng với phần kinh phí đợc cấp), nếu còn thừa thì đơn vị đợc trích quỹ khen th-
ởng và quỹ phúc lợi nhng tối đa không quá 3 tháng lơng bình quân. Các khoản
chi của đơn vị kể cả khoản chi từ nguồn thu sự nghiệp đợc để lại đơn vị phải thực
hiện đúng dự toán đợc duyệt (dự toán chi chung cho toàn bộ phần kinh phí đợc
cấp và kinh phí đợc để lại), đúng tiêu chuẩn và định mức hiện hành. Chính vì vậy
mà nhiều đơn vị có nguồn thu đợc để lại nhng cơ chế không cho phép nên không
chi đợc và phải nộp lại ngân sách nhà nớc dẫn đến tình trạng đơn vị không tích
cực, chủ động trong việc khai thác tăng nguồn thu, không có động lực khuyến
khích sử dụng tiết kiệm và hiệu quả đối với kinh phí đợc cấp và cả đối với nguồn
thu đợc để lại (với những lý do tơng tự nh đối với các cơ quan hành chính thuần
tuý).
Cơ chế quản lý tài chính và sử dụng nguồn thu:
Trong thực tế, hầu hết các đơn vị sự nghiệp, trên cơ sở chức năng, nhiệm
vụ đợc giao đã tận dụng cơ sở vật chất sẵn có tổ chức hoạt động sản xuất, dịch
vụ, làm ngoài kế hoạch nhằm mục đích tạo thêm nguồn thu để tăng thu nhập, cải
thiện đời sống cho cán bộ, công chức. Một số đơn vị đã thực hiện theo các quy
định của Nhà nớc cho riêng lĩnh vực của mình về mức thu phí, lệ phí và các quy
định khác (ví dụ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế đã có các quy định về học
phí, viện phí...), song cũng có nhiều đơn vị vẫn còn tuỳ tiện trong tổ chức hoạt

động có thu do cha có quy định của Nhà nớc. Vì vây, thu nhập của ngời lao động
ở các đơn vị cũng rất khác nhau và thờng cao hơn so với tiền lơng theo ngạch,
bậc hiện hành.
Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp khá đa dạng, bao gồm nguồn từ ngân
sách nhà nớc cấp trực tiếp cho hoạt động của đơn vị; nguồn từ ngân sách nhà nớc
cấp cho các đơn vị qua một hình thức khác nh kinh phí cấp theo đề tài nghiên
cứu khoa học; nguồn thu do tổ chức các hoạt động sản xuất, dịch vụ, làm ngoài
kế hoạch trên cơ sở tận dụng cơ sở vật chất sẵn có và các nguồn khác... Tóm lại,
nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp bao gồm:
18
- Ngân sách nhà nớc cấp;
- Phần đợc để lại từ số phí, lệ phí do đơn vị thu theo quy định của Nhà nớc;
- Thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, lao vụ.
- Các khoản thu khác của đơn vị theo quy định của pháp luật nh khoản thu từ
các đơn vị trực thuộc, phụ thuộc nộp lên, kinh phí của Nhà nớc thanh toán theo
đơn đặt hàng để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nớc giao theo giá hoặc khung
giá do Nhà nớc quy định....
Về cơ chế quản lý, sử dụng một số nguồn thu cụ thể:
Để tăng cờng công tác quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp hoạt
động có thu, Bộ Tài chính đã có Thông t số 01TC/HCVX ngày 4/1/1994 và
Thông t số 25TC/TCT ngày 25/3/1994 quy định tạm thời chế độ quản lý tài
chính đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, các đoàn thể, hội quần
chúng tổ chức hoạt động có thu.
- Về thu học phí: Thủ tớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 70/1998/
QĐ -TTg ngày 31/3/1998 về việc thu và sử dụng học phí ở các cơ sở giáo dục và
đào tạo công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; Thông t số
54/1998/TTLT/Bộ GDDT-TC của Liên Bộ Giáo dục Đào tạo - Bộ Tài chính hớng
dẫn thực hiện thu, chi và quản lý học phí ở các cơ sở giáo dục và đào tạo công
lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
- Về thu viện phí Chính phủ đã ban hành Nghị định số 95-CP ngày

27/8/994 về việc thu một phần viện phí, Nghị định số 33/CP ngày 23/5/1995 sửa
đổi điểm 1, điều 6 Nghị định số 95/CP; Thông t số 14/TTLB ngày 30/9/1995 của
Liên bộ Tài chính - Bộ Lao động TBXH -Ban vật giá Chính phủ hớng dẫn thực
hiện việc thu một phần viện phí.
Ngoài học phí và viện phí, các đơn vị có thu phí, lệ phí nh: phí, lệ phí
kiểm dịch thực vật; phí, lệ phí kiểm dịch thú y; lệ phí kiểm tra chất lợng và vệ
sinh thuỷ sản thực hiện theo Nghị định số 04/1999/NĐ-CP ngày 30/1/1999 của
Chính phủ về phí, lệ phí thuộc NSNN; Thông t số 54/1999/TT/BTC ngày
10/5/1999 của Bộ tài chính hớng dẫn thực hiện Nghị định số 04 và các Thông t
quy định chế độ thu, sử dụng đối với từng loại phí, lệ phí.
4/ Về tiền lơng và thu nhập:
Về cơ chế quản lý quỹ tiền lơng, cho đến nay, biên chế của các đơn vị hành chính
sự nghiệp đang thực hiện theo chế độ định biên và tổng quỹ lơng của các đơn vị
phụ thuộc vào biên chế đợc duyệt và hệ số lơng ngạch, bậc; những khoản chi có
tính chất lơng cũng đợc bố trí tăng theo mức tăng của tổng lơng ngạch, bậc. Cơ
19
chế đó đã không khuyến khích các đơn vị tổ chức công việc của mình một cách
hiệu quả, tiết kiệm lao động. Mặt khác, việc bố trí khoản kinh phí chi khác lại lấy
tổng mục chi lơng làm căn cứ tính toán càng làm cho thủ trởng các đơn vị có tâm
lý muốn đợc tăng biên chế cho đơn vị mình mà không căn cứ vào nhu cầu công
việc. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng chia nhỏ công việc
để bố trí đủ việc cho cán bộ, công chức trong đơn vị làm cho tổ chức công việc
theo chức năng, nhiệm vụ của đơn vị bị chia cắt, bộ máy cồng kềnh và điều quan
trọng hơn là làm giảm hiệu quả hoạt động của đơn vị, đội ngũ cán bộ, công chức
cũng vì vậy mà không phát huy đợc hết năng lực, chất lợng bị ảnh hởng.
Thực trạng về tiền lơng và thu nhập của cán bộ, công chức hiện nay có khá
nhiều bất cập đòi hỏi phải có cơ chế cải thiện thu nhập cho cán bộ công chức
trong điều kiện ngân sách nhà nớc không phải tăng chi và cha có điều kiện để thực
hiện cải cách cơ bản về tiền lơng. Một trong những mục đích của khoán chi và cơ
chế tự trang trải là tạo điều kiện cải thiện thu nhập trên cơ sở sử dụng tiết kiệm

kinh phí ngân sách, không gây áp lực tăng chi ngân sách đồng thời các khoản kinh
phí ngân sách đợc sử dụng tiết kiệm hơn. Thực tế hiện nay ở nhiều cơ quan, đơn
vị, nhiều khoản kinh phí không phải là chi lơng hoặc có tính chất lơng nhng do
khó khăn về thu nhập nên đã bị biến tớng để trở thành các khoản thu nhập không
chính thức của cán bộ, công chức. Chính vì vậy, sẽ là thiếu sót trong khi nghiên
cứu về cơ chế khoán chi và tự trang trải nếu nh không đánh giá về chính sách tiền
lơng, tình hình tiền lơng và những ảnh hởng của nó tới đội ngũ cán bộ, công chức
và chất lợng hoạt động của các cơ quan, đơn vị hiện nay. Hơn nữa, cũng cần phải
đánh giá, xem xét tơng quan của các khoản chi về lơng, các khoản có tính chất l-
ơng với các khoản chi phí hành chính khác đối với các đơn vị hành chính sự
nghiệp.
