Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy học phần Vệ sinh - dinh dưỡng cho sinh viên ngành Giáo dục mầm non ở trường Cao đẳng Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.87 KB, 5 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

3/2019

BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY HỌC PHẦN
VỆ SINH - DINH DƯỠNG CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG VĨNH PHÚC
Nguyễn Thị Mai Hương
Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc

Tóm tắt: Vệ sinh - Dinh dưỡng là một học phần quan trọng trong chương trình đào tạo giáo viên mầm
non. Tại Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc, việc giảng dạy học phần này vẫn còn tồn tại một số hạn chế.
Bài viết này phân tích thực trạng những hạn chế đó. Từ đó, đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng
giảng dạy học phần Vệ sinh - Dinh dưỡng hiện nay.
Từ khóa: Vệ sinh - Dinh dưỡng, chất lượng giảng dạy, sinh viên giáo dục mầm non.

1. MỞ ĐẦU
Điều 35, Điều lệ trường Mầm non hiện hành quy định nhiệm vụ của người giáo viên Mầm
non là “Bảo vệ an tồn sức khỏe, tính mạng của trẻ em trong thời gian trẻ em ở nhà trường,
nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập. Thực hiện công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
trẻ em theo chương trình giáo dục mầm non; tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học nuôi
dạy trẻ em cho cha mẹ trẻ...” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2015). Thông tư liên tịch số
20/2015/TTLT-BGDĐT-BNV cũng xác định nhiệm vụ của người giáo viên mầm non khơng
chỉ là giáo dục trẻ mà cịn thực hiện cơng tác ni dưỡng, chăm sóc, vệ sinh cho trẻ, đảm bảo
an toàn sức khỏe của trẻ, đồng thời phổ biến kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ cho các bậc phụ
huynh (Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ, 2015). Đáp ứng những quy định trên, chương
trình đào tạo giáo viên mầm non ở các trường sư phạm đã thiết kế các học phần nhằm cung
cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng chăm sóc và ni dưỡng trẻ cho sinh viên. Vệ sinh - Dinh
dưỡng là một trong những học phần quan trọng đó. Học phần này có nhiệm vụ trang bị cho
sinh viên những kiến thức khoa học về vệ sinh, dinh dưỡng, hướng dẫn cho sinh viên các kỹ
năng chăm sóc, vệ sinh cho trẻ, cách xây dựng khẩu phẩn ăn, tính tốn, định lượng khẩu phần


ăn của trẻ; đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em...
Trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non ở Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc hiện nay, học
phần Vệ sinh - Dinh dưỡng có thời lượng là 2 tín chỉ. Triển khai học phần này chủ yếu vẫn là
giảng dạy trên lớp, thiên về tìm hiểu những kiến thức khoa học, nặng tính lý thuyết và hàn
lâm, chưa thực sự dành nhiều thời gian cho sinh viên được tập luyện những kỹ năng cần thiết,
trọng yếu của người giáo viên mầm non sau khi ra trường. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng,
từ đó đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy học phần Vệ sinh - Dinh dưỡng là một
việc làm cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên mầm non.
2. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY HỌC PHẦN “VỆ SINH - DINH DƯỠNG” TẠI TRƯỜNG
CAO ĐẲNG VĨNH PHÚC
2.1. Đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên giảng dạy học phần Vệ sinh - Dinh dưỡng gồm 6 người, đều thuộc chuyên
ngành Sinh học, trong đó có 01 giảng viên trình độ tiến sĩ, 05 giảng viên trình độ thạc sĩ. Các
giảng viên đều được đào tạo bài bản, chính quy tại các trường đại học lớn, uy tín, chất lượng
như: Đại học sư phạm Hà Nội, Đại học sư phạm Hà Nội 2, Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại
95


GDMN 4.0

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

học quốc gia Hà Nội. Bởi vậy, các giảng viên có trình độ chun mơn vững vàng, có kỹ năng
và nghiệp vụ sư phạm. Bên cạnh đó, các giảng viên ln ý thức trách nhiệm với nghề, không
ngừng học tập, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và đổi mới những phương pháp, nội dung
giảng dạy theo hướng tích cực, sử dụng các công cụ, phương tiện hiện đại phục vụ bài
giảng,... bước đầu đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, các giảng viên được đào tạo từ khoa học cơ bản nên còn một số hạn chế về lĩnh vực
giáo dục mầm non, đặc biệt là kiến thức thực tế về vệ sinh dinh dưỡng ở trường mầm non.
2.2. Tổ chức dạy học

