Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên ngành giáo dục mầm non nhằm góp phần nâng cao chất lượng thực tập sư phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.85 MB, 11 trang )

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN
NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON NHẰM GÓP PHẦN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC TẬP SƯ PHẠM
Nguyễn Thị Hồng Yến11
Tóm tắt: Đối với sinh viên ngành Giáo dục Mầm Non, để đạt kết quả tốt trong các
đợt thực tập sư phạm,ngoài việc trang bị tốt cho mình những kỹ năng cứng thì rèn luyện
một số kỹ năng mềm (KNM) là việc làm cần thiết. KNM không chỉ giúp các em vượt qua
các khó khăn, áp lực về mặt tâm lý mà còn hỗ trợ đắc lực trong mọi hoạt động giảng dạy,
chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non. Bài báo đề cập đến nội dung và biện pháp rèn luyện
KNM cho sinh viên khoa Giáo dục mầm non nhằm góp phần nâng cao chất lượng thực
tập sư phạm. Thực nghiệm bước đầu cho thấy việc áp dụng các biện pháp trên đã góp
phần nâng cao kết quả thực tập sư phạm của một nhóm sinh viên ở trường Cao đẳng Sư
phạm Quảng Trị.
Từ khóa: Kỹ năng mềm, Sinh viên, Giáo dục mầm non, Thực tập sư phạm.
1. Mở đầu
Kỹ năng mềm (soft skills) là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong
cuộc sống con người như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, kỹ
năng quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới... [10] Đây
là những kỹ năng thuộc về tính cách con người, không mang tính chuyên môn, không
thể sờ nắm được. Ví dụ: sự tận tâm, sự dễ chịu, tính lạc quan, khả năng hài hước, khả
năng giao tiếp hiệu quả, khả năng ứng xử trước những lời phê bình.... [8, tr.6]. Những kỹ
năng này rất cần thiết để giúp cho mỗi người tìm kiếm sự thành công trong cuộc sống.
Bởi theo Ngân hàng thế giới thì thế kỷ 21 là kỷ nguyên của kinh tế dựa vào kỹ năng –
Skills Based Economy .
Tuy nhiên, theo một số khảo sát gần đây cho thấy: KNM của đa số sinh viên hiện
nay vừa thiếu và yếu. Cụ thể, khảo sát 142 sinh viên khoa Mầm non năm học 2018 –
2019 ở trường CĐSP Quảng Trị có đến 63,5% sinh viên không thực sự tự tin trong giao
tiếp, thuyết trình và thể hiện bản thân. Kết quả này tương đồng với khảo sát kỹ năng giao
tiếp của sinh viên khoa Sư phạm trường Đại học An Giang cũng ở mức “Trung bình” với
X= 3.09. Sinh viên gặp khó khăn trong việc hiểu đối tượng giao tiếp cũng như thiếu sự
chủ động thiết lập các mối quan hệ [4, tr.26]. Trường cao đẳng sư phạm Nghệ An cũng


có tới 39% sinh viên thừa nhận chưa làm chủ các tình huống dạy học, ngôn ngữ diễn đạt
chưa lưu loát, chưa tự tin trước học sinh [3, tr.25]. Ngoài ra, điều tra của Bộ Giáo dục và
đào tạo năm 2011 cho thấy, cả nước “có tới 63% sinh viên tốt nghiệp đại học – cao đẳng
1. ThS., Trưởng bộ môn Chính Trị, trường CĐSP Quảng Trị.

122


NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN
không có việc làm, 37% sinh viên có việc làm nhưng đa số làm trái nghề hoặc phải qua
đào tạo lại do yếu và thiếu các yếu tố kỹ năng thực hành xã hội, 83% bị các nhà tuyển
dụng đánh giá thiếu các KNS” [7].
Hầu hết sinh viên khoa giáo dục Mầm Non trường Cao đẳng sư phạm Quảng Trị
khi bước vào các đợt Thực tập Sư phạm đều mang một tâm lý chung đó là lo lắng, sợ hãi
như: soạn giáo án nhiều lần, làm đồ dùng dạy học, không gần gũi được với trẻ rồi thêm
áp lực nặng nề về điểm số, về kết quả thực tập… Bên cạnh các lí do về chuyên môn, sự
thiếu hụt về KNM cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến kết quả thực tập không
cao và gây ra những sự mệt mỏi kể trên. Nếu trang bị các KNM cho sinh viên MN thì sẽ
giúp các em tự tin, giải tỏa những lo lắng, áp lực không cần thiết để hoàn thành tốt nhiệm
vụ của đợt thực tập.
2. Nội dung
2.1. Một số kỹ năng mềm cần rèn luyện cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non
Căn cứ vào thực tế thiếu hụt cũng như nguyện vọng được rèn luyện KNM của sinh
viên và tham khảo các tài liệu giáo dục KNM cho sinh viên ở các nước có nền giáo dục
tiên tiến, chúng ta nên trang bị cho sinh viên khoa Mầm Non trước và trong khi đi thực
tập sư phạm những kỹ năng mềm sau:
2.1.1. Kỹ năng tự quản lý bản thân (self - management skills)
Đó là những cách thức, phương pháp của cá nhân giúp cho họ có cuộc sống tốt đẹp
hơn. Cụ thể là phải biết đặt mục tiêu, xây dựng kế hoạch, lập chương trình thực hiện mục
tiêu, triển khai công việc và đánh giá kết quả. Luôn có cái nhìn lạc quan về công việc để