Trong khi con ngời là yếu tố quan trọng thì những khoản chi lơng, có
tính chất lơng cho họ chỉ chiếm khoảng 1/3 trong tổng chi quản lý hành chính,
những khoản chi quản lý hành chính khác thờng cao hơn nhiều kinh phí chi cho
con ngời. Thu nhập bình quân nói chung và lơng bình quân nói riêng của cán bộ,
công chức ở mức thấp, khó có thể đảm bảo đúng ý nghĩa của tiền lơng trong thực
tế, tiền lơng đã mang nặng tính hình thức, danh nghĩa. Các nhu cầu trong cuộc
sống, cho các khoản dịch vụ, cho các khoản đóng góp xã hội đều tăng, thêm vào
đó tốc độ trợt giá của thị trờng đã làm giá trị thực tiền lơng giảm mạnh. Do tiền
lơng thực tế giảm sút, nên để đảm bảo cuộc sống cho các đối tợng hởng lơng từ
ngân sách, các cơ quan đơn vị tuỳ theo điều kiện, lợi thế của mình đã tìm mọi
20
cách cố gắng tạo nguồn thu nhập để trợ cấp thêm cho cán bộ với nhiều mức độ
và hình thức khác nhau. Chế độ lơng đối với đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật
hiện nay là quá thấp so với trình độ đợc đào tạo và yêu cầu chất lợng lao động.
Tình hình đó đã tạo ra nhiều bất hợp lý về thu nhập, ngời lao động không tận tâm
với công việc đợc giao, chất lợng cán bộ bị giảm sút, kỷ luật lao động bị buông
lỏng. Trớc thực tế về tiền lơng nh vậy, có không ít những cán bộ, công chức có
trình độ, năng lực đã chuyển ra khỏi biên chế Nhà nớc để làm việc cho các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nớc, các liên doanh hoặc các tổ

chức của nớc ngoài tại Việt Nam.
5/ Những tồn tại và nguyên nhân:
Từ các phân tích trên đây cho thấy những vấn đề tồn tại chủ yếu trong quản
lý tài chính nhà nớc nói chung và quản lý trong khu vực hành chính sự nghiệp
nói riêng đợc thể hiện qua các nội dung sau:
Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp nói chung:
- Hiệu quả hoạt động thấp, hiệu lực của cơ quan quản lý nhà nớc và chất l-
ợng dịch vụ công do các đơn vị sự nghiệp cung cấp bị giảm sút, cha đáp ứng đợc
yêu cầu của xã hội.
- Năng suất và hiệu quả lao động trong khu vực này thấp, bộ máy cồng
kềnh, nặng nề, nhiều tầng nấc và đầu mối, thủ tục hành chính chậm đợc cải tiến.
- Biên chế của khu vực tăng nhanh, đội ngũ cán bộ công chức đông đảo
nhng không mạnh, tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ khá phổ biến do thu nhập
của ngời lao động trong khu vực thấp nên không thu hút đợc ngời có năng lực,
không khuyến khích những ngời đã đợc tuyển dụng tích cực học tập nâng cao
năng lực.
- Tình trạng sử dụng lãng phí các nguồn lực tài chính (kinh phí ngân sách
và các nguồn thu theo quy định), lao động và tài sản khá phổ biến do thiếu
khuyến khích vật chất dể thúc đẩy tiết kiệm.
Đối với các đơn vị sự nghiệp có thu nói riêng:
- Các đơn vị sự nghiệp trong thực tiễn đã giải quyết tăng một phần thu
nhập từ hoạt động có thu ngoài lơng cấp bậc, chức vụ hiện hành, nhng cha có văn
bản pháp quy về việc tăng thu nhập, nên có tình trạng khá phổ biến hiện nay là
các đơn vị dấu nguồn thu, báo cáo không đầy đủ đối với nhà nớc. Điều này khó
kiểm tra, kiểm soát.