Khảo sát bằng phiếu điều tra trên 200 sinh viên ngành giáo dục mầm non (100 sinh viên năm
2 và 100 sinh viên năm 3) cho thấy: 92,7% sinh viên cho rằng Vệ sinh - Dinh dưỡng là học
phần rất quan trọng. Mặc dù vậy, 78,5% sinh viên cho rằng học phần Vệ sinh - Dinh dưỡng
chỉ mang tính chất cung cấp những kiến thức khoa học, khơng có ý nghĩa trong thực tiễn dạy
học khi các em ra trường công tác
93% ý kiến được hỏi cho rằng nếu giảng viên áp dụng các phương pháp giảng dạy học tích
cực với sự hỗ trợ của phương tiện dạy học hiện đại (phương pháp tiếp cận năng lực, đàm thoại
gợi mở, thảo luận nhóm, phương pháp cơng não…) sẽ tạo tâm lý thoải mái và hứng thú tiếp
nhận tri thức của học phần được nâng cao, khơng mang tính ép buộc. Đặc biệt là việc ứng
dụng tri thức vào thực tế trong quá trình thực tập, kiến tập sư phạm thuận lợi và đơn giản hơn.
Trong thực tế, phương pháp dạy học phổ biến hiện nay ở Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc nói
chung và giảng viên ngành sinh học nói riêng vẫn là thuyết trình giảng dạy là chính. Phương
pháp dạy học tích cực đã bắt đầu được ứng dụng nhưng chủ yếu trong những tiết dự giờ thăm
lớp, thao giảng thi đua... Vì vâỵ, chưa thực sự phát huy được tinh thần tự giác, tự tìm hiểu trau
dồi tri thức cũng như tiếp cận những tri thức mới của sinh viên. Hơn nữa, hầu hết sinh viên
quen kiểu thuộc lòng, chưa biết cách học, chưa chủ động tham gia vào quá trình dạy học để
lĩnh hội tri thức. Đa số SV không đầu tư thời gian công sức vào việc học tập, việc học của SV
khơng có động cơ bên trong mà chỉ mang tính đối phó với GV trong các giờ kiểm tra, thi kết
thúc học phần.
Việc kiểm tra, đánh giá học phần này vẫn theo cách truyền thống, với hệ thống ngân hàng đề
30 câu hỏi mang nặng tính lý thuyết, chưa đánh giá được khả năng vận dụng những kiến thức
của học phần vào thực tế giảng dạy sau này.
Thực tế cho thấy, Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc là một trong những trường trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc được trang bị cơ sở vật chất phục vụ cho việc đào tạo: máy chiếu tại phòng học,
phòng thí nghiệm vật lý, hóa sinh, phịng nhạc... Tuy nhiên, đối với học phần Vệ sinh - Dinh
dưỡng là học phần đòi hỏi những trải nghiệm thực tế tại cơ sở giảng dạy cũng như việc yêu
cầu sinh viên tham gia trải nghiệm, thực hành những kiến thức đã học thì cơ hội để các em
được đến những cơ sở chế biến thực phẩm hay các bệnh viện chưa có. Có chăng, sinh viên chỉ
được thực hành một số kỹ năng: vệ sinh cho trẻ, vệ sinh trường mầm non,... ở hai đợt thực tập
1 và thực tập 2 do nhà trường tổ chức ở các cơ sở mầm non trên địa bàn tỉnh.

3. BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY HỌC PHẦN “VỆ SINH - DINH
DƯỠNG” TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN MẦM NON
3.1. Nâng cao kiến thức thực tiễn giáo dục mầm non cho giảng viên
Giảng viên cần có kiến thức chun mơn nghiệp vụ của chuyên ngành đào tạo cùng với kinh
nghiệm thực hành nghề nghiệp. Giảng viên càng có nhiều kinh nghiệm thực tiễn càng hiểu rõ
các kiến thức và thành thạo kỹ năng chăm sóc, vệ sinh cho trẻ, điều này giúp cho việc thiết kế
96


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

3/2019

tốt hơn các tình huống thực hành để áp dụng vào cơng tác giảng dạy, tạo điều kiện cho sinh
viên thực hành, thảo luận và hoạt động trong môi trường thực nghiệm đạt hiệu quả.
3.2. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của học phần cho sinh viên
Một bộ phận sinh viên chưa nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của học phần Vệ sinh Dinh dưỡng và những ứng dụng của nó khi ra nghề nên cịn có tư tưởng học chống đối, học để
thi, học để qua. Vì vậy, cần giúp sinh viên xác định đúng mục tiêu cần đạt được sau khi học
học phần này, có ý thức trong việc rèn luyện những kỹ năng nghề, phục vụ cho công việc sau
khi ra trường. Để làm tốt việc này, cần phối hợp chặt chẽ với phòng đào tạo và giáo vụ khoa
để ngay từ khi nhập học sinh viên đã có chương trình học tập tồn khóa, chủ động xây dựng
kế hoạch học tập của cá nhân... Sinh viên phải tự mình tham gia vào các hoạt động nhóm, học
tập thơng qua thực hiện các bài tập tình huống, các bản báo cáo qua quá trình thực tế cơ sở
hay thực hiện các bài tập cá nhân một cách chủ động, tích cực, sáng tạp. Sinh viên ngồi việc
tham gia các hoạt động trên lớp còn phải tự phân tích, tổng hợp để hồn thành các bài viết
phản ánh suy nghĩ, cảm nhận về những gì đã được học, được đọc, nhìn thấy hay được trải
nghiệm hoặc tự thực hiện nhật ký học tập giúp sinh viên tổng kết lại các kiến thức cũng như
kinh nghiệm của bản than.
3.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần
Một số phương pháp giảng dạy đối với học phần Vệ sinh - Dinh dưỡng nhằm nâng cao chất

lượng dạy và học cũng như tạo điều kiện cho SV được thực hành, vận dụng kiến thức khoa
học vào thực tiễn nghề nghiệp:
Phương pháp thảo luận nhóm: Giảng viên chia lớp học thành các nhóm nhỏ từ 4-5 sinh viên
một cách ngẫu nhiên hay có chủ ý và giao cho mỗi nhóm một bài tập hoặc một chủ để thảo luận
để các nhóm chủ động phân chia công việc, chia sẻ ý kiến và tìm ra cách giải đáp bài tập hay
cách thức trả lời tốt nhất cho các câu hỏi thảo luận. Giảng viên vừa đóng vai trị của người giám
sát, đảm bảo các thành viên trong mỗi nhóm đều chủ động tham gia vào hoạt động của nhóm,
khơng ỷ lại vào một vài thành viên nổi trội hơn; đồng thời, vừa phải giữ vai trò tổ chức và cố
vấn, đảm bảo hoạt động của các nhóm theo đúng mục đích, u cầu của chuyên đề, giải đáp các
thắc mắc của sinh viên khi cần thiết và sau khi các nhóm đã trình bày kết quả hoạt động của
mình, giảng viên đúc kết lại các ý kiến phù hợp nhất và giải thích vì sao các ý kiến khác chưa
thực sự phù hợp. Với phương pháp này, GV có thể áp dung khi giảng dạy các nội dung như:
Đại cương về Vi sinh vật, khái niệm dịch tễ học, miễn dịch học, khái niệm về dinh dưỡng và vai
trò của dinh dưỡng đối với sự phát triển của cơ thể... (Lê Thị Mai Hoa, 2009).
Nghiên cứu tình huống: Trong thực tế dạy học, GV mầm non thường xuyên phải tiếp xúc với
các tình huống, vấn đề phát sinh khi trẻ ở lớp nếu khơng có kiến thức, khơng có kinh nghiệm
xử lý có thể gây ảnh hưởng đến tâm lý, thậm chí có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của trẻ.
GV tạo ra các tình huống mơ tả những sự kiện, hồn cảnh có thực hoặc hư cấu địi hỏi SV
phải tìm hiểu, suy nghĩ, đề ra được biện pháp xử lý thích hợp.
Học qua thực tế gồm: (1) Tại các cơ sở giáo dục mầm non trên địa bàn thành phố nơi trường đặt
trụ sở và các trường mầm non trên địa bàn tỉnh khi sinh viên về thực tập, kiến tập sư phạm. Bên
cạnh việc nghiên cứu, tìm hiểu lý thuyết trên lớp, giáo viên có thể kết hợp đưa sinh viên xuống
trường Mầm non để quan sát, tìm hiểu thực tế, vận dụng lý thuyết đã học để đánh giá thực tế
của trường Mầm non. Ví dụ, phần nội dung vệ sinh trường mầm non và vệ sinh chăm sóc trẻ,
giáo viên tổ chức cho sinh viên về các trường mầm non để quan sát, đánh giá môi trường xung
quanh cũng như việc vệ sinh khu vực trong và ngoài trường, lớp; tổ chức cho sinh viên dự giờ,
thăm lớp để biết được quy trình, phương pháp cho trẻ ngủ, cách tổ chức bữa ăn cho trẻ, cũng
97



GDMN 4.0

KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

như tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi cho trẻ... Đánh giá chế độ sinh hoạt của trẻ ở một
nhóm tuổi nhất định và nộp báo cáo kết quả. Tổ chức cho sinh viên học tập và tham gia vào
việc vệ sinh cho trẻ: vệ sinh da, vệ sinh răng miệng, mắt, tại, mũi họng, trang phục,... Phần Dinh
dưỡng, giáo viên đưa sinh viên đến trường mầm non để quan sát khẩu phần ăn của trẻ, đánh giá
mức độ dinh dưỡng và sự phối hợp các thành phần dinh dưỡng có phù hợp và đảm bảo cung
cấp đủ chất cho trẻ theo các nhóm tuổi hay khơng hoặc đánh giá việc chế biến thức ăn có đảm
bảo giữ được các chất dinh dưỡng, đồng thời kích thích vị giác của trẻ hay khơng; tìm hiểu việc
thay thế các nhóm thực phẩm để đảm bảo cân bằng dinh dưỡng theo mùa; (2) Học tập thực tế
tại các cơ sở chế biến thực phẩm như: nhà hàng, khách sạn. Cùng với quá trình trang bị kiến
thức trên giảng đường, giảng viên bộ môn cần đưa sinh viên đến các cơ sở chế biến thực phẩm
trên ngay trên địa bàn thành phố Phúc Yên để sinh viên nhận thức rõ tầm quan trọng của vệ
sinh, an tồn thực phẩm trong q trình chế biến từng bữa ăn cho trẻ; (3) Liên kết với một số
bệnh viện lớn trên địa bàn thành phố hoặc trung tâm y tế dự phòng tỉnh để mời các bác sĩ giỏi,
bác sỹ chuyên khoa về nói chuyện chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm về: quy trình lây nhiễm và
cách thức phịng, tránh một số bệnh thơng thường theo mùa hoặc cách xử lý cận lâm sàng đơn
giản nhất khi xảy ra những sự cố không mong muốn trong q trình chăm sóc trẻ như: Ngộ độc
thực phẩm, mắc, hóc các dị vật, biểu hiện của tình trạng di ứng thực phẩm, dị ứng do côn trùng
hoặc dị ứng do thời tiết... Ngoài việc tổ chức các hoạt động nói trên, GV cần hướng dẫn SV tự
tìm hiểu, tự nghiên cứu về các kỹ năng vệ sinh, chăm sóc trẻ nhằm tự trau dồi cho bản than các
năng lực dạy học thông qua sách báo và các phương tiện thơng tin đại chúng. Hiện nay, SV có
rất nhiều nguồn để tìm hiểu thơng tin, trao đổi, học tập kinh nghiệm về các kỹ năng trong quá
trình dạy học. GV cần đóng vai trị định hướng nhằm giúp SV tìm kiếm và lựa chọn thông tin
một cách khoa học và thông minh.
3.4. Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá
Khi giảng dạy, giảng viên đã có sự kết hợp giữa phương pháp truyền thống và hiện đại nhưng
trong việc đánh giá lại chú trọng đánh giá theo kiểu truyền thống, dẫn tới việc thi cử cịn

mang nặng tính kinh viện, sách vở, học thuộc lịng câu chữ, khơng đánh giá được khả năng
vận dụng kiến thức vào thực tế. Vì vậy, tôi đề nghị chuyển từ việc cho sinh viên làm các bài
thi lý thuyết truyền thống sang đánh giá quá trình học tập của sinh viên thơng qua các báo
cáo, các kỹ năng sinh viên học được khi đi thực tế ở cơ sở.
3.5. Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ dạy học
Cần có một hệ thống cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại phù hợp với thực tiễn nghề nghiệp.
Nhà trường cần có mối liên kết với các cơ sở Mầm non trên địa bàn thành phố nói riêng và tồn
tỉnh nói chung nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho SV xuống dự giờ, thăm lớp; xây dựng cơ chế
phù hợp trong việc liên kết đào tạo với các cơ sở chế biến thực phẩm, bệnh viện trên địa bàn
thành phố để đưa sinh viên xuống thực tế ngay trong quá trình nghiên cứu học phần. Làm tốt
việc này sẽ giúp quá trình trang bị tri thức song hành đồng thời với thực tiễn, đảm bảo nguyên
tắc giáo dục lý thuyết đi liền với thực hành, thực tế. Về lâu dài, nhà trường cần đầu tư, xây dựng
mở trường thực hành ngay tại trường để SV ngành Mầm non nói riêng và sinh viên sư phạm nói
chung trong tồn trường có nhiều cơ hội được cọ sát với thực tế.
4. KẾT LUẬN
Học phần Vệ sinh - Dinh dưỡng là một trong những học phần quan trọng trong chương trình
đào tạo giáo viên Mầm non. Bên cạnh việc giới thiệu cho sinh viên những kiến thức khoa học
lý luận, cần rèn luyện cho sinh viên các kỹ năng cần có sau khi học tập bộ mơn như: kỹ năng
vệ sinh, chăm sóc trẻ, kỹ năng sơ cứu trẻ khi trẻ có những biểu hiện khơng bình thường, kỹ
năng tổ chức giấc ngủ, tổ chức ăn cho trẻ, kỹ năng tổ chức học tập, vui chơi cho trẻ theo các
98


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

3/2019

nhóm tuổi, đối tượng, kỹ năng định lượng và xây dựng khẩu phẩn ăn cho trẻ... có ý thức tuyên
truyền cho cha mẹ trẻ về việc vệ sinh, chăm sóc trẻ theo khoa học. Tuy nhiên, thực tế giảng
dạy học phần Vệ sinh - Dinh dưỡng cho sinh viên ngành giáo dục mầm non cịn nhiều bất cập,

mang nặng tính lý thuyết, hàn lâm, ít thực hành, vận dụng tri thức vào những tình huống thực
tế giảng dạy sau này. Vì vậy, bài viết đưa ra một số những giải pháp để bước đầu giúp cho
sinh viên rèn luyện được những kỹ năng này, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy học
phần Vệ sinh - Dinh dưỡng nói riêng, cũng như chất lượng đào tạo sinh viên ngành Giáo dục
Mầm non nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]

Lê Thị Mai Hoa (2009). Giáo trình Vệ sinh - Dinh dưỡng. NXB Giáo dục.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015). Điều lệ trường Mầm non. Ban hành kèm theo Quyết định số
04/VBHN-BGDĐT, ngày 24/12/2015[3]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ (2015). Thông
tư liên tịch quy định số 20/2015/TTLT-BGDĐT-BNV, ngày 14/09/2015, Quy định mã số, tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non.

Title: SOLUTIONS TO IMPROVE THE TEACHING QUALITY OF MODULE “HYGIENE NUTRITION” FOR PRESCHOOL EDUCATION STUDENTS AT VINH PHUC COLLEGE
Nguyen Thi Mai Huong
Vinh Phuc College

Abstract: “Hygiene - Nutrition” is an important module in the preschool teacher training curriculum.
At Vinh Phuc college, there are some limitations in teaching this module. In this article, we present
these limitations as background proposing solutions to improve the teaching quality of module
“Hygiene - Nutrition”.
Keywords: Hygiene - Nutrition, teaching quality, preschool education students.

99




×