có thái độ tích cực chiến thắng sự bi quan, chán nản nhằm đạt mục tiêu. Chìa khóa để có
một thái độ lạc quan đó là khi bạn giải quyết một trở ngại hay thách thức nào đó, thay
vì than phiền về khối lượng công việc gây stress, hãy nghĩ về nó như một cơ hội để thể
hiện khả năng làm việc tích cực và hiệu quả của bạn. Nếu dựa trên các kỹ năng cứng đã
có sẵn, bạn sẽ có được sự tự tin rằng mình có thể làm được công việc này và thể hiện nó
qua thái độ bình tĩnh đồng thời sẽ tạo được sự tự tin cho người khác. Còn nếu bạn muốn
gây ấn tượng với một ai đó thì sự tự tin là một thái độ quan trọng và hiệu quả để đạt mục
đích. Chính sự lạc quan sẽ tạo ra sự tự tin và ngược lại sự tự tin sẽ bồi đắp, gia cố tinh
thần lạc quan để đối mặt và vượt qua các thách thức để đạt mục đích trong công việc
và cuộc sống [1,tr12]. Kỹ năng này cần trang bị cho sinh viên Mầm non để giúp các em
có được tâm thế tự tin, vui vẻ bước vào đợt thực tập sư phạm khi đối diện với một khối
lượng công việc lớn mà phải hoàn thành trong một thời gian ngắn nhưng lại mong muốn
có một kết quả tốt.
2.1.2. Kỹ năng làm việc nhóm (teamwork skills)
Kỹ năng này đòi hỏi cá nhân biết sống hòa đồng với tập thể không chỉ có nghĩa là
có tính cộng tác mà còn thể hiện được khả năng lãnh đạo tốt khi có thời điểm thích hợp.
Nếu có sự xung đột xuất hiện trong tập thể, hãy chủ động dàn xếp. Khi thấy tập thể của
mình đang bị sa lầy trong một dự án, hãy cố gắng xoay chuyển tình thế, đưa cách giải
123


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN...
quyết theo một hướng khác. Hãy cố gắng tỏ ra sẵn sàng hợp tác trong công việc. Hãy
học cách nói những điều mình nghĩ như thế nào và thể hiện bằng ngôn ngữ cử chỉ ra
sao để mọi người vui vẻ, chấp nhận, đồng tình, ủng hộ [8, tr.21]. Ví dụ: Khi một bạn lên
lớp giảng bài thì các bạn còn lại phải hỗ trợ tích cực để bài giảng hoàn thành theo các
mục tiêu đề ra như xếp bàn ghế, di chuyển bảng phụ, bật nhạc, bấm slide cho khớp với
lời giảng, chuẩn bị kỹ đồ dùng dạy học, dán sản phẩm của trẻ lên bảng, hướng dẫn các
nhóm trẻ tham gia học tập tích cực… Điều đó đủ để khẳng định rằng, kỹ năng này rất
cần thiết đối với sinh viên mầm non trong các hoạt động giảng dạy, giáo dục, chăm sóc

trẻ mầm non.
2.1.3. Kỹ năng giao tiếp (communication skills)
Giao tiếp là phương tiện cho phép mọi người kết nối, thuyết phục người khác
chấp nhận ý kiến, nguyện vọng, nhu cầu của mình. Những điều cần lưu ý khi giao tiếp
với những người khác đó là cách sử dụng từ ngữ, thái độ, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười, tư
thế, tâm thế kể cả trang phục, mùi hương cơ thể… của mình sao cho tạo ấn tượng tốt
với người đối thoại. Một trong những kỹ năng giao tiếp rất quan trọng là biết lắng nghe
và thấu cảm. Nếu thiếu ngoại ngữ sẽ bỏ lỡ cơ hội làm việc, nếu thiếu bằng cấp sẽ khó
thăng tiến ở những bậc cao hơn nhưng thiếu kỹ năng giao tiếp sẽ bỏ lỡ tất cả: cơ hội nghề
nghiệp, những mối quan hệ và cơ hội được chứng tỏ bản thân mình kể cả trong công việc
lẫn trong cuộc sống. Kỹ năng giao tiếp tốt luôn là một thế mạnh cần phải rèn luyện đối
với bất cứ ai muốn đi tìm sự thành đạt trong công việc và cuộc sống. Trong giao tiếp,
muốn đạt hiệu quả thì ai cũng phải rèn cho mình biết làm 3 điều đúng nơi, đúng lúc đó là:
nói chỉ là bạc, im lặng là vàng,biết lắng nghe mới là kim cương hoặc phải hiểu rằng: “im
lặng cũng là một cách trả lời”, “Sự im lặng cũng biết nói”, biết “Lắng nghe sự im lặng”
[2, tr.65]. Vì vậy, sinh viên mầm non nên rèn luyện thường xuyên kỹ năng giao tiếp thì
mới tương tác tốt với các cháu, phụ huynh và đồng nghiệp.
2.1.4. Kỹ năng tư duy sáng tạo (creative thinking skills)
Tính sáng tạo và lối suy nghĩ thông minh được đánh giá cao ở bất cứ công việc nào.
Thậm chí những công việc mang tính kỹ thuật nhất cũng đòi hỏi khả năng suy nghĩ thoát
ra khỏi khuôn khổ. Vì vậy, đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của việc giải quyết vấn
đề theo cách sáng tạo. Khi một vấn đề khiến người ta phải miễn cưỡng bắt tay vào làm,
hãy nghĩ ra một giải pháp sáng tạo hơn. Nếu không được, ít ra bạn đã từng thử nó. Ngoài
ra phải liên tục tìm ra những giải pháp mới cho công việc của mình khiến cho nó hấp dẫn
hơn thậm chí đối với cả những công việc mang tính lặp đi lặp lại. Sự sáng tạo có vai trò
rất lớn trong việc thúc đẩy, nó khiến bạn đủ dũng cảm để theo đuổi một ý tưởng vốn bị
mắc kẹt trong suy nghĩ và cuối cùng là bạn vượt qua được nó. Kỹ năng này rất cần trong
dạy học [1, tr.13]. Dạy học vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật nên đòi hỏi người
dạy phải có tư duy sáng tạo để có những tiết dạy hay, dạy giỏi, không được rập khuôn,
máy móc. Vì sự máy móc chỉ đưa lại những tiết dạy nhàm chán, buồn tẻ, không tương

