Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Những nội dung chủ yếu về bản thể luận trong triết học Mác- Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.07 KB, 22 trang )

BÀI TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC

Tên đề bài:

“NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU VỀ BẢN THỂ LUẬN
TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN”

HÀ NỘI, 2022


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Triết học Mác - Lênin ra đời với phương pháp biện chứng, có sự thống nhất
chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời đứng vững trên lập trường duy vật
triệt để đã khẳng định bước tiến vĩ đại trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại;
mang lại thế giới quan, phương pháp luận khoa học, kim chỉ nam cho hoạt động
nhận thức và cải tạo thế giới của con người. Bên cạnh đó, với tính mở, tính phát
triển ln đảm bảo cho giá trị của hệ thống lý luận triết học Mác - Lênin có sức
sống bất diệt, trường tồn với thời gian.
Vượt lên trên và thể hiện sự khác hẳn về chất so với các học thuyết triết học
trong lịch sử, triết học Mác - Lênin đã chứng minh giá trị khoa học và cách mạng
của mình trước sự kiểm nghiệm nghiêm ngặt của thực tiễn. Nó khơng những khơng
mất đi như “mong muốn” và sự áp đặt của những người hoài nghi và những kẻ thù
chủ nghĩa Mác. Trái lại, triết học Mác - Lênin ngày càng “thâm nhập sâu vào quần
chúng”, chuyển hóa thành lực lượng vật chất to lớn và thể hiện sức sống mãnh liệt
với hoạt động nhận thức, cải tạo thế giới của con người, nhất là với giai cấp cơng
nhân trong tiến trình cải tạo xã hội để đi đến một xã hội không giai cấp - xã hội xã
hội chủ nghĩa - xã hội tiến bộ đỉnh cao trong tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên
của nhân loại.


Trong các nội dung của triết học Mác - Lênin vấn đề bản thể luận được xem
là nội dung quan trọng đòi hỏi các học viên khi học cần chú trọng nghiên cứu tìm
hiểu để có thể hiểu rõ được các nội dung có liên quan cũng như có khả năng
nghiên cứu cũng như học tốt được môn học này. Xuất phát từ những vấn đề trên do
vậy em đã lựa chọn đề tài câu 2: “Những nội dung chủ yếu về bản thể luận trong
triết học Mác-Lênin” để làm bài thu hoạch kết thúc môn Các lớp cao học không
chuyên triết năm 2022.
3


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
VÀ VAI TRÒ CỦATRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
1.1. Quan niệm chung về triết học Mác- Lênin
1.1.1. Khái niệm triết học
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII – VI (TCN). Trong tiếng Anh, từ
“Philosophy” (triết học) xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ, được ghép từ hai từ “Philos
– Tình yêu” và “Sophia – Sự thơng thái”. Theo nghĩa đen: Triết học (philosophia)
là tình yêu đối với sự thông thái.
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới;
về vị trí, vai trị của con người trong thế giới ấy; những vấn đề có kết nối với chân
lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ.
Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề
chung nhất, những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một
cách có hệ thống dưới dạng lý luận.
Nói cách khác Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học
thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con
người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy.

Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi giữa
tồn tại (vật chất) và tư duy (ý thức) cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào. Việc giải quyết mặt thứ nhất này đã chia các nhà triết học thành hai
4


trường phái lớn. Chủ nghĩa duy vật cho rằng tồn tại (vật chất) có trước tư duy (ý
thức) và quyết định tư duy (ý thức). Nói cách khác, chủ nghĩa duy vật cho rằng bản
chất của thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật
chất có trước ý thức và quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy tâm, ngược lại, cho rằng
tư duy (ý thức) có trước tồn tại (vật chất) và quyết định tồn tại (vật chất). Theo
cách khác, chủ nghĩa duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là tinh thần; ý thức là
tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất.
Mặt thứ hai trả lời câu hỏi tư duy (ý thức) của con người có thể phản ánh
được tồn tại (vật chất) hay khơng? Nói cách khác là con người có khả năng nhận
thức được thế giới hay không? Đến đây lại chia thành hai học thuyết: Thuyết khả
tri (có thể biết) và thuyết: Bất khả tri (khơng thể biết) phủ định, hoài nghi khả năng
nhận thức thế giới của con người. Sự phát triển của khoa học (từ cuộc cách mạng
1.0 đến nay là 4.0) và thực tiễn của nhân loại đã bác bỏ chủ nghĩa hoài nghi và
thuyết không thể biết.
1.1.2. Khái niệm Triết học Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học về sự
nghiệp giải phóng giai cấp vơ sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp
bức, bóc lột, tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng con người; học thuyết này
được sáng lập bởi C. Mác, Ph. Ăngghen và được V.I. Lênin vận dụng và phát triển
trong thực tiễn. Chủ nghĩa Mác – Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ
bản, đó là: Triết học Mác – Lênin, Kinh tế chính trị học Mác – Lênin, Chủ nghĩa xã
hội khoa học. Chủ nghĩa Mác – Lênin được cấu thành từ ba bộ phận cơ bản, có mối
quan hệ biện chứng, khơng tách rời nhau, mà thống nhất thành một hệ thống.
Triết học Mác - Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa

Mác - Lênin, do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ
5


XIX; được V.I.Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện lịch sử mới. Triết học là
bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất
của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
1.2. Vai trò của triết học Mác-Lênin
Triết học Mác-Lênin đóng vai trị quan trọng trong nhiều vấn đề khác nhau,
điều này thể hiện trong các nội dung sau đây:
Thứ nhất, trên cơ sở kế thừa một cách chọn lọc và có phê phán những thành
tựu của tư duy tư tưởng triết học nhân loại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã sáng tạo nên một hệ thống triết học mới hoàn tồn về chất; có tính hồn
bị và triệt để nhất. Trong đó, đã thể hiện sự thống nhất cao giữa chủ nghĩa duy vật
với phép biện chứng; giữa quan niệm duy vật về tự nhiên với quan niệm duy vật về
đời sống xã hội; giữa việc giải thích hiện thực về mặt triết học với cung cấp
phương pháp luận khoa học cho giai cấp cơng nhân và chính đảng cuả nó trong
cuộc đấu tranh cải tạo hiện thực xã hội. Trước khi triết học Mác - Lênin xuất hiện,
các học thuyết triết học cũng đã chứa đựng khơng ít những luận điểm thể hiện tinh
thần biện chứng. Song, do hạn chế của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
nhất định, nên chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng khơng có sự liên kết chặt chẽ,
mà trái lại luôn tách rời nhau. Theo Mác: “khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ
nghĩa duy vật từ trước tới nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc - là sự vật,
hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay
hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con
người, của thực tiễn”.
Khắc phục những nhược điểm của chủ nghĩa duy vật trước đó, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật triết học chân chính khoa học bằng
6



cách xuất phát từ con người hiện thực - con người hoạt động thực tiễn mà trước hết
là thực tiễn sản xuất vật chất và thực tiễn đấu tranh chính trị - xã hội. Nói cách
khác, chủ nghĩa duy vật cũ là chủ nghĩa duy vật bị “cầm tù” trong cách nhìn chật
hẹp, phiến diện của phép siêu hình và duy tâm về xã hội. Trong khi đó, phép biện
chứng lại được phát triển trong cái vỏ duy tâm thần bí của một số đại biểu triết học
cổ điển Đức, đặc biệt trong triết học Hêghen. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra cơ
sở duy tâm của triết học Hêghen, vạch ra mâu thuẫn chủ yếu giữa hệ thống triết
học bảo thủ, giáo điều với phương pháp biện chứng, cách mạng. Nếu như ở hệ
thống triết học của Hêghen đã coi thường nội dung đời sống thực tế và xuyên tạc
bức tranh khoa học hiện thực; phép biện chứng duy tâm của Hêghen đã bất lực
trước sự phân tích thực tiễn, phân tích sự phát triển của nền sản xuất vật chất và
đặc biệt là bất lực trước sự phân tích các sự kiện chính trị. Trái lại, bằng việc kết
hợp một cách tài tình giữa việc giải phóng chủ nghĩa duy vật khỏi tính chất trực
quan, máy móc siêu hình và giải phóng phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm
thần bí, các nhà kinh điển triết học Mác - Lênin lần đầu tiên trong lịch sử đã sáng
tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hồn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật biện chứng vào
nghiên cứu lịch sử xã hội và mở rộng vào nghiên cứu một lĩnh vực đặc thù của thế
giới vật chất là sự tồn tại có hoạt động của con người, tồn tại trong sự thống
nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Từ đó, đã “làm cho chủ nghĩa
duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên
đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành
tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”.
Thứ hai, triết học Mác - Lênin giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lý luận
và thực tiễn; đồng thời ln thể hiện tính mở, tính phát triển trong tồn hệ thống lý
luận. triết học Mác - Lênin là hệ thống lý luận lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng
7