- Các hoạt động có thu thực hiện theo Thông t số 01TC/HCVX ngày
4/1/1994 và Thông t số 25TC/TCT ngày 25/3/1994 của Bộ Tài chính, nhng đến
21
nay các quy định không còn phù hợp do loại hình hoạt động của các đơn vị ngày
càng đa dạng.

- Cha có cơ chế khuyến khích các đơn vị khai thác nguồn thu, tăng thu để
tự đảm bảo kinh phí hoạt động, tăng thu nhập cho ngời lao động và giảm dần
kinh phí NSNN cấp. Nhiều đơn vị đã có số thu lớn hơn chi nhng vẫn nhận kinh
phí từ NSNN.
- Cha khuyến khích đơn vị sử dụng kinh phí tiết kiệm. Cơ chế quản lý tài
chính hiện nay đang thúc đẩy các đơn vị tìm mọi cách để chi hết kinh phí đợc
NSNN cấp (vì kinh phí cuối năm đơn vị sử dụng không hết sẽ bị huỷ bỏ hoặc trừ
vào cấp phát ngân sách năm sau).
Tóm lại, từ cơ chế quản lý tài chính và thực tế về tình hình sử dụng đối
với kinh phí chi thờng xuyên của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp hiện
nay, có thể rút ra những nhận xét, đánh giá về những tồn tại, hạn chế nh sau:
- Biên chế và đội ngũ cán bộ, công chức trong các đơn vị hành chính sự
nghiệp còn cồng kềnh, tổ chức phân công công việc chồng chéo, hiệu quả không
cao.
- Tiền lơng và thu nhập bình quân của cán bộ, công chức thấp làm mất ý
nghĩa của tiền lơng.
- Cơ chế quản lý về biên chế; quản lý, cấp phát và thanh quyết toán kinh
phí quản lý hành chính hiện tại có những bất cập dẫn đến tình trạng sử dụng lãng
phí, không hiệu quả kinh phí ngân sách.
- Nhiều định mức chi quản lý hành chính đã lạc hậu, qui định tiêu
chuẩn định mức cha cụ thể, không phù hợp với sự biến động của nền kinh tế.
- Tơng quan giữa các khoản chi cho con ngời (lơng, có tính chất lơng) với
những khoản chi quản lý hành chính khác cũng còn nhiều bất hợp lý.
Từ thực tế đó đã dẫn đến những hệ quả về chất lợng cán bộ, hiệu quả làm
việc, tình trạng lãng phí, kém hiệu quả trong sử dụng kinh phí quản lý hành
chính. Cụ thể nh:
- Hiệu quả công việc của cơ quan hành chính sự nghiệp không cao.
- Cán bộ, công chức không có điều kiện phát huy năng lực, trình độ, Nhà
nớc mất dần những cán bộ giỏi mà chi phí đào tạo, bồi dỡng khá lớn.
- Triệt tiêu động lực khuyến khích sử dụng hiệu quả kinh phí, ý thức tiết

kiệm trong sử dụng kinh phí giảm, tình trạng lãng phí công quỹ tăng.
- Là một trong các nguyên nhân làm giảm hiệu quả sử dụng lao động xã
hội, tăng tình trạng lãng phí trong xã hội.
22
Chơng III
các giải pháp tài chính để thực hiện
khoán chi hành chính và cơ chế tự trang trải
I. Một số quan điểm về thực hiện khoán chi hành chính và cơ chế tự
trang trải.
Khoán chi hành chính đối với các cơ quan hành chính thuần tuý và thực
hiện cơ chế tự trang trải đối với các đơn vị sự nghiệp có thu cần phải thực hiện
một cách thận trọng trên cơ sở quán triệt các quan điểm cơ bản sau:
Một là: Không khoán trắng, giao khoán hoặc cho phép tự trang trải đối
với tất cả các khoản chi, chỉ thực hiện đối với những khoản chi có liên quan trực
tiếp tới khả năng, chất lợng quản lý, ý thức tiết kiệm và ảnh hởng trực tiếp tới
hoạt động của đơn vị (không thực hiện đối với chi đầu t).
Các khoản chi của các đơn vị hành chính sự nghiệp có rất nhiều, trong đó
có những khoản chi không thể thực hiện khoán hoặc giao cho đơn vị tự trang trải
vì nó ít ảnh hởng tới hoạt động của đơn vị trong ngắn hạn nhng về lâu dài thì lại
có ảnh hởng lớn. Với những khoản chi đó, nếu khoán thì có thể dẫn đến tình
trạng đơn vị vì lợi ích trớc mắt (tăng thu nhập) mà hạn chế chi, ảnh hởng tới khả
năng hoạt động của đơn vị trong trung và dài hạn hoặc làm xuống cấp các tài sản
mà đơn vị đợc giao quản lý và sử dụng (các bất động sản). Mặt khác, một trong
những mục đích của các cơ chế này là nhằm tạo động lực khuyến khích tiết
kiệm, vì vậy cũng chỉ nên khoán với những khoản chi mà việc sử dụng nó có liên
quan nhiều tới ý thức tiết kiệm.
Hai là: Thực hiện khoán chi và cơ chế tự trang trải phải đảm bảo đạt đợc
các mục tiêu đề ra một cách đồng bộ, tránh thiên lệch về một mục tiêu nào, nhất
là chỉ vì mục tiêu tăng thu nhập và tránh xu hớng thơng mại hoá các hoạt động
sự nghiệp.

Khuyến khích tiết kiệm, sử dụng hiệu quả kinh phí để tạo nguồn tăng thu
nhập của cán bộ, công chức chỉ là một trong số nhiều mục đích của cơ chế khoán
chi và tự trang trải, đây là mục đích dễ nhận thấy và thu hút sự quan tâm của các
đơn vị và cán bộ công chức. Tuy nhiên, các cơ chế trên còn nhằm các mục đích
sâu xa và lớn hơn cần phải quan tâm, đó là cải cách hành chính, tinh giản biên
23
chế, nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị và nâng cao hiệu lực của các cơ
quan quản lý nhà nớc, nâng cao chất lợng các sản phẩm, dịch vụ công do các
đơn vị sự nghiệp có thu cung cấp.
Ba là: Cần phải phân loại các đơn vị hành chính sự nghiệp theo tính chất
và đặc điểm khác nhau để từ đó có cơ chế tài chính phù hợp với từng nhóm
riêng. Đối với cơ chế khoán chi và tự trang trải, phạm vi thực hiện cũng cần quy
định bảo đảm đúng đối tợng và chỉ những đơn vị có đủ điều kiện mới đợc thực
hiện các cơ chế này.
Các đơn vị hành chính sự nghiệp có nhiều loại khác nhau, để nghiên cứu
áp dung các cơ chế tài chính phù hợp với từng loại hình đơn vị cần phải phân loại
theo những đặc điểm về tài chính của các đơn vị để từ đó xây dựng cơ chế tài
chính phù hợp. Chẳng hạn, cũng là các cơ quan hành chính có các đặc điểm và
tính chất hoạt động gần nh nhau nhng về tài chính, các cơ quan hành chính có
thu lại có một số nguồn thu từ chính hoạt động của cơ quan nên không thể thực
hiện khoán chi nh các cơ quan hành chính thuần tuý mà nó lại đòi hỏi phải có
một cơ chế riêng. Trong từng nhóm, các đơn vị cụ thể lại cũng có đặc điểm riêng
và có khả năng, điều kiện rất khác nhau. Vì vậy cần phải thống nhất quy định
các điều kiện thực hiện. Chỉ có các đơn vị có đủ điều kiện quy định mới đợc áp
dụng khoán chi hoặc cơ chế tự trang trải.
Bốn là: Triển khai thực hiện một cách thận trọng với các bớc đi thích hợp
trên cơ sở nghiên cứu, thí điểm và dần mở rộng cả về phạm vi, đối tợng và nội
dung khoán chi và tự trang trải.
Khoán chi hành chính đối với một số cơ quan hành chính Nhà nớc và thực
hiện cơ chế tự trang trải đối với một số đơn vị sự nghiệp có thu có đủ điều kiện là

một vấn đề mới và phức tạp, nhạy cảm. Vì vậy, cần phải đợc nghiên cứu kỹ lỡng,
có bớc đi thận trọng và thích hợp mà trớc hết là phải thực hiện thí điểm để từ đó
tổng kết, đánh giá , rút kinh nghiệm để làm cơ sở cho việc triển khai mở rộng.
Quá trình triển khai mở rộng cũng cần làm từng bớc, mở rộng dần cả về phạm vi,
đối tợng và nội dung các khoản chi đợc áp dụng.
Năm là: Khoán chi và tự trang trải phải đảm bảo nguyên tắc công khai,
dân chủ trên cơ sở tự quản.
Thực hiện khoán chi và tự trang trải, quyền chủ động và quyết định việc
sử dụng kinh phí của đơn vị đợc nâng lên đáng kể, việc sử dụng kinh phí tiết
kiệm đợc gần nh hoàn toàn thuộc quyền của đơn vị (Nhà nớc chỉ khống chế một
số mục đích và mức chi nhng với một khung rất rộng). Trong điều kiện nh vậy,
24
nếu không thực hiện tốt việc công khai tài chính và thực hiện cơ chế dân chủ
trong đơn vị thì rất có thể dẫn đến tình trạng chuyên quyền, độc đoán của thủ tr-
ởng đơn vị, tình trạng phân phối không công bằng và dẫn đến nghi ngờ, mất
đoàn kết, ảnh hởng tới chất lợng và hiệu quả hoạt động.
Sáu là: Khoán chi và tự trang trải phải đi đôi với việc tăng cờng quản lý
chất lợng công việc và dịch vụ công của các cơ quan, đơn vị thực hiện. Đảm bảo
đợc chức năng, nhiệm vụ của đơn vị đã đợc cấp có thẩm quyền quyết định với
chất lợng không đợc thấp hơn.
Đây cũng là một trong những đòi hỏi và là nội dung của lý thuyết quản lý
theo đầu ra, khi kinh phí đợc giao ổn định và đơn vị có quyền chủ động sử dụng
thì mục tiêu quản lý phải tập trung vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan hành chính (cả về lợng và chất) và quản lý về số lợng, chất lợng dịch
vụ công mà các đơn vị sự nghiệp có trách nhiệm cung cấp.
Bảy là: Thực hiện khoán chi và cơ chế tự trang trải vẫn phải bảo đảm
quyền lợi hợp pháp cho cán bộ, công chức và ngời lao động trong đơn vị.
Đơn vị thực hiện khoán chi và cơ chế tự trang trải đợc quyền chủ động
trong việc sắp xếp lại tổ chức, phân công lại lao động để thực hiện tinh giản biên
chế và có quyền chủ động sử dụng nguồn thu đợc để lại, quyết định việc phân

phối và sử dụng kinh phí tiết kiệm. Trong điều kiện đó, cần lu ý bảo đảm những
quyền lợi của cán bộ, công chức và ngời lao động trong đơn vị theo quy định của
pháp luật và theo các thoả thuận trong hợp đồng lao động đã đợc ký với ngời lao
động, tránh tình trạng vì mục tiêu tinh giản biên chế để tăng thu nhập mà làm
ảnh hởng những quyền lợi của ngời lao động.
II/ Các giải pháp tài chính để thực hiện khoán chi hành chính và cơ
chế tự trang trải.
1/ Những giải pháp tài chính để thực hiện khoán chi hành chính.
1.1/ Xây dựng nội dung khoán và mức khoán.
Về các khoản kinh phí thực hiện khoán:
Các nội dung chi thực hiện khoán cần đợc lựa chọn theo nguyên tắc u tiên
khoán đối với những khoản chi cho con ngời, những khoản chi mà việc sử dụng
có liên quan trực tiếp tới ý thức tiết kiệm của cán bộ, công chức. Đồng thời,
không thực hiện khoán chi đối với những khoản chi mà việc hạn chế chi sẽ có
ảnh hởng tới kết quả hoạt động lâu dài của các đơn vị. Với nguyên tắc đó, có thể
thực hiện khoán chi đối với hầu hết các khoản chi quản lý hành chính của các
đơn vị (chi thờng xuyên). Những khoản chi thực hiện khoán gồm:
25

×