Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.84 KB, 7 trang )

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT SÔNG
CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
NGUYỄN THỊ KIM HẢO
Khoa Ngữ văn

1. MỞ ĐẦU
Văn học Việt Nam trong những năm gần đây xuất hiện nhiều cây bút trẻ, đặc biệt là
những cây bút nữ. Những tác phẩm của họ ngày càng được bạn đọc và giới nghiên cứu
đánh giá cao. Họ khơng những góp phần đổi mới tư duy nghệ thuật mà còn làm mờ dần
nếp nghĩ xưa về văn học vùng miền. Nguyễn Ngọc Tư là một trường hợp như thế. Từ
khi cây bút trẻ này xuất hiện thì văn học miền Nam đã có nhiều khởi sắc. Chị đã tạo nên
sức hút đối với văn học Nam Bộ nói riêng và văn học Việt Nam đương đại nói chung.
Sau thành cơng ở thể loại truyện ngắn và tản văn, đặc biệt là “hiện tượng Cánh đồng bất
tận”, Nguyễn Ngọc Tư đã chính thức đặt chân vào địa hạt của tiểu thuyết. Tiểu thuyết
Sông được đánh giá là độc đáo, đầy tính thời sự mà cũng giàu chất thơ. Nhà văn đã tạo
ra một thế giới người cô đơn, mang phức cảm phức tạp, dấn thân đi tìm bản thể giữa
một miền sơng nước mênh mông. Với Sông, người đọc nhận ra những đặc sắc nghệ
thuật mới trong hành trình sáng tạo văn chương của Nguyễn Ngọc Tư.
2. CON NGƯỜI CÔ ĐƠN
Tựa sách trong phác thảo ban đầu là Ngàn dặm sông, nhưng sau chỉ gọn một chữ Sơng.
Có thể xem sơng Di là nhân vật chính của tiểu thuyết này. Nó là dịng chảy chính, xun
qua rất nhiều số phận, là dịng sơng của những mảnh đời con con. Nó là khát vọng của
đời người. Cuộc sống soi bóng xuống dịng sơng khát vọng, hắt lên những cô độc, bấp
bênh và buồn thảm. Thân phận con người vừa đau khổ, vừa mong manh. Cái chết có thể
đổ ụp lên đầu bất cứ lúc nào. Dịng sơng cứ bình thản trơi qua những thân phận bầm dập
như thế.
Cơ đơn là một trạng thái tâm lí khá phức tạp của con người. Nỗi cô đơn của những con
người trong tác phẩm không phải là cô đơn vì khơng có ai bên cạnh, khơng có ai chở
che mà là họ cơ đơn ngay khi có tất cả bên cạnh. Nỗi đau giấu kín mà khó ai có thể phát
hiện ra được để đồng cảm, để sẻ chia. Xu cô đơn khi lớn lên trong trại trẻ mồ cơi. Ân
trong tác phẩm xuất hiện là người có một cuộc sống đầy đủ bên mẹ và những đồng


nghiệp thân thiết như anh chị em, nhưng không ai lại biết được rằng đằng sau sự hạnh
phúc bề nổi ấy ẩn chứa một nỗi đau khó diễn tả hết. Ân có cha, có mẹ nhưng cũng chỉ
như một đứa trẻ sinh ra trong lạc lồi, vơ thừa nhận, nhớ mãi cú xô ngã chối từ cay
nghiệt của bà nội. Ân cô đơn ngay trên chính hạnh phúc mà mình đang có, nó như là
một gọng kìm siết chặt lấy cậu. Trong suốt chuyến đi, dù có bạn đồng hành nhưng Ân
vẫn cơ đơn vì anh khơng tìm ra được sự hịa hợp cần có giữa con người với con người,
ngay cả khi “Giữa tiếng cười em, tơi bỗng nghe nhoi nhói nỗi cơ độc. Hay em có khốc

Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2013-2014
Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 12/2013, tr:129-135


130

NGUYỄN THỊ KIM HẢO

bao nhiêu áo, có che giấu thế nào thì tơi vẫn thấy sự quạnh hiu” [6, tr. 145] và đến lúc
biến mất thì cái bóng của sự cô đơn vẫn hiện hữu ở trong con người anh.
Nhân vật trong Sông của Nguyễn Ngọc Tư tự ý thức rất rõ về sự cơ đơn. Bối cơ đơn ở
chính gia đình của mình: “Khơng sóng gió, Bối lớn lên, muốn gì cũng có, địi gì cũng
được. Cha mẹ Bối cùng với đứa em gái suốt ngày chỉ biết hùng hục học để kiếm danh
vị. Một ngơi nhà có hai giáo sư và một tiến sĩ hồn tồn khơng cãi cọ, chỉ là ít nhìn mặt
nhau như nhìn mặt sách” [6, tr. 80]. Bối đã nhận ra được sự cô đơn, lạc lõng trong chính
ngơi nhà thân u của mình. Cũng như Ân, Bối quyết định bỏ đi. Nhưng phải chăng
trong suốt hành trình bỏ đi này, anh thấy mình vẫn cô đơn thế nên mới quyết định dừng
chân một cách bí ẩn và bất ngờ? Rồi thì nỗi cơ đơn của San: “Nỗi bơ vơ khi người anh
trai bỏ lơ. Những người tình bạc bẽo. Nhớ lần đi nhận giải thưởng Tuổi xanh, lúc nửa
đêm ngón tay chị bị bật máu vì con vật nào đó cắn. Lúc đó chị nghĩ là rắn, cảm giác
nọc độc đang hồ hởi chạy lên tim, cảm giác máu đang đen lại. Chị gọi Hựu không nghe
máy…” [6, tr. 220]. Để rồi thuốc ngủ đã giúp chị chìm sâu vào nỗi cơ đơn ấy mà như chị

đã nói “trốn vào thứ gì đó để qn”. Cịn nhiều sự cơ đơn ở các nhân vật khác nữa như
Cao, như Ánh… tất cả đều cô đơn.
Tuy nhiên, ở đây xuất hiện nghịch lí tạo nên mâu thuẫn trong bản thân nhân vật. Họ biết
mình dù có đi suốt cuộc hành trình thì vẫn cơ đơn nhưng họ học cách tự chấp nhận và
không muốn quay về. Bởi vì nếu quay về thì bản thân mỗi người cũng khơng biết mình
sẽ làm gì ở đó, mình sẽ sống như thế nào hay lại tiếp tục sống luẩn quẩn bế tắc tại cái
nơi mà mình đã quyết định ra đi? Thà đi để biết mình đang sống còn hơn là đứng yên để
chết mòn trong đau khổ. Ân là một trong những người đã suy nghĩ như vậy. Anh cơ đơn
trên hành trình nhưng lại khơng muốn quay về: “Lần này đi khơng có Tú, nhưng cậu
cũng khơng có ý định về” [6, tr. 163]. Cuộc đời, vốn dĩ chẳng ai mong muốn mình cơ
đơn. Với Sơng, cô đơn trở thành nỗi đau của các nhân vật. Bởi họ cơ đơn trên chính
mảnh đất mà mình tồn tại. Cũng chính vì q cơ đơn mà con người ta chỉ biết đặt trùng
trùng dấu chấm hỏi lặp lại sau cụm từ “Rồi sao nữa?” và câu hỏi tưởng chừng như bâng
quơ đó lại theo bước chân mỗi người đến hết hành trình.
3. CON NGƯỜI ĐI TÌM BẢN THỂ ĐÍCH THỰC CỦA CHÍNH MÌNH
Đọc Sơng chúng ta thấy nhân vật đang trên hành trình đi tìm bản thể đích thực của
mình. Khi cơ đơn, con người ta thường dùng mọi cách tìm lại bản thân để cứu vớt
những gì đã mất. Có thể nói, hành trình tìm lại chính mình xuất phát từ nhiều khía cạnh,
lí do khác nhau: đó có thể là tìm lại chính tên tuổi, nguồn gốc xuất xứ của mình; đó
cũng có thể là tìm lại chính bản thân mà lâu nay nhiều người vẫn cố gắng che đậy…
Con người tìm lại chính mình để khẳng định mình là một bản thể của cuộc sống. Cuộc
sống của con người là một hành trình mải miết kiếm tìm. Cái thứ mà con người kiếm
tìm ln ln chập chờn như ảo ảnh. Và chính bản thân người ta cũng khơng rõ mình cứ
mãi kiếm tìm gì? Cuộc sống là sự nỗ lực khơng ngừng để vượt thốt ra khỏi các giới
hạn. Vậy thì sự kiếm tìm cũng là một nỗ lực để vượt thoát lên trên những giới hạn của
cuộc sống. Trong Sông cũng là sự kiếm tìm như thế.


THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT SÔNG CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ


131

Biến mất để tồn tại, để được tìm kiếm, nhớ nhung và nhắc tới, trong chừng mực nào đó,
là một ý niệm mới mẻ được tiểu thuyết này đề cập. Ân băn khoăn tự đi tìm những dấu
hiệu nhận ra đồng loại, những người giống như mình: “Khơng phải cậu quan tâm
chuyện ngón tay út Bối hay cong cớn lên, như một dấu hiệu của đồng – loại” [6, tr. 10]
hay “Anh ta khơng có dấu hiệu gì là người giống như mình. Anh ta tỏ ra coi khinh nhóm
Quý bà trên quãng đường đi tới cây bi-ia” [6, tr. 128]. Với Xu thì khác, anh cũng đang
trên hành trình tìm lại bản thân nhưng hành trình của anh là để trả lời cho câu hỏi: Anh
là ai? Anh đến từ đâu?: “Xu cũng giải thích cái sự khơng nhìn vào bạn đồng hành vì anh
ta có thói quen ngắm nghía cảnh vật hai bên đường. Biết đâu tơi được đẻ ra ở đó. Xu
nói. Đó là lúc cậu thấy Xu cũng giống mình, đương đầu với một vài câu hỏi khó. Anh ta
khơng biết mình đến từ đâu” [6, tr. 53]. Xu không tự biến mất nhưng lại chọn cách kết
thúc chuyến du khảo ở Túi, cái rốn của giơng gió, nơi sẽ chấm dứt mọi phấp phỏng,
phân vân mà cậu từng chia sẻ với Ân. Rồi chính Ân cũng biến mất. Ân mang theo thân
thể tinh khiết để vùi lấp vào sông Di, như cách tuyệt tự cơ hội được sống là mình, được
phơ bày khuyết tật mà số phận đã sắp sẵn.
Mỗi nhân vật trong tác phẩm quyết định ra đi với những mục đích khác nhau nhưng
nhìn chung họ đều mang trong mình những băn khoăn, suy nghĩ mung lung, khơng rõ
ràng trên hành trình kiếm tìm của mình, nó thể hiện tinh thần hiện sinh rất rõ nét. Tác
phẩm hướng con người hãy sống thật với bản thân mình, hãy là chính mình, như bản thể
mình, làm chủ mình để khơng bị xơ đẩy, bị vùi dập, buộc phải sống theo ước muốn của
người khác. Và sau cùng chính là sự cảm thơng với những mảnh đời bất hạnh đang phải
hứng chịu nhiều khổ đau trên cõi đời này.
4. CON NGƯỜI DẤN THÂN
Từ sự cô đơn, bế tắc với những bi kịch trong cuộc sống các nhân vật trong Sơng tìm
mọi cách chối bỏ thực tại, tìm cách giải phóng bản thân qua hành trình dấn thân, nổi
loạn. Từ đó mà hình thành nên một kiểu con người mới - con người dấn thân, nổi loạn
trong văn học mà với Sơng thì đó là một kiểu nhân vật tiêu biểu. Hành động dấn thân
đầu tiên mà các nhân vật lựa chọn đó là sự bỏ đi. Quyết định bỏ lại sau lưng công việc,

người mẹ và cả người tình đồng tính vừa mới cưới vợ, Ân – nhân vật cậu trong tiểu
thuyết quyết định bước vào hành trình khám phá sơng Di để tìm sự quên. Bối và Xu
quyết định tham gia dấn thân vào cuộc hành trình cùng với Ân ngồi mục đích chung thì
cũng có một vài mục đích riêng: “Cả Bối và Xu đều bảo đi đâu không quan trọng, miễn
là được đi…” [6, tr. 10]. Hành trình bỏ đi của người dân làng Uể U cũng vậy: “Uể U tàn
lụi vì những cuộc đi này. Con gái chớm lớn là bỏ đi hết. Con trai chớm lớn một nửa bỏ
đi theo đám con gái, nửa còn lại sống với tượng đó và những người già. Người ở lại cứ
bải hoải vì những nụ hơn với đá, mà khơng thiết tha gì với người” [6, tr. 148]. Mẹ Ân
thì tìm cách dấn thân vào những cuộc tình chóng vánh với những người tình của mình
sau khi cha Ân bỏ đi theo người khác. Bà chấp nhận đánh đổi mọi thứ miễn sao sống
thật với bản thân để tận hưởng những giây phút đẹp đẽ của đời. Bạn bè Ân như Bách,
Duyên... thì lại tự thả mình dấn thân vào vịng xốy kiếm tiền, bất chấp cả những hành

 

 


132

NGUYỄN THỊ KIM HẢO

động không đúng thuần phong mĩ tục mà trước đó họ là những người biết quan tâm đến
thời cuộc, đến vận hạn của đất nước. Phải chăng trước dòng chảy hối hả của cuộc sống
với những thiếu thốn về mọi mặt buộc mỗi người phải tự tìm cách cứu mình để khơng
bị chính nó dìm sâu vào cái hố đen tối tăm của cuộc đời?
Dấn thân hành động để nhân vật khẳng định mình, biết mình đang ở đâu, làm gì. Và
cũng là để biết rằng mình vẫn còn hiện sinh trên dòng chảy của cuộc đời đầy xô bồ này.
5. CON NGƯỜI TRONG PHỨC CẢM ĐỒNG TÍNH
Với tiểu thuyết Sơng, đây là lần đầu tiên Nguyễn Ngọc Tư đưa vấn đề đồng tính vào tác

phẩm của mình. Khác với những nhà văn khác như Bùi Anh Tấn, Phạm Thị Hoài...,
Nguyễn Ngọc Tư đã tiếp cận mảng này chủ yếu về mặt tinh thần, về nội tâm con người,
về những suy nghĩ và dằn vặt của nhân vật chứ khơng hồn tