ĐẶC ĐIỂM TỪ GHÉP QUA CÁC ĐOẠN TRÍCH TRONG TIẾNG VIỆT 4
HOÀNG THỊ LÝ
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Tìm hiểu đặc điểm từ ghép qua các đoạn trích trong sách giáo khoa
(SGK) Tiếng Việt lớp 4 ở tiểu học là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng liên quan
đến mục tiêu phát huy năng lực phát triển vốn từ cho học sinh ở bậc tiểu học. Qua
đó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa các đơn vị từ ngữ mà cụ thể đây
là từ ghép với đặc điểm nội dung và phong cách văn bản có thể góp phần phục vụ
việc giảng dạy từ ghép trong nhà trường theo quan điểm giao tiếp.
Từ khóa: từ ghép, Tiếng Việt, năng lực, học sinh, giao tiếp
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tìm hiểu đặc điểm từ ghép qua các đoạn trích trong Tiếng Việt ở tiểu học là một vấn đề có ý
nghĩa quan trọng liên quan đến mục tiêu phát huy năng lực phát triển vốn từ cho học sinh ở
bậc tiểu học. Bởi lẽ, hiểu được đặc điểm cấu tạo và đặc điểm chức năng của từ ghép sẽ giúp
học sinh hiểu được vai trò của các loại từ ghép trong chức năng cấu tạo văn bản và qua đó
cũng phần nào hiểu được dấu ấn phong cách văn bản. Từ đó, giúp học sinh có ý thức lựa chọn
sử dụng từ ghép đúng về đặc điểm hình thức và phù hợp với tính huống giao tiếp của từng
loại văn bản.
Tìm hiểu mối quan hệ giữa các đơn vị từ ngữ mà cụ thể đây là từ ghép với đặc điểm nội dung
và phong cách văn bản có thể góp phần phục vụ việc giảng dạy từ ghép trong nhà trường theo
quan điểm giao tiếp. Chúng tôi chọn ngữ liệu trong SGK Tiếng Việt 4 làm đối tượng khảo sát
vì ở khối lớp này lượng từ ghép chứa đựng trong các văn bản được mở rộng nhiều hơn so với
các lớp trước. Văn bản đọc có dung lượng lớn, nội dung phong phú và đa dạng, thể hiện mục
đích phát triển năng lực tiếp nhận và sử dụng từ ghép cả về chất và lượng,… là những điều
kiện thuận lợi cho việc khảo sát, nghiên cứu và đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng dạy
học, sử dụng lớp từ này trong giao tiếp.
2. ĐẶC ĐIỂM TỪ GHÉP QUA CÁC ĐOẠN TRÍCH TRONG SGK TIẾNG VIỆT 4
2.1. Đặc điểm cấu tạo và đặc điểm ngữ nghĩa của từ ghép trong các đoạn trích
Vấn đề cấu tạo từ ghép trong tiếng Việt vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Phù hợp với việc dạy
học từ ngữ ở tiểu học, chúng tôi chấp nhận cách “phân loại từ ghép dựa vào quan hệ chức
năng của các yếu tố cấu tạo” [1, tr. 79] (thể hiện rõ trong SGK): từ ghép có quan hệ đẳng lập
và từ ghép có quan hệ chính phụ. Bên cạnh đó, các tiểu loại của mỗi kiểu từ ghép này lại được
xem xét theo đặc điểm từ loại và theo quan hệ ngữ nghĩa của các thành tố cấu tạo.
Qua khảo sát và thống kê từ các văn bản trong SGK Tiếng Việt lớp 4, chúng tôi thu được một
khối lượng lớn các từ ghép với nhiều kiểu dạng khác nhau. Những mơ hình cấu tạo từ ghép
được dùng phổ biến trong các đoạn trích của SGK Tiếng Việt 4 thể hiện như sau:
Bảng 1. Kiểu dạng các từ ghép trong SGK Tiếng Việt lớp 4
Kiểu dạng
Đẳng lập
Chính phụ
Từ ghép
Số lượng
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sau Đại học lần thứ hai
Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 10/2014: tr. 603-610
Tỉ lệ %
149
861
1010
14,8
85,2
100
HOÀNG THỊ LÝ
604
2.1.1. Từ ghép đẳng lập
“Là loại từ ghép được hình thành bằng cách kết hợp hai hay nhiều yếu tố lại với nhau, các yếu
tố trong đó được tồn tại bình đẳng, khơng phụ thuộc vào nhau”[6, tr. 60]. Xét về mặt quan hệ
ý nghĩa giữa các thành tố có thể thấy: hoặc các thành tố đồng nghĩa nhau; hoặc các thành tố
gần nghĩa nhau; hoặc các thành tố trái nghĩa nhau.
Mơ hình chung:
Y1+ Y2 + Yn
(Y1, Y2, Yn là các yếu tố cấu thành từ ghép)
Đây là mơ hình chung mang tính chất khái qt. Trong ngữ liệu được chọn làm đối tượng
nghiên cứu chỉ xuất hiện loại từ ghép đẳng lập gồm hai yếu tố - tức hai từ tố.
Ví dụ: nói cười, cuốc cày, xóm làng, đất nước…
Trong các từ này ý nghĩa của nó bao giờ cũng mang tính khái quát chung của cả tổ hợp chứ
không phải là sự cộng lại ý nghĩa của các từ tố. Nếu tách rời khỏi tổ hợp, mỗi từ tố lại có khả
năng trở thành một từ đơn độc lập. Kiểu từ ghép đẳng lập nếu tiếp tục phân chia sẽ có các tiểu
loại nhỏ hơn.
2.1.1.1. Từ ghép đẳng lập gốc danh từ (kiểu D1+D2)
Đây là các từ ghép được cấu tạo từ hai thành tố chỉ những sự vật cùng phạm vi sự vật, hiện
tượng, thời gian, khơng gian…
Ví dụ: “gị đống, gió mây, núi rừng, đất nước, hươu nai, quần áo, giày dép, cha mẹ, sách vở,
ngày đêm”… [5, tr. 66-111]
Nếu xem xét riêng về mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các yếu tố tạo từ, có thể tiếp tục phân chia
thành các tiểu loại nhỏ hơn nữa trong kiểu từ ghép trên.
- Kiểu Dt1+ Dt2
Ví dụ: cơng việc, hình ảnh…
Các từ ghép kiểu trên được cấu tạo từ hai danh từ thường cùng nằm trong một trường nghĩa
khi kết hợp với nhau, các từ tố có quan hệ đồng nghĩa.
- Kiểu Db1 + Db2
VD: mưa gió, đèn sách, chân tay, quần áo, sỏi đá, anh em…
Các từ ghép kiểu trên được cấu tạo từ hai danh từ thường cùng nằm trong một trường nghĩa
khi kết hợp với nhau, các từ tố có quan hệ gần nghĩa nhau.
- Kiểu Dc1 + Dc2
Ví dụ: đất trời, gái trai, …
Kiểu từ ghép này khác với các kiểu từ ghép trên ở chỗ tuy nằm cùng một trường nghĩa nhưng
chúng khơng có quan hệ ngữ nghĩa gần nhau mà trái lại cịn ngược nghĩa nhau. Hay nói cách
khác là chúng được kết hợp từ các cặp từ trái nghĩa nhau hoặc đối lập nhau.
2.1.1.2. Từ ghép đẳng lập gốc động từ (kiểu Đ1+Đ2)
Với từ ghép có gốc là động từ, các từ thu được trong SGK Tiếng Việt lớp 4 được chia ra
thành các tiểu loại nhỏ hơn như sau:
ĐẶC ĐIỂM TỪ GHÉP QUA CÁC ĐOẠN TRÍCH TRONG TIẾNG VIỆT 4
605
- Kiểu Đn1 + Đn2
Đây là kiểu từ ghép mà nghĩa chung được hình thành là do sự phối hợp nghĩa của các từ tố
trong cấu trúc. Hai từ tố tạo nên từ cùng trường nghĩa chỉ hoạt động mà nghĩa chính của nó
khơng nghiêng về từ tố nào.
Ví dụ: thay đổi, đi đứng, thèm muốn...
Nếu xem xét chúng trong mối quan hệ giữa các từ tố trong tổ hợp loại từ ghép này cũng có thể
phân chia ra thành từng kiểu nhỏ hơn như sau:
- Kiểu Đh1 + Đh2
Kiểu từ ghép này được hình thành bằng cách kết hợp hai từ tố động từ đồng nghĩa hay gần
nghĩa với nhau. Nghĩa chung là nghĩa tổng hợp, khái quát từ ngữ nghĩa của mỗi từ tố.
Ví dụ: sắp xếp, phòng tránh, xét xử, chơi đùa, học tập, xây dựng, thức dậy, sinh nở, hủy bỏ, ca
hát, rạn nứt, thu nhập, thay đổi, kêu van, sắp xếp, thèm muốn, giúp đỡ…
- Kiểu Đm1 + Đm2
Trái với kiểu thứ nhất, kiểu từ ghép này được hình thành bởi các từ tố có ý nghĩa ngược nhau
hay đối nhau về nghĩa.
Ví dụ: ngược xi.
Kiểu này xuất hiện rất ít trong các bài đọc ở SGK Tiếng Việt 4. Qua khảo sát chúng tôi chỉ
xác định được 1 lần xuất hiện của từ thuộc kiểu này.
- Kiểu Đs1 + Đs2
Ở kiểu này nghĩa của từ ghép không giống kiểu thứ nhất mà nghĩa của từ lại rơi vào một từ tố
đứng trước hoặc đứng sau. Hay nói cách khác, nghĩa chung của từ ghép hướng về một từ tố.
Ví dụ: ăn mặc, làm ăn, địi hỏi, chăn ni, vui chơi…
2.1.1.3. Từ ghép đẳng lập gốc tính từ (kiểu T1+T2)
Đây là kiểu từ ghép được hình thành bằng cách kết hợp các tính từ lại với nhau. Khi kết hợp
lại với nhau các tính từ trở nên mất ý ngĩa độc lập và tồn tại với tư cách là các từ tố.
Ví dụ: gầy yếu, đói kém, ốm yếu, sâu xa, nghèo đói, đau khổ, tươi đẹp, cao thẳm…
Chúng ta có thể phân chia từ ghép kiểu này ra các tiểu loại như sau:
- Kiểu Tz1 + Tz2
Từ ghép được hình thành bằng cách kết hợp các tính từ hoặc đồng nghĩa hoặc gần nghĩa nhau.
Ví dụ: bé nhỏ, to lớn, sai lầm, độc ác…
- Kiểu Tp1 + Tp2
Từ ghép kiểu này khác với từ ghép kiểu thứ nhất ở chỗ các từ ghép được hình thành từ cách
kết hợp hai từ tố có nghĩa trái ngược hoặc đối nghĩa với nhau.
Ví dụ: xa gần, nhỏ to, lớn nhỏ, trầm bổng…
2.2.2. Từ ghép chính phụ
Từ ghép chính phụ chiếm số lượng vượt trội hơn trong bảng từ đã thống kê. “Nét đặc trưng
của từ ghép chính phụ có ý nghĩa mang tính cụ thể” [2, tr. 55], xuất hiện nhiều ở hầu hết các
606
HOÀNG THỊ LÝ
văn bản, đặc biệt là các văn bản miêu tả như: Cánh diều tuổi thơ, Kéo co, Hồ Ba Bể, Hoa học
trò, Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa, Tiếng cười là liều thuốc bổ…
Trong các phương thức ghép thì ghép chính phụ mang ý nghĩa cụ thể hóa sự vật hiện tượng
của thế giới tự nhiên và con người cho nên nó xuất hiện nhiều để đảm bảo việc thể hiện sự
phong phú đa dạng cụ thể của các sự vật, con người của thế giới nên nó được các nhà văn ưa
dùng và thể hiện rõ trong các đoạn trích hay tác phẩm của mình. Về mặt tổ chức, từ ghép
chính phụ cũng là loại từ ghép có kết cấu chặt chẽ hơn cả.
Ví dụ: Trong bài Hồ Ba Bể có 15 từ ghép được khảo sát đều là từ ghép chính phụ, phần lớn
các từ ghép chỉ sự vật như: vách đá, ngọn núi, hòn đá, gốc cây, loài chim, loài thủy tộc,… và
các từ ghép chỉ tính chất như li kì, huyền thoại. Như vậy từ ghép chính phụ là loại từ ghép
chiếm ưu thế nhất trong thể loại văn miêu tả. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với đối tượng
cụ thể tiếp nhận là học sinh tiểu học và cũng phù hợp với quy luật phát triển của tiếng Việt
hiện đại.
Từ ghép chính phụ là loại từ ghép được hình thành bằng cách ghép các từ tố lại với nhau.,
trong đó có một từ tố làm thành tố chính, một từ tố làm thành tố phụ. Thành tố phụ có vai trị
phân loại, chuyên biệt hóa và sắc thái hóa cho thành tố chính.
VD: đồng hồ, khăn tay, bí đỏ, xanh tươi, bạc màu, bóng râm, măng non…
So với từ ghép đẳng lập, từ ghép chính phụ có cấu tạo phức tạp hơn nhiều. Ngồi các từ ghép
hai âm tiết cịn có các loại từ ghép ba âm tiết. Tuy nhiên, trong SGK Tiếng Việt lớp 4, loại từ
ghép chính phụ có hai âm tiết là chủ yếu.
Dựa vào đặc điểm của từ loại của các từ tố chính trong từ ghép chúng tơi phân loại từ ghép
chính phụ trong các đoạn trích ở SGK Tiếng Việt lớp 4 thành các kiểu loại sau:
2.2.2.1. Từ ghép chính phụ có gốc là danh từ
Kiểu từ ghép này được hình thành bằng cách kết hợp hai thành tố với nhau và danh từ làm
thành tố chính kết hợp với một từ tố khác làm thành tố phụ
Ví dụ: nhà in, ngựa tía, cánh đồng, chái bếp, bạn cũ, vầng trăng, bầu trời, trẻ con, trái đât, mặt
trời, bà cụ, cậu bé…
Trong kiểu từ ghép này, dựa vào tính chất từ loại của thành tố phụ có thể phân thành các tiểu
loại sau:
- Kiểu D + D1
Trên thực tế có thể gặp kiểu từ ghép có ba từ tố kết hợp với nhau theo kiểu D + D1 + D2. Tuy
nhiên ở đây trong SGK Tiếng Việt 4 chúng ta chỉ thấy xuất hiện loại có hai từ tố kết hợp với
nhau, kiểu D + D1.
Ví dụ: cỏ xước, mưa rào, trái cây, mặt trời, mùa đơng, nhà sàn, sóng biển, bậc thang, cửa biển,
đơi mắt, bờ vai, tên lửa…
- Kiểu D + Đ
Đây là kiểu từ ghép mà trong đó từ tố phụ đi kèm với danh từ là từ thuộc nhóm loại động từ.
Ví dụ: máy bay, thợ rèn, nhà in, đồ chơi, lò sưởi…
- Kiểu D + T
ĐẶC ĐIỂM TỪ GHÉP QUA CÁC ĐOẠN TRÍCH TRONG TIẾNG VIỆT 4
607
Từ ghép kiểu này là sự kết hợp giữa danh từ với tính từ, trong đó danh từ làm thành tố chính
cịn tính từ làm thành tố phụ.
Ví dụ: truyện cổ, dưa đỏ, bí đỏ, ngựa tía, sương trắng, đất đỏ, núi cao, trời xanh…
Đối với từ vay mượn từ tiếng Hán, các từ ghép loại này (từ ghép chính phụ có yếu tố chính là
danh từ) thường có kiểu cấu trúc nghịch cú pháp tiếng Việt, nghĩa là thành tố chính là danh từ
đứng sau, cịn thành tố phụ là các yếu tố (danh từ, động từ, tính từ, số từ) thường đứng trước.
Trong SGK Tiếng Việt lớp 4, chúng tơi đã thu thập được các mơ hình sau:
- Kiểu P(d) + D
Từ ghép Hán Việt kiểu này có một danh từ đứng sau làm yếu tố chính và 1 danh từ đứng
trước làm yếu tố phụ.
Ví dụ: thiên tai, đức tính, nơng trường, thị xã
- Kiểu P(đ) + D
Từ ghép Hán Việt kiểu này có một danh từ đứng sau làm yếu tố chính và 1 động từ đứng
trước làm yếu tố phụ.
Ví dụ: học sinh, di chiếu
- Kiểu P(t) + D
Từ ghép Hán Việt kiểu này có một danh từ đứng sau làm yếu tố chính và 1 tính từ đứng trước
làm yếu tố phụ
Ví dụ: cuồng phong, trung thu
- Kiểu P(s) + D
Từ ghép Hán Việt kiểu này có một danh từ đứng sau làm yếu tố chính và 1 số từ đứng trước
làm yếu tố phụ:
Ví dụ: đa tình, đa mang
2.2.2.2. Từ ghép chính phụ có gốc là động từ
Kiểu từ ghép này có thành tố chính là động từ cịn các từ tố khác là thành tố phụ đi kèm bổ
nghĩa cho nó.
Căn cứ vào tính chất từ loại của thành tố phụ có thể chia từ ghép loại này thành các kiểu sau:
- Kiểu Đ + D
Đây là kiểu từ ghép trong đó động từ đóng vai trị là thành tố chính cịn các từ tố danh từ là
thành tố phụ.
Ví dụ: chữa bệnh, gói bánh, giảng bài, dự tiệc, phi ngựa, đánh đàn, học nghề, chia thóc, dong
buồm, súc miệng, nhận tội, búng càng, sưởi nắng, đánh giặc, trẩy quân, úp cá, đơm tép, lẩy
Kiều, ngâm thơ, nhổ neo…
- Kiểu Đ + Đ1+ Đ2
Qua khảo sát ngữ liệu trong SGK Tiếng Việt 4 chúng ta chỉ gặp các từ ghép kiểu Đ + Đ1
Ví dụ: ăn cắp, đánh cắp, đi học, mỉm cười, học nghề…
608
HỒNG THỊ LÝ
Kiểu từ ghép này có đặc điểm: Nghĩa chung của từ khơng rơi vào từ tố có vai trị chính trong
cấu tạo từ mà rơi vào từ tố có vai phụ. Trong các từ trên, nghĩa của từ ghép rơi vào các từ tố:
cắp, múa, học, cười, nghề…
- Kiểu Đ + T
Kiểu từ ghép này từ tố động từ đóng vai trị chính cịn từ tố là tính từ đóng vai trị là thành tố phụ.
Ví dụ: thở dài, nói dối, giận dữ, coi thường…
2.2.3. Từ ghép chính phụ có gốc là tính từ
Với kiểu từ ghép này từ tố tính từ bao giờ cũng giữ vai trị là thành tố chính. Các thành tố phụ
có thể thuộc nhóm từ loại khác nhau. Dựa vào tính chất của thành tố phụ có thể chia từ ghép
kiểu này thành các tiểu loại sau:
- Kiểu T + D
Ví dụ: trắng tay, vui lòng, ngon miệng, đỏ mặt…
Đây là kiểu từ ghép có tính từ làm thành tố chính cịn thành tố phụ là các từ tố thuộc danh từ.
Kiểu loại này có nhiều đặc điểm gần giống với kiểu từ ghép Đ +D
- Kiểu T + Đ
Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ghép loại này là tính từ đóng vai trị là thành tố chính về mặt cấu
tạo nhưng lại giữ vai trị là yếu tố giải thích cho hành động, quá trình được thể hiện ở thành tố
phụ là từ tố động từ.
- Kiểu T + T1 + T2
Khảo sát trong tư liệu chúng tôi chỉ gặp từ ghép ở dạng hai âm tiết kiểu T + T1
Ví dụ: xanh lam, vàng óng, đen ngăm…
Từ ghép chính phụ có gốc là tính từ thường do từ loại tính từ đảm nhận tiếng chính. Tiếng
đứng sau là tiếng phụ thường là tính từ, danh từ, động từ hoặc các thành tố khác bị mờ nghĩa
hoặc mất nghĩa…
- Kiểu T + Pm
Kiểu từ ghép này gồm một từ tố là tính từ làm thành tố chính cịn thành tố phụ là một từ tố đã
bị mờ nghĩa hoặc mất nghĩa.
Ví dụ: buồn tênh, bạc phơ, vắng teo, xanh lè, cao vút, thẳng đuột, xanh um, trắng bệch, trắng phau…
Kiểu từ ghép này được dùng khá phổ biến trong SGK Tiếng Việt lớp 4 bởi các thành tố phụ
tuy bị mờ nghĩa hoặc mất nghĩa nhưng vẫn có tác dụng làm gia tăng, nhấn mạnh tính chất của
tính từ. trong đó có nhiều trường hợp, thành tố phụ trong quá trình làm gia tăng ý nghĩa còn
làm cho nghĩa của cả tổ hợp mang sắc thái nghĩa tiêu cực hay có ý chê bai.
Ví dụ: thẳng đuột, trắng bệch…
2.3. Giá trị sử dụng của các loại từ ghép (thuần Việt, Hán Việt) qua đoạn trích
Để tiện việc khảo sát giá trị sử dụng của từ ghép trong các đoạn trích chúng tơi chia các đoạn
trích trong sách giáo khoa thành các loại: Văn bản miêu tả khung cảnh quê hương làng xóm;
văn bản nói về đời sống sinh hoạt ở nơng thơn, thành thị; văn bản viết về các sự kiện và nhân
vật lịch sử; văn bản giới thiệu con người và những sự kiện văn hóa xã hội; văn bản là những
đoạn trích trong tác phẩm nghệ thuật.
ĐẶC ĐIỂM TỪ GHÉP QUA CÁC ĐOẠN TRÍCH TRONG TIẾNG VIỆT 4
609
Về cách phân loại từ ghép, ngoài cách phân chia các tiểu loại đã nêu ở trên, chúng tôi còn chú
ý đến tần số xuất hiện của từ thuần Việt và từ vay mượn mà ở đây chủ yếu là từ Hán Việt. Vì
từ gốc Hán khi được vay mượn vào tiếng Việt đã có sự phân hóa về mặt ngữ nghĩa và chức
năng với từ thuần Việt, tạo nên những giá trị sử dụng đặc sắc trong văn bản tiếng Việt.
2.3.1. Từ ghép thuần Việt
Việc phân biệt từ thuần Việt và từ vay mượn vốn là một vấn đề khá phức tạp đòi hỏi những
hiểu biết chuyên sâu về ngôn ngữ học lịch sử và lịch sử tiếng Việt. Trong phạm vi bài báo
này, để tiện việc tìm hiểu về đặc điểm chức năng của từ ghép trong các loại văn bản, chúng tôi
tạm thời chấp nhận một cách phân loại từ thuần Việt và từ Hán Việt theo cách hiểu thông
thường, được nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ học chấp nhận. Ngồi những từ có thể xác định
chắc chắn là tiếng Việt tiếp nhận của tiếng Hán và các ngôn ngữ Ấn - Âu, tất cả các từ còn lại
thường được gọi là các từ thuần Việt. Những từ được gọi là từ thuần Việt thường trùng với bộ
phận từ vựng gốc của tiếng Việt, chúng biểu thị những sự vật hiện tượng cơ bản nhất, chắc
chắn phải tồn tại từ rất lâu. Khi so sánh bộ phận từ vựng thuần Việt với các từ tương ứng
trong tiếng Mường, các tiếng Tày- Thái và Môn - Khơme, người ta nhận thấy rằng nhiều từ
thuần Việt có sự giống nhau nhất định về ngữ âm và ngữ nghĩa với các từ tương ứng trong các
ngôn ngữ kể trên.
Thực tế cho thấy, “các văn bản dành cho đối tượng học sinh tiểu học được lựa chọn phù hợp
với lứa tuổi và đặc điểm tâm sinh lý của các em” [4, tr. 27]. Từ thuần Việt gần gũi và dễ hiểu,
có tính chất sinh động, gợi hình. Các từ Hán Việt được sử dụng nhiều trong các văn bản khoa
học cũng mang lại giá trị sử dụng rõ nét.
Tổng số từ ghép
1010
Từ
Thuần Việt
Hán Việt
Số lượng
571
439
Tỉ lệ %
56,5
43,5
2.3.2. Từ ghép Hán Việt
Khi khảo sát 1010 từ ghép trong SGK Tiếng Việt 4, số lượng từ Hán Việt tương đối lớn (439
từ, chiếm hơn 43,5%). Điều này chứng tỏ sự đòi hỏi phải chuyển tải một khối lượng nội dung
lớn mà yếu tố thuần Việt chưa thể đáp ứng hết. Từ Hán Việt hiện diện nhiều trong các văn
bản khoa học bởi vì đa số thuật ngữ khoa học và những từ ngữ thuộc phạm trù nhận thức tư
duy đều là từ Hán Việt cho nên tần số xuất hiện rất cao so với từ thuần Việt. Các văn bản nói
về sự kiện hoặc con người trong lịch sử cũng có tần số xuất hiện từ Hán Việt rất cao, tạo nên
màu sắc cổ kính cho văn bản. Ngồi ra, có nhiều từ gốc Hán được vay mượn, sử dụng từ lâu
và do vốn khơng có yếu tố thuần Việt đồng nghĩa để thay thế nên chúng xuất hiện thường
xuyên khiến nhiều người cứ ngỡ đó là từ thuần Việt. Đối với những văn bản miêu tả khung
cảnh làng quê hay những sinh hoạt đời thường nơi thơn xóm thì khơng chỉ tần số xuất hiện
của từ ghép Hán Việt khá thấp mà ngay cả từ ghép thuần Việt cũng ít xuất hiện so với từ đơn
và từ láy.
3. KẾT LUẬN
Việc phân tích, miêu tả đặc điểm cấu tạo và đặc điểm chức năng của từ ghép qua các đoạn
trích trong SGK cho thấy vốn từ ghép xuất hiện khá phổ biến với nhiều loại chức năng cụ thể
khác nhau. Điều này chứng tỏ rằng, các lớp từ phân theo đặc điểm cấu tạo được người viết
dùng để làm tròn đầy những nội dung phong phú và đa dạng của thế giới hiện thực. Hiểu và
nắm bắt được đặc điểm của từ ghép giúp cho chúng ta có thể sử dụng từ một cách đúng nhất
và phù hợp với đặc trưng của từng thể loại văn bản. Mỗi tiểu loại từ ghép, dù được soi chiếu
HỒNG THỊ LÝ
610
từ góc độ cấu tạo hay nguồn gốc, phạm vi sử dụng đều cho thấy sức mạnh và giá trị biểu đạt
của nó. Số lượng từ ghép xuất hiện, phân bố “đậm đặc” trong các văn bản, đoạn trích Tập đọc
hay trong các ngữ liệu dạy học Tiếng Việt lớp 4 không những bổ sung cho học sinh một khối
lượng từ đáng kể mà cịn có tác dụng định hướng, chỉ dẫn cho các em trong hoạt động tạo lập,
sản sinh ngôn bản. Nắm vững đặc điểm ngữ nghĩa, chức năng của từ ghép giúp làm giàu vốn
từ về chất cho học sinh, từ đó góp phần phát triển năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp của
người học một cách “căn bản và toàn diện”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
Nguyễn Tài Cẩn (1977). Ngữ pháp Tiếng Việt - Từ ghép - Đoản ngữ, NXB Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) (2007). Hỏi đáp về dạy học tiếng Việt 4, 5, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) (2005). Tiếng Việt 4,5 (tập 1, 2), NXB Giáo dục, Hà Nội.
Hội Ngôn ngữ học Hà Nội (2004). Tiếng Hà Nội, NXB Lao động, Hà Nội.
Title: THE CHARACTERISTICS OF COMPOUND WORD BY EXTRACTS IN THE FOURTH
GRADE VIETNAMESE TEXTBOOK
Abstract: Understanding characteristics of compound word through the passage in the fourth grade
Vietnamese textbook in primary school is a significant problem involving goal to promote the word
capacity for primary school students. Thereby, this will help us to understand better about the
relationship between the units of word, particularly is a compound word with the content
characteristics and writing style that may be contribute to the teaching compound word in the school
under communication perspective.
Keywords: compound word, Vietnamese, capacity, student, communication
HOÀNG THỊ LÝ
Học viên Cao học, chuyên ngành Giáo dục học (Giáo dục tiểu học), khóa 21 (2012-2014), Trường Đại
học Sư phạm – Đại học Huế