triết học nhân loại xác định đúng đắn vị trí, vai trị của thực tiễn, coi thực tiễn là
“tính thứ nhất”, lấy thực tiễn làm điểm xuất phát và là mục đích của mọi lý luận.
Từ đó, làm cho Triết học luôn phản ánh được “hơi thở của thực tiễn”; đồng thời đã
khám phá ra bản chất, vai trò của thực tiễn; thực hiện gắn bó một cách hữu cơ giữa
q trình phát triển lí luận với thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động. Coi việc thống nhất
giữa lí luận và thực tiễn là vấn đề có tính ngun tắc trong mọi luận điểm đề
xuất. Chính điều này đã làm cho vai trị xã hội của triết học cũng như vị trí của nó
trong hệ thống tri thức khoa học của nhân loại có sự biến đổi rất căn bản. Giờ đây,
triết học không chỉ có chức năng giải thích thế giới, mà ln đặt mục tiêu là ngọn
nến soi đường, dẫn dắt, hướng vào cải tạo thế giới bằng bởi “phương pháp luận”
khoa học, biện chứng và cách mạng. Như lời khẳng định của C.Mác: “Các nhà triết
học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế
giới”.
Cùng với việc giải quyết một cách thuyết phục những “đòi hỏi của lịch sử”
trong xã hội đương thời mà Mác, Ăngghen, Lênin cống hiến, sáng tạo thì sức sống
của triết học Mác - Lênin còn được quy định sâu sắc ở tính mở, tính phát triển
trong tồn hệ thống. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ
xem hệ thống lý luận của mình là “nhất thành bất biến, đóng khung và tuyệt đích”;
trái lại, các ơng ln hiểu rõ “là sản phẩm của thời đại của mình”, chịu sự quy định
của bối cảnh đương thời nên không thể khái quát, dự báo toàn diện khi thời cuộc
thay đổi. Ph.Ăngghen khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát
triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lịng và lắp lại
một cách máy móc”. Tính mở và tính phát triển của triết học Mác - Lênin được thể
hiện ở chỗ luôn hướng về thực tiễn - xã hội và lịch sử (phát triển sản xuất, cải tạo
xã hội, phát triển khoa học - công nghệ,...), hướng về thời đại, về tương lai, chứ
8


tuyệt nhiên khơng phải là thứ lý luận khép kín kiểu thư phòng và kinh viện.

V.I.Lênin từng nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái
gì đã xong xi hẳn và bất khả xâm phạm”. Triết học Mác - Lênin luôn hướng vào
giải quyết những vấn đề cơ bản và thiết thực do thực tiễn đặt ra, đồng thời nghiên
cứu, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận và dự báo tương lai. Hệ thống ấy vì thế
mà có khả năng hấp thụ “sinh khí thực tiễn”, được thực tiễn lịch sử “phản biện”,
kiểm nghiệm, chứng minh, làm giàu để luôn “tự đổi mới và không ngừng phát
triển”; vươn lên tầm cao mới, phù hợp với bối cảnh, điều kiện thực tiễn mới.
Thứ ba, triết học Mác - Lênin thực sự đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ
giữa tính đảng và tính khoa học. Với thế giới quan và phương pháp luận khoa
học, Triết học Mác - Lênin giữ vai trò là ngọn đuốc sáng cho con người đi trong
đêm tối, hướng vào cải tạo hiện thực mọi mặt đời sống xã hội của con người. Đồng
thời, do gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản - giai
cấp tiến bộ và cách mạng nhất trong xã hội hiện đại, một giai cấp có lợi ích phù
hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và sự phát triển xã hội nên khác hẳn
với mọi học thuyết triết học trong lịch sử, triết học Mác - Lênin ln cơng khai tính
đảng, thấy được nguồn sức mạnh vật chất của xã hội và biến triết học của mình
thành vũ khí tinh thần của lực lượng vật chất ấy - Giai cấp vô sản với tinh
thần: “Giống như triết học thấy giai cấp vơ sản là vũ khí vật chất của mình, giai
cấp vơ sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”.

9


Chương 2
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢN THỂ LUẬN VÀ CÁCH GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
2.1. Khái quát chung về bản thể luận
Với tư cách một thành tố căn bản, là “thể nền” của bất kỳ hệ thống triết học
nào, bản thể luận và đi liền với nó là cách tiếp cận bản thể luận đã cho thấy lơgíc
vận động nội tại của triết học nói chung. Bản thể luận là bộ phận cơ bản nhất của

siêu hình học. Tên gọi “bản thể luận” chỉ xuất hiện lần đầu tiên ở thế kỷ XVII,
trong “Lexicon philosophicum” (Bách khoa thư triết học) của triết gia R.Goclenius
được xuất bản tại Phrăngphuốc (Đức) vào năm 1613. Muộn hơn một chút, thuật
ngữ này cũng đã xuất hiện trong các tác phẩm của A.Calovius (xuất bản tại
Rostock, năm 1636) và của J.B. du Hamel (xuất bản tại Pari, năm 1687). Năm
1656, J.Clauberg cũng đã sử dụng thuật ngữ này trong “Siêu hình học” được xuất
bản tại Amsterdam. Thuật ngữ này được phổ biến rộng rãi trong triết học sau khi
C.Vônphơ (C.Wolff) sử dụng nó để chỉ một bộ phận căn bản của siêu hình học, bên
cạnh vũ trụ luận, tâm lý học và thần học.
Như vậy, tên gọi “bản thể luận” chỉ xuất hiện vào thế kỷ XVII, nhưng tư
tưởng bản thể luận đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử triết học, ngay từ thời Cổ
đại. Nói một cách chung nhất, bản thể luận được hiểu là học thuyết về tồn tại và
khái niệm “tồn tại” là một trong các khái niệm cơ bản của triết học phương Tây.
Chính vì vậy mà việc nghiên cứu lịch sử bản thể luận, lịch sử các quan niệm, học
thuyết triết học về tồn tại, về khái niệm tồn tại là con đường duy nhất để làm sáng
tỏ nội dung của khái niệm này. Chỉ thơng qua đó, chúng ta mới có thể có được nội
dung các nguyên tắc, cách tiếp cận bản thể luận. Thuật ngữ bản thể luận có nguồn
10


gốc từ tiếng Hy Lạp, nó là sự kết hợp giữa hai từ on (όv) – “cái thực tồn”, cái đang
tồn tại và logos (λόγος) – lời lẽ, học thuyết, tạo thành “học thuyết về tồn tại”.
Vậy, bản thể luận cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về cấu trúc cơ bản của tất
cả những cái thực tồn bằng cách nào? Nói chung, nó có thể thực hiện điều ấy bằng
hai cách thức khác nhau. Một mặt, chúng ta có thể xem xét các kinh nghiệm của
mình về những cái thực tồn và từ đó, tìm cách xác định những đặc trưng, tính chất
cơ bản của chúng.
2.2. Cách tiếp cận giải quyết vấn đề bản thể luận trong triết học MácLênin
Bản thể luận chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong triết học, nghiên cứu
về bản thể luận là bàn về sự tồn tại, bàn về khởi nguyên của thế giới, do đó bản thể

luận là một vấn đề cơ bản của triết học, theo Ăng – ghen, “vấn đề cơ bản lớn của
mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn
tại”.
Khuynh hướng chung của các nhà triết học duy vật thời cổ đại là đi tìm một
thức thể ban đầu nào đó là coi nó là yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng khác
nhau của thế giới, tất cả để bắt nguồn từ đó và cuối cùng đều tan biến phát triển,
ddã xuất hiện những tư tưởng biện chứng nhất định trong quan niệm về vật chất,
song quan niệm đó ở các nhà triết học duy vật thời kỳ này về cơ bản vẫn mang tính
chất cơ giới, thời kỳ này thì các nhà triết học đã đồng nhất vật chất với thuộc tính
của vật chất. Chỉ đến triết học Mác-Lênin mới có thể giải quyết triệt để những hạn
chế theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Đặc biệt, cách tiếp cận giải quyết vấn đề bản thể luận trong triết học MácLênin có những điểm chính như sau:

11


Thứ nhất, trong triết học Mác- Lênin bản thể là vật chất, mọi cái đều từ vật
chất mà ra rồi lại trở về vật chất. Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống
nhất ở tính vật chất.
Thứ hai, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới duy nhất và thống nhất đó là
thế giới vật chất, ngay cả ý thức cũng chỉ là một thuộc tính đặc biệt của vật chất.
Thứ ba, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau, chúng là những dạng cụ thể của vật chất, đều là vật chất và có nguồn gốc từ
vật chất.
Thứ tư, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không được sinh ra
cũng như khơng bị mất đi, trong thế giới khơng có gì khác ngồi những q trình
vật chất đang vận động, biến đổi cũng như chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc,
nguyên nhân và kết quả của nhau.
Thứ năm, xã hội loài người là cấp độ cao nhất của của cấu tạo vật chất, là
cấp độ đặc biệt của tổ chức vật chất. Thế giới vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh

hằng và vơ tận với vơ số những mn hình muôn vẻ.
Thứ sáu, trong triết học Mác- Lênin cho rằng tồn tại của thế giới là tiền đề
cho sự thống nhất của nó vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước
hết thế giới phải tồn tại, tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của
nó.

12


Chương 3
NHỮNG NỘI DUNG VỀ BẢN THỂ LUẬN
TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
3.1. Quan niệm của triết học Mác- Lênin về vật chất
Thứ nhất, quan niệm về vật chất của C.Mác và Ph. Ăngghen
Chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng ra đời vào những năm 40
của thế kỷ XIX với sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách
một lực lượng chính trị xã hội độc lập dấu tranh lại giai cấp tư sản vì dân chủ và
tiến bộ xã hội. Thực hiện cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu khác nhất
cho sự ra đời triết học Mác.
Cách tiếp cận vấn đề bản thể luận: Về cách tiếp cận giải quyết vấn đề bản
thể luận trong triết học Mác-Lênin là chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là
thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý
thức. Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Chỉ có
một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Mọi bộ phận của thế giới
vật chất đều có mối liên hiện với nhau.
Quan niệm của triết học Mác-Lê Nin về vật chất. Vật chất là phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác. Vật chất là thực tại khách quan, tức là cái tồn tại khách quan nên
ngồi y thức, có thật và khơng phụ thuộc vào y thức. Vật chất là cái gây nên cảm

giác ở con người khi bằng cách nào đó tác động lên giác quan còn người. Vật chất
là cái mà cảm giác, từ duy, ý chí chẳng qua là sự phản ánh của nó.
13


Khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật
cũ: cũng cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất;
tạo có sở lý luận cơ việc xây dựng quan điểm Duy vật về lịch sử, khắc phục được
những hạn chế Duy tâm trọng quan niệm về xã hội. Định nghĩa đã khẳng định tình
thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm Duy vật; Khang định
có người có thể nhận thức được thực tại khách quan thông qua” chụp lại, chép lạ,
phản ánh” của con người đối với thực tại khách quan. Vật chất là phương thức tồn
tại của vật chất.
C.Mác và Ph. Ăngghen đã phân biệt tính khái quát của phạm trù vật chất và
sự tồn tại vật chất ở những dạng cụ thể, chỉ ra sự tồn tại khách quan của vật chất,
chỉ ra tính vơ tận, vơ hạn của vật chất, tính khơng thể sáng tạo và khơng thể tiêu
diệt được của nó, chỉ ra hình thức và phương thức tồn tại của vật chất.
Trong giai đoạn của C.Mác và Ph.Ăngghen, các ông chưa đưa ra định nghĩa
vật chất, nhưng cũng đã đưa ra quan điểm như: về sự đối lập giữa vật chất và ý
thức, về bản chất và tính thống nhất vật chất của thế giới, về vận động, về khơng
gian, thời gian... Chính những quan điểm đó đã đặt cơ sở làm nền móng để sau này
V.I.Lênin kế thừa và phát triển nâng nội dung phạm trù vật chất thành một định
nghĩa hoàn chỉnh.
Thứ hai, quan niệm vật chất của V.I.Lênin
Trong lịch sử tư tưởng triết học đã có nhiều nhà tư tưởng đưa ra quan điểm
của mình về phạm trù vật chất, song vẫn cịn mắc phải những hạn chế nhất định,
chưa giải quyết triệt để phạm trù vật chất. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” (viết năm 1908, xuất bản lần đầu năm 1909)
V.I.Lênin đã đưa ra một định nghĩa chính xác, khoa học và sâu sắc nhất về phạm
trù vật chất: “vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan,

14


được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa trên được ra đời trên cơ sở những điều kiện khách quan và chủ
quan sau đây:
Ở thời kỳ cổ đại các nhà triết học duy vật đi tìm một nguyên thể vật chất
đầu tiên, coi đó là cơ sở của thế giới, của mọi sự tồn tại và họ thường đồng nhất vật
chất nói chung với một dạng cụ thể của nó. Đến thời kỳ cận đại (thế kỷ XVII XVIII) các nhà triết học duy vật một mặt tiếp tục thừa nhận quan điểm đồng nhất
vật chất với nguyên tử - là dạng vật chất nhỏ bé nhất, không thể phân chia được
nữa. Mặt khác, rơi vào quan điểm siêu hình đồng nhất vật chất với một thuộc tính
nào đó của nó như khối lượng, năng lượng… Những quan niệm về vật chất nêu
trên mặc dù cịn có những hạn chế như: mang tính chất thơ sơ, chất phác, cơ giới,
siêu hình. Song đã khẳng định sự tồn tại của thế giới vật chất, đây là cơ sở để bác
bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo cho rằng ý thức tinh thần là cái có
trước quyết định vật chất.
V.I.Lênin đưa ra một phương pháp mới của lơgíc biện chứng để định nghĩa
vật chất chứ khơng sử dụng phương pháp thông thường, bởi ông chỉ ra rằng, phạm
trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học - một phạm trù khái qt nhất, khơng
có một phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Cách duy nhất về mặt phương
pháp luận, chỉ có thể định nghĩa vật chất bằng cách đặt phạm trù ấy đối lập với ý
thức, xem vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người,
ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới khách quan mà thơi. Từ đó, giải thích vấn đề cơ
bản của triết học trên lập trường thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã kế thừa, bảo vệ, phát triển quan điểm
của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất; khắc phục được tính trực quan, siêu hình,
15



máy móc trong quan niệm về vật chất của các thời kỳ trước; giải quyết được sự
khủng hoảng về mặt nhận thức luận trong khoa học tự nhiên ở đầu thế kỷ XX tạo
nền tảng vững chắc cho chủ nghĩa duy vật phát triển. Định nghĩa này chính là cơ sở
khoa học và là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa
hoài nghi và thuyết không thể biết đã phủ nhận khả năng nhận thức của con người
về thế giới. Định nghĩa về vật chất của Lênin đã trang bị thế giới quan và phương
pháp luận khoa học cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất; động
viên, cổ vũ họ tin ở khả năng nhận thức của con người, tiếp tục đi sâu khám phá
những thuộc tính mới của vật chất.
3.2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về ý thức
Ý thức là hình thức phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao
đó là óc người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, ý thức ra đời từ nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Về nguồn gốc tự nhiên-. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất đặc biệt
là “óc người”, ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Con
người là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ đến
hữu cơ, từ đơn bào đến đa bào, từ động vật bậc thấp đến động vật bậc cao. Óc
người là sản phẩm phát triển cao nhất của vật chất có cấu tạo rất tinh vi, là cơ quan
vật chất của ý thức. Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trong bộ não người, trên cơ sở các
quá trình sinh lý thần kinh của bộ não.
Ý thức là thuộc tính của bộ não người, là sự phản ánh thế giới khách quan
vào bộ não người. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thông vật chất này
những đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong q trình tác động qua lại giữa
chúng. Thuộc tính phản ánh gắn với sự tiến hóa của hệ thống vật chất từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự phát triển của các hình thức phản ánh từ thấp đến
16


cao tương ứng với trình độ kết cấu của thế giới vật chất, phản ánh ý thức của con
người là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Như vậy, não người và

sự tác động của thế giới vật chất xung quanh lên bộ não là nguồn gốc tự nhiên của
ý thức.
Về nguồn gốc xã hội: Lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội của ý thức.
Thông qua lao động đã cải biến thế giới tự nhiên, sáng tạo ra con người và xã hội;
cùng với q trình đó, các giác quan của con người ngày càng phát triển, hoàn
thiện và khả năng phản ánh của ý thức sẽ ngày càng cao. Thông qua lao động, con
người chế tạo ra công cụ lao động, nối dài các giác quan. Công cụ lao động càng
phát triển, càng làm tăng khả năng của con người tác động vào tự nhiên, xã hội và
chính bản thân mình, buộc thế giới khách quan bộc lộ các thuộc tính để con người
nhận thức, cải tạo thỏa mãn nhu cầu.
Trong quá trình lao động, con người có nhu cầu trao đổi kinh nghiệm với
nhau, từ đó ngơn ngữ ra đời và phát triển. Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là
“cái vỏ vật chất” của tư duy, là công cụ của tư duy để con người phản ánh, khái
quát hóa, trừu tượng hóa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Ngôn ngữ
là phương tiện để lưu truyền tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác, giúp lồi
người và mỗi người nhanh chóng hình thành, phát triển ý thức. Lao động cùng
ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội hình thành ý thức, có mối quan hệ chặt chẽ, thống
nhất biện chứng với nhau, là cơ sở, tiền đề cho nhau tồn tại, phát triển, luôn giữ vai
trò quyết định đối với sự ra đời phát triển của ý thức.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở để phê phán các quan
điểm duy tâm, tơn giáo, siêu hình về nguồn gốc của ý thức. Theo quan điểm của
chủ nghĩa duy tâm, ý thức ra đời từ một lực lượng siêu tự nhiên, hoặc do cảm giác
của con người sinh ra. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình tuy bác bỏ tính
chất thần bí của ý thức, nhưng lại đồng nhất ý thức với vật chất.
17


3.3. Quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có nghĩa tuyệt đối
trong phạm vi hết sức hạn chế: Trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề

nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì có sau. Ngồi giới hạn
đó thì khơng cịn nghi ngờ gì nữa sự đối lập đó chỉ là tương đối. Như vậy, để phân
ranh giới chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và thống
nhất của thế giới, cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả
lời câu hỏi cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Không như
vậy sẽ lẫn lộn hai đường lối cơ bản trong triết học, lẫn lộn vật chất với ý thức và
cuối cùng sẽ xa dời quan điểm duy vật. Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ
là tương đối nếu như chúng là những nguyên tố, những mặt không thể thiếu được
trong hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của
con người. Bởi vì, ý thức tự nó khơng thể cải biến được sự vật, khơng có khả năng
tự biến thành hiện thực.
Nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải biết
được tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hố những mục đích mà nó đề ra
cho hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh sáng
tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức
mới có khả năng cải biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang dã, thanh
tự nhiên trù phú, sinh động, tự nhiên của con người.
Như vậy, tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện
ở tính độc lập tương đối, tính năng động của ý thức. Mặt khác, đời sống con người
là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần
trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng và những nhu
cầu vật chất cũng bị tinh thần hoá. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa
vật chất và ý thức khơng có ý nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố có vai trị
18


như nhau trong đời sống và hoạt động của con người. Trái lại, triết học Mác-Lênin
khẳng định rằng, trong hoạt động của con người, những nhân tố vật chất và ý thức
có tác động qua lại, song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân
tố vật chất so với tính thứ hai của nhân tố ý thức.

Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao
giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và qui định hoạt động của con người vì
nhân tố vật chất qui định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt
động của con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần
khác biến thành hiện thực và qua đó qui định mục đích chủ trương biện pháp mà
con người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung, cụ
thể hố mục đích, chủ trương, biện pháp đó. Hoạt động nhận thức của con người
bao giờ cũng hướng đến mục tiêu để biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc
sống, hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ
thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có.
Khẳng định vai trị cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất, triết học
Mác- Lênin đồng thời cũng không coi nhẹ vai trị của nhân tố tinh thần, của tính
năng động chủ quan. Nhân tố ý thức có tác dụng trở lại quan trọng đối với nhân tố
vật chất. Hơn nữa, trong hoạt động của mình con người khơng thể để cho thế giới
khách quan, quy luật khách quan chi phối mà chủ động hướng nó đi theo con
đường có lợi của mình. Ý thức con người khơng thể tạo ra các đối tượng vật chất,
cũng không thể thay đổi qui luật vận động của nó. D đó, trong q trình hoạt động
của mình, con người phải tuân theo qui luật khách quan và chỉ có thể đề ra những
mục đích, chủ trương trong phạm vi hoàn cảnh vật chất cho phép.

19


20


KẾT LUẬN
Ngay sau khi ra đời và trở thành hệ thống lý luận hồn chỉnh, nó đã trực tiếp
đi vào đời sống xã hội, lan truyền nhanh chóng từ các quốc gia thuộc châu Âu rồi
sang toàn thế giới; trở thành vũ khí lý luận sắc bén, thế giới quan, nhân sinh quan

và phương pháp luận khoa học, cách mạng cho giai cấp công nhân trong công cuộc
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình - cải tạo một cách toàn diện các mặt, các lĩnh
vực của đời sống xã hội; xóa bỏ triệt để mọi áp bức, bóc lột, bất công để xây dựng
chế độ xã hội mới, tốt đẹp - xã hội Xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa. Sự
trường tồn của triết học Mác - Lênin cũng chính bởi giá trị khoa học, cách mạng và
hết sức nhân văn ấy.
Bên cạnh việc cơng khai tính đảng, triết học Mác - Lênin ra đời với tính
khoa học triệt để đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học muốn biến triết học
thành “khoa học của mọi khoa học”, đứng trên mọi khoa học. Các nhà kinh điển
của triết học Mác - Lênin đã xác lập đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với khoa
học cụ thể. Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng: “dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi
nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi
một thứ triết học tồi tệ hợp mốt hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư
duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tựu của nó”.
Trên thực tế, Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng lí luận triết học của mình trên
cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên.
Ph.Ăngghenđã chỉ rõ rằng, mỗi lần có phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh
vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật khơng tránh khỏi phải thay đổi cả nội
dung và hình thức biểu hiện của nó. Ở chiều hướng ngược lại, triết học Mác Lênin ra đời đã cung cấp thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung, cần
thiết cho sự phát triển của các ngành khoa học cụ thể.
21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ giáo dục và đào tạo (1999), Lịch sử Triết học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
2. Bộ giáo dục và đào tạo (2014), Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao
học khoa học xã hội và nhân văn), Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội.
3. Vũ Trọng Dung - Lê Doãn Tá - Lê Thị Thuỷ (Đồng chủ biên) (2011), Giáo
trình Triết học Mác - Lênin, Tập 1, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2011.

4. Đại học Sư phạm Hà Nội (2021), Chuyên đề triết học (dùng cho học viên
cao học và NCS không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb. ĐHSP Hà Nội,
Hà Nội.
5. Đại học Sư phạm Hà Nội (2021), Lịch sử Triết học (dùng cho học viên cao
học và NCS không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb. ĐHSP Hà Nội, Hà
Nội.
6. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội (1999), C.Mác và Ph.Ăngghen:
Toàn tập, tiếng Việt, tập 1, Nxb.CTQG, Hà Nội.
7. Nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva (1978), V.I.Lênin: Toàn tập, tiếng Việt, tập
11, Nxb Tiến bộ Matxcơva, Matxcơva.
8. Lê Thị Thuỷ - Nguyễn Thị Minh Tâm - Vũ Văn Hậu (Đồng chủ biên)
(2011), Hướng dẫn học tập, nghiên cứu chuyên đề Triết học Mác - Lênin,
Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
9. Viện nghiên cứu lịch sử chủ nghĩa Mác-Lê nin, Trường đại học nhân dân
Trung Quốc (2003), Lịch sử chủ nghĩa Mác, tập I, Nxb. CTQG ấn hành Hà
Nội.
10.Nguyễn Hữu Vui (2004), Lịch sử Triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22



×