tác tích cực với trẻ. Chính vì vậy, sinh viên mầm non phải rèn luyện kỹ năng này để nâng
cao hiệu quả trong các hoạt động ở trường Mầm Non.
124


NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN
2.1.5. Kỹ năng học và tự học (learning to learn skills)
Kỹ năng này bao gồm: viết, đọc – hiểu, nghe, xem tranh, xem phim, thảo luận,
trình bày ý kiến, thuyết trình, trải nghiệm… Phải biết học hỏi qua những lời phê bình và
biến nó thành những kinh nghiệm và bài học cho bản thân. Biết ứng xử văn minh trước
lời phê bình của người khác qua thái độ sẵn sàng cải thiện, thay đổi theo hướng tích cực
của bạn. Đồng thời biết đánh giá, nhận xét mang tính xây dựng đối với công việc của
những người khác cũng mang ý nghĩa quan trọng không kém. Cổ nhân đã dạy: “Học ăn,
học nói, học gói, học mở”, vậy khi bạn đưa ra lời nhận xét với người khác, hãy thể hiện
sao cho thật khéo léo và chân thành. Cố gắng dự đoán trước phản ứng của người nghe
dựa vào tính cách của họ để có cách nói phù hợp nhất [8, tr.88]. Với tư cách là sinh viên
thực tập thì chắc chắn trong quá trình đi học việc sẽ có nhiều thiếu sót trong giảng dạy,
chăm sóc, nuôi dạy trẻ mầm non. Kỹ năng này sẽ giúp các em biết cầu thị, sửa chữa để
tiến bộ nhanh.
2.1.6. kỹ năng lãnh đạo bản thân và dẫn dắt người khác (leadership skills)
Trong một tập thể, khi có nhiệm vụ cần phải giải quyết, tất yếu sẽ xuất hiện nhu cầu
“So bó đũa, chọn cột cờ”. Khi thực tiễn đòi hỏi, ngay lập tức, tập thể sẽ chọn ra người
có khả năng nổi trội nhất phù hợp với nhiệm vụ để dẫn dắt những người khác theo cùng
một hướng để đạt một mục đích chung. Và muốn trở thành người lãnh đạo giỏi thì phải
chứng minh được năng lực và phẩm chất của một Leader. Và theo thuyết Đa thông minh
của Howard Gardner, trong mỗi cá nhân có thể sở hữu một hoặc vài trí thông minh trong
số 9 loại thông minh sau: tiếp xúc, logic toán, vận động, ngôn ngữ, thiên nhiên, thị giác,
âm nhạc, nội tâm, hiện sinh. Vì vậy, đừng than phiền rằng phải làm thêm các công việc
khác, hãy thể hiện khả năng đa kỹ năng của bạn. Chắc chắn cái nhận lại sẽ là rất lớn như
kinh nghiệm hay các mối quan hệ mới [6, tr. 9]. Kỹ năng này là vô cùng cần thiết đối với

sinh viên khoa Mầm Non vì các em phải làm tốt mọi nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ ở
trường mầm non.
2.1.7. Kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả (organizational effectiveness skills)
Kỹ năng này giúp sinh viên xác định được các yếu tố dẫn tới thành công đồng thời
nhận ra các nguy cơ tiềm ẩn và thời điểm nó có thể xảy ra dẫn tới thất bại. Từ đó, loại bỏ
hoặc hạn chế tác động xấu của những nguy cơ và tạo điều kiện cho những cơ hội xuất
hiện để công việc diễn ra thuận lợi, hiệu quả hơn. Kỹ năng này có mối liên hệ mật thiết
với kỹ năng làm việc nhóm. Mọi thành viên trong nhóm phải hợp tác để cùng hướng về
mục tiêu chung, đồng sức, đồng lòng để hoàn thành công việc cũng như cùng khắc phục
hậu quả nếu có [9, tr.45]. Kỹ năng này có thể không quan trọng lắm với sinh viên khi
thực tập ở các cấp học phổ thông nhưng đối với bậc học MN thì vô cùng quan trọng, vô
cùng cần thiết. Ví dụ: trong các giờ dạy âm nhạc, tập tô tranh, tô chữ theo mẫu hay hoạt
động góc… không phải chỉ có một sinh viên đứng lớp, mà cả nhóm đều tham gia. Khi
một sinh viên đang đứng lớp giảng bài thì buộc các sinh viên trong nhóm còn lại sẽ phải
quan sát xem bạn đang dạy đến đâu? cháu có hợp tác không? khi nào phải chuẩn bị bảng
phụ, phải bật loa máy để giúp bạn hoàn thành tiết dạy? Tất cả phải được phối hợp rất nhịp
125


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN...
nhàng thì tiết học mới diễn ra theo đúng trình tự. Vì vậy, trang bị cho sinh viên khoa mầm
non kỹ năng này là đương nhiên để các em học cách chủ động phối hợp với nhau cùng
giải quyết tốt mọi tình huống lên lớp, giáo dục và chăm sóc trẻ.
Có thể nói các kỹ năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau, đan xen
vào nhau để giúp cho các cá nhân làm tốt công việc của mình. Nếu giao tiếp tốt sẽ làm
việc nhóm, lãnh đạo bản thân, lãnh đạo người khác, tổ chức công việc tốt hơn và ngược
lại. Hoặc có tư duy sáng tạo, tự học tích cực sẽ có cái nhìn lạc quan trong công việc và
giao tiếp tự tin, lãnh đạo tốt… Để rèn luyện có hiệu quả các KNM này cho sinh viên cần
phải có những biện pháp thích hợp.
2.2. Biện pháp rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non

nhằm góp phần nâng cao chất lượng thực tập sư phạm
2.2.1. Tổ chức tập huấn nhằm trang bị kiến thức lý thuyết về KNM cho sinh viên
trước khi đi thực tập
Biện pháp này được triển khai sau khi có quyết định về thời gian và cơ sở thực
tập. Mục đích là cung cấp kiến thức cơ bản của 7 KNM trên phương diện lý thuyết và
xem video hướng dẫn cách rèn luyện kỹ năng: giao tiếp, tư duy sáng tao, quản lý bản
thân, lãnh đạo bản thân… của các tác giả trong nước và nước ngoài để giúp các em có
hiểu biết cơ bản về kỹ năng sống, kỹ năng mềm, từ đó sẵn sàng đương đầu với những
nhiệm vụ của thực tập với một sự tự tin. Sự hào hứng tham gia buổi tập huấn chứng tỏ
rằng sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện KNM đối với nghề
nghiệp của mình.
2.2.2. Tổ chức thực hành rèn luyện KNM cho sinh viên trước và trong khi đi thực
tập
Biện pháp này sẽ được triển khai sau biện pháp 1 và thông qua những tình huống
giả định nhằm hình thành, củng cố, khắc sâu kiến thức cho sinh viên. Sinh viên sẽ thực
hành các kỹ năng: tư duy sáng tạo, làm việc nhóm, tự học, giao tiếp, lãnh đạo, tổ chức
làm việc hiệu quả với các nhiệm vụ cụ thể như: vẽ sơ đồ tư duy về kế hoạch thực tập
của nhóm, Xây dựng tiểu phẩm, sắm vai và xử lý các tình huống sư phạm có thể xảy ra
ở trường MN, Cách ứng xử đối với các tin đồn thất thiệt trong nhóm, trong lớp, Làm đồ
dùng dạy học trang trí lớp học, góc học tập, Biểu diễn văn nghệ, triển lãm tranh… Nhờ
vậy, sinh viên sẽ tích lũy thêm kiến thức, kinh nghiệm ứng xử sư phạm đa dạng giúp các
em có thể bình tĩnh ứng phó khi bắt gặp những tình huống tương tự trong thời gian thực
tập. Đặc biệt, với kỹ năng giao tiếp không dễ gì thành thục trong một thời gian ngắn nên
cần rèn luyện trong suốt thời gian trước và trong suốt thời gian thực tập. Thường xuyên
nhắc nhở sinh viên khi tới trường thực tập phải ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, lịch sự; chào
hỏi lễ phép, đúng mực, nhiệt tình, chân thành với mọi người; ân cần, nhẹ nhàng, vui vẻ,
gần gũi, yêu thương, quan tâm đến mọi trẻ. Những giáo sinh nhút nhát, ít nói thì phải
động viên, khích lệ hàng ngày, hàng tuần để hòa nhập và theo kịp với các bạn trong mọi
hoạt động.
126



NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN
2.2.3. Tư vấn, động viên và giải quyết kịp thời các xung đột về nhu cầu, lợi ích
chính đáng của các cá nhân, các nhóm sinh viên trước và trongkhi đi thực tập
Biện pháp này là để rèn luyện các kỹ năng quản lý bản thân, làm việc nhóm, tổ
chức làm việc hiệu quả, giao tiếp…Có bao nhiêu giáo sinh thì sẽ có bấy nhiêu nhu cầu,
nguyện vọng, lợi ích và trình độ, năng lực, sở trường khác nhau không dễ gì hòa quyện,
hợp tác để cùng nhau làm việc. Đặc biệt là các giáo sinh là người dân tộc thiểu số thể
hiện rõ sự lo lắng, bất an. Cho nên, cần phải đặt mình vào vị trí của các em để lắng nghe,
để thấu hiểu, để thấu cảm và giải quyết hợp tình, hợp lý, giải tỏa băn khoăn, tháo gỡ khó
khăn cho sinh viên để các em yên tâm bước vào đợt thực tập. Phải chủ động xuống cơ sở
để tìm hiểu thực tế của trường thực hành, xin chương trình, kế hoạch thực tập, tiêu chí
đánh giá, tình hình nuôi dạy trẻ của nhà trường để trao đổi với sinh viên về những nhiệm
vụ phải hoàn thành trong đợt thực tập, yêu cầu soạn giáo án word hoặc powerpoint trước
khi đi thực tập để chủ động phát hiện ra những thiếu sót hoặc độ lệch giữa lý thuyết ở
trường sư phạm với thực tiễn ở cơ sở. Chia nhóm thực tập tương ứng với năng lực của
từng giáo sinh vào các lớp mẫu giáo lớn, nhỡ, bé để các em an tâm và tự tin khi bước
vào đợt thực tập. Điều chỉnh nguyện vọng nhằm đảm bảo sự cân đối, đồng đều về năng
lực giữa các nhóm. Khi chia nhóm nên chú ý tới những em nhanh nhẹn, mạnh dạn, học
lực tốt, ý thức trách nhiệm cao làm trưởng nhóm để giúp đỡ, hỗ trợ các em còn rụt rè để
hướng dẫn, nhắc nhở, động viên bạn hoàn thành nhiệm vụ của nhóm. Đồng thời, phải
chú ý điểm mạnh của từng em để tạo thành các nhóm mà năng lực về mọi mặt chuyên
môn, năng khiếu, sở trường tương đối đồng đều. Cho nên bất cứ một hoạt động nào sinh
viên cũng đều triển khai thực hiện tốt bởi mọi cá nhân luôn nỗ lực và có một thủ lĩnh ở
từng lĩnh vực dẫn đường. Như vậy, biện pháp này đã rèn luyện được kỹ năng quản lý,
lãnh đạo bản thân và dẫn dắt người khác. Qua đó đã giải tỏa sự căng thẳng, mất tự tin,
bi quan của nhiều em và mang lại niềm hy vọng, lạc quan, hứng khởi cho toàn đoàn khi
bước vào đợt thực tập. Không xảy ra mâu thuẫn lớn, bất hợp tác trong mỗi nhóm cũng
như trong toàn đoàn.

2.2.4. Tích cực dự giờ các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ của GV hướng dẫn
và sinh viên thực tập
Dạy học vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật nên đòi hỏi người dạy phải có
tư duy sáng tạo để có những tiết dạy hay, dạy giỏi đạt được các mục tiêu vể kiến thức,
kỹ năng và thái độ. Do tính đặc thù của ngành MN là vừa chăm sóc, nuôi dưỡng vừa
giáo dục trẻ MN nên yêu cầu GVMN phải biết sử dụng công nghệ thông tin trong các
hoạt động chuyên môn, phải biết hát hay, múa dẻo, phải biết chơi đàn Organ, phải biết
vẽ tranh, phải biết làm đồ dùng dạy học, trang trí lớp học, phải tạo được tình cảm yêu
quý từ trẻ, phải lôi cuốn trẻ tham gia các hoạt động của cô, của lớp, phải hợp tác với các
bạn... Chính vì vậy, sinh viên cần phải rèn luyện kỹ năng tư duy sáng tạo và tự học. Do
đó, trưởng đoàn thực tập phải đi dự giờ của giáo viên hướng dẫn và sinh viên thực tập
để tư vấn, giúp đỡ các em trong mọi hoạt động. Gợi ý cho các em cái hay nên học tập từ
GV hướng dẫn và hướng vận dụng vào tiết dạy sắp tới của mình. Khi được GV hướng
127


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN...
dẫn phân tích, góp ý về giáo án và giảng dạy thì các em cần phải sửa chữa để ngày càng
hoàn thiện các kỹ năng soạn giảng của bản thân. Cuối mỗi ngày, cuối mỗi tuần, các em
sẽ hội ý với GV hướng dẫn để nhìn lại những việc đã làm tốt, những sơ suất, sai sót dù
nhỏ nhất để rút kinh nghiệm cho ngày sau, tuần sau với một thái độ vui vẻ và sự quyết
tâm cao. Tất cả phải được thể hiện trong nhật ký thực tập của mỗi sinh viên.
2.2.5. Thường xuyên quan sát, nhắc nhở, điều chỉnh kịp thời mọi hoạt động giảng
dạy, chăm sóc, giáo dục trẻ MN của sinh viên
Mục đích của biện pháp này là rèn luyện các kỹ năng: Tổ chức làm việc hiệu
quả, Làm việc nhóm, Thúc đẩy bản thân và dẫn dắt người khác vì chúng có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Để rèn luyện kỹ năng này, cần yêu cầu sinh viên ngay tuần đầu thực
tập, sau khi nhận và làm quen với lớp thực tập, vừa dự giờ dạy mẫu đồng thời mỗi giáo
sinh và mỗi nhóm vừa phải xây dựng kế hoạch thực tập của mình và nhóm mình, chọn
bài dạy chung của cả nhóm, xây dựng giáo án điện tử, phân công người dạy chính và

nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên hỗ trợ, tiến hành tập giảng và làm đồ dùng dạy học.
Trong suốt thời gian thực tập, luôn theo sát các em trong các giờ dạy mẫu cũng như
giờ dạy của các nhóm để nhắc nhở các em chủ động hợp tác cùng bạn hoàn thành tốt
tiết dạy. Ví dụ: khi bạn tập giảng thì lắng nghe và đóng góp ý kiến để hoàn thiện giáo
án và các bước lên lớp. Khi bạn dạy chính thức thì các bạn còn lại hỗ trợ tích cực để
bài giảng hoàn thành theo các mục tiêu đề ra. Khi một bạn được điều động đi làm công
việc khác thì những bạn còn lại phải làm nốt việc của bạn ở tại lớp. Đôn đốc, kiểm tra,
nhắc nhở các nhóm chậm tiến độ về những công việc giảng dạy, làm đồ dùng dạy học,
viết báo cáo thực tập….
2.2.6. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm về việc tổ chức rèn luyện KNM cho
sinh viên
Biện pháp này được thực hiện sau khi kết thúc thực tập sư phạm để rà soát lại
toàn bộ quá trình tổ chức rèn luyện KNM cho sinh viên nhằm đánh giá kết quả đạt
được và những hạn chế, bất cập cần phải khắc phục thông qua test đầu ra. Từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm quý báu cho những lần bồi dưỡng rèn luyện KNM cho các
khóa sinh viên tiếp theo như: xây dựng những bài tập, những tình huống sát với thực
tế cơ sở hơn để rèn luyện được nhiều kỹ năng cho sinh viên. Phân tích khoa học và sắp
xếp hợp lý trình tự rèn luyện các kỹ năng. Xác định đúng kỹ năng nào rèn trước, kỹ
năng nào rèn sau, kỹ năng nào phải rèn liên tục, kỹ năng nào sẽ bổ trợ cho các kỹ năng
còn lại, kỹ năng nào sẽ được kết hợp rèn cùng lúc… Xây dựng kế hoạch rèn luyện phù
hợp về thời gian, không gian, cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực để tổ chức rèn KNM
cho hiệu quả.
2.3. Tổ chức thực nghiệm các biện pháp rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên
khoa Giáo dục Mầm non trường Cao đẳng sư phạm Quảng Trị
Trước khi tổ chức tập huấn rèn luyện kỹ năng mềm cho 142 SV khoa Mầm Non
của trường Cao đẳng sư phạm Quảng Trị, các em được kiểm tra nhận thức đầu vào về
128


NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN

kỹ năng mềm với 5 câu hỏi sau:
1) Bạn hãy cho biết KNM là gì?
2) Bạn hãy kể tên các KNM?
3) Theo bạn, sinh viên Mầm Non cần trang bị những KNM nào?
4) Bạn có tự tin về những KNM mình đã có? Vì sao?
5) Bạn mong muốn được rèn luyện thêm những KNM nào trước khi đi thực tập
sư phạm?
Qua phiếu test cho thấy, 100% đều trả lời đúng câu 1 về định nghĩa kỹ năng mềm
(vì lấy nguồn từ internet). Câu 2: Đa số SV chỉ kể ra được 3 kỹ năng: giao tiếp, làm
việc nhóm và tự học. Câu 3: Hầu hết SV cho rằng, giáo viên mầm non cần rèn luyện 3
kỹ năng trên. Câu 4: 36,5 % SV tự tin về kỹ năng giao tiếp của bản thân. Câu 5: 100%
đều muốn được tập huấn các kỹ năng mềm do khoa tổ chức trước khi đi thực tập sư
phạm để tăng sự tự tin.
Xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của sinh viên, các giảng viên
được phân công nhiệm vụ đưa sinh viên đi thực tập ở cơ sở đã phối hợp với các giảng
viên chuyên ngành tâm lý, giáo dục học xây dựng nội dung và triển khai kế hoạch tập
huấn và rèn kỹ năng mềm cho các em trước và trong suốt thời gian thực tập. Sau khi
triển khai các biện pháp rèn luyện KNM trên, sinh viên cho biết, các em cảm thấy thực
sự tự tin và có tâm lý rất thoải mái, yên tâm khi bước vào đợt thực tập sư phạm cuối
khóa. Đặc biệt, sự có mặt thường xuyên của giảng viên tư vấn KNM ở trường thực tập
được coi là chỗ dựa tinh thần vững chắc để tăng sự tự tin, mạnh dạn của sinh viên trong
việc thể hiện KNM. Dưới đây là kết quả thực tập cuối khóa năm học 2018 - 2019 của
sinh viên khoa Mầm Non trường Cao đẳng sư phạm Quảng Trị.
Bảng 1. Tổng hợp kết quả TTSP của SV khoa mầm non trường CĐSP Quảng Trị,
năm học 2018 - 2019 [6]
Số lượng
SV
142

Xuất sắc


Giỏi

Khá

Trung bình

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

7

5%

77

54,2%


58

40,8%

0

0

Có được kết quả trên đây, trước hết là do sinh viên phải rất nỗ lực học tập và rèn
luyện không ngừng trong cả khóa học. Các em đã được giáo dục tốt về kỹ năng cứng và
được rèn thêm một số KNM. Nhưng có một thực tế là ở các khóa trước đây, các em đều
có điểm xuất phát về kỹ năng cứng như nhau nhưng hầu như đợt thực tập nào cũng xảy
ra sự cố như có một số em dạy chỉ đạt điểm trung bình. Thậm chí có trường hợp chán
nản, street đã bỏ dở thực tập rồi bỏ học luôn. Trong năm học 2017 – 2018 có đến 7 sinh
viên xin bảo lưu, không tiếp tục theo học. Dưới đây là bảng tổng hợp kết quả thực tập sư
phạm của 2 năm học 2016 -2017 & 2017 – 2018.
129


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN...
Bảng 2. Tổng hợp kết quả TTSP của SV khoa Mầm non trường CĐSP Quảng Trị,
năm học 2016 - 2017
Số lượng
SV
197

Xuất sắc

Giỏi


Khá

Trung bình

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

4

2%

109

55,3%

84


42,7%

0

0

Bảng 3. Tổng hợp kết quả TTSP của SV khoa Mầm non trường CĐSP Quảng Trị,
năm học 2017 - 2018
Số lượng
SV
65

Xuất sắc

Giỏi

Khá

Trung bình

SL

TL

SL

TL

SL


TL

SL

TL

0

0%

41

63%

24

37%

0

0

Căn cứ vào bảng tổng hợp 2 & 3 về kết quả thực tập sư phạm cho thấy số sinh
viên đạt kết quả xếp loại xuất sắc năm học 2016 – 2017 rất thấp, chiếm 2%, còn năm
học 2017 – 2018, không có sinh viên đạt loại xuất sắc. Điều này cho thấy, các em đang
thiếu và yếu một số KNM cơ bản. Rút kinh nghiệm từ các khóa trước, năm học này, nhà
trường tập huấn KNM cho sinh viên năm cuối nhằm hỗ trợ, tư vấn cho các em về tâm lý
để nâng cao chất lượng thực tập. Với kết quả 55% đạt loại giỏi và 5% đạt xuất sắc, 40%
đạt loại khá, không có sinh viên nào có giờ dạy bị xếp loại trung bình được xem là một

thành công bước đầu của thực nghiệm. Sau khi test đầu ra về nhận thức, thái độ và kỹ
năng của sinh viên đối với việc được trang bị KNM đã nhận được những phản hồi tích
cực. Hầu hết các sinh viên đều cho rằng việc được trang bị thêm một số KNM trước và
trong khi đi thực tập đã góp phần đem lại kết quả thực tập tốt, đúng như mong muốn,
phản ánh đúng năng lực và sự cố gắng của bản thân sinh viên. Củng cố thêm tinh thần
lạc quan, lòng yêu nghề và sự lăn tăn về việc chọn nghề đã mất hẳn sau khi đi thực tập.
Nhiều em thừa nhận KNM đã giúp các em đạt được những thành công ngoài mong đợi.
Phía trường thực hành nhận sinh viên thực tập cũng đánh giá rất cao chất lượng đào tạo
sinh viên ngành Mầm Non hệ cao đẳng của nhà trường trong năm học vừa qua.
3. Kết luận - kiến nghị
3.1. Kết luận
Thực tập sư phạm là một khâu quan trọng trong quá trình đào tạo nghề cho người
lao động vì nó sẽ giúp người học vận dụng lý thuyết vào thực tế để thể hiện và khẳng
định năng lực và phẩm chất nghề nghiệp của bản thân. Đặc biệt đối với các trường sư
phạm, thực tập sư phạm lại càng trở nên quan trọng để giúp các giáo sinh nâng cao năng
lực giảng dạy, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, bồi dưỡng tình cảm nghề nghiệp, trau dồi
đạo đức nhà giáo để sau này trở thành một người GV thực thụ. Muốn đạt được kết quả
thưc tập tốt và tạo cơ hội tìm được, tạo được việc làm cho mình ngay sau khi ra trường,
đòi hỏi ngoài những kỹ năng cứng cơ bản mà nhà trường sư phạm cung cấp, trang bị cho
130


NGUYỄN THỊ HỒNG YẾN
thì mỗi sinh viên cần phải tích lũy, trau dồi thêm nhiều KNM khác để hỗ trợ đắc lực cho
việc hoàn thành tốt các nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục của các đợt thực tập sư phạm. Bởi
kỹ năng mềm là một bộ phận hợp thành kỹ năng sống. Nó giữ một vị trí khá quan trọng,
có vai trò quyết định từ 75 % -85 % sự thành công trong công việc của mỗi người. Và
bất cứ ngành nghề nào trong xã hội cũng đòi hỏi một số những kỹ năng mềm tương ứng
buộc người làm việc trong ngành nghề đó phải chú ý rèn luyện, trang bị cho mình. Nghề
giáo viên mầm non là một nghề khá đặc thù vì phải chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các

trẻ từ 2-6 tuổi. Nghề này càng đòi hỏi các cô giáo phải có rất nhiều kỹ năng mềm thì mới
hoàn thành nhiệm vụ dạy học của mình. Thiết nghĩ, trang bị 7 kỹ năng mềm trên hoặc
nhiều hơn cho sinh viên khoa Mầm Non sẽ là điều rất cần thiết để ngay sau khi ra trường
các em có thể làm tốt công việc nuôi dạy trẻ.
3.2. Kiến nghị
Các cơ sở đào tạo giáo viên mầm non muốn nâng cao chất lượng đào tạo thì bên
cạnh việc trang bị cho sinh viên những kỹ năng cứng còn cần phải chú trọng việc trang
bị các KNM phù hợp với chuyên ngành đào tạo. Thời điểm để trang bị kỹ năng mềm
cho sinh viên diễn ra trong suốt thời gian học tại trường và đặc biệt, trước và trong khi đi
thực tập sư phạm nên tổ chức tập huấn bảy kỹ năng mềm trên thì sẽ góp phần cải thiện
được chất lượng thực tập của sinh viên. Thứ nữa, trưởng đoàn thực tập phải luôn theo sát
các em trong mọi hoạt động ở cơ sở thực tập. Dự giờ và đánh giá, nhận xét chuyên môn,
góp ý giáo án, động viên, nhắc nhở và giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh trong
thời gian thực tập của các em. Bản thân trưởng đoàn phải có chuyên môn vững, có kinh
nghiệm giảng dạy, được đào tạo KNM và đặc biệt phải có tâm với nghề mới có thể dìu
dắt các thế hệ giáo sinh cứng cáp, trưởng thành hơn khi trải nghiệm thực tập. Đồng thời,
bản thân sinh viên phải nhận thức được tầm quan trọng và có ý thức trau dồi KNM trong
suốt quá trình học tập và rèn luyện ở trường sư phạm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thanh Bình (2007), “Giáo trình giáo dục kỹ năng sống”, NXB Đại học
Sư phạm.
[2] Chu Văn Đức (2005), “Giáo trình kỹ năng giao tiếp”, NXB Hà Nội.
[3] Phùng Nguyễn Quỳnh Nga, Trịnh Khắc Thuỳ Hương, Nguyễn Thị Thanh Hiền
(2018). “Nâng cao chất lượng công tác TTSP cho HSSV trường CĐSP Nghệ An”,
Tạp chí Giáo dục (434), tr. 22-26.
[4] Hoàng Thế Nhật (2015), “Kỹ năng sống của sinh viên khoa sư phạm, trường Đại
học An Giang”. Journal of Science An Giang University, Vol. 5 (1), tr. 23 – 28.
[5] Phòng đào tạo trường Cao đẳng sư phạm Quảng Trị (2017, 2018&2019), “Báo cáo
tổng kết thực tập tốt nghiêp khoa Mầm Non”.

131


RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN...
[6] Lê Hoàng Quân (2012), “Cẩm nang đổi mới trong lãnh đạo”, NXB Đại học Sư
phạm.
[7] Lê Thị Hiếu Thảo (2018), “Đổi mới tư duy nhận thức về kỹ năng mềm trong
sinh viên thời đại công nghiệp 4.0”, ngày truy cập 15/8/2019 nguồn http://bvu.
edu.vn/web/gtsd/-/-oi-moi-tu-duy-nhan-thuc-ve-ky-nang-mem-trong-sinh-vienthoi-ai-cong-nghiep-4-0-renewalizing-the-awareness-of-soft-skills-of-universitystudent-in-ind
[8] Bùi Loan Thùy, Phạm Đình Nghiệm (2010), “Giáo trình - Kỹ năng mềm”, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh.
[9] Phạm Xuân Vũ (2015), “Hợp tác – một kỹ năng cần thiết cho sinh viên trong quá
trình học tập và nghiên cứu ở trường đại học”, Tạp chí Khoa học trường Đại học
Trà Vinh (17), tr. 44-47.
[10] Wikipedia tiếng Việt - Kỹ năng mềm, truy cập ngày 15/8/2019, nguồn từ https://
vi.wikipedia.org/wiki/Kỹ_năng_mềm

Title: SOFT SKILL TRAINING FOR NURSERY EDUCATION MAJORS TO
IMPORVE THE QUALITY OF EDUCATION INTERNSHIP
NGUYEN THI HONG YEN
Quang Tri Teacher Training College
Abstract: Besides hard skills, it is necessary for Nursery Education students to
be equiped with soft skills so that they can obtain good results in education internships.
Soft skills help students get over psychological pressure and give them great support for
their professional activities. The paper focuses on discussing soft skills training contents
and methods for Nursery Education students in order to improve the quality of education
internships which have been successfully applied for a group of students in Quang Tri
Teacher Training college.
Key words: Soft skills, Students, Nursery Education, Education internship.


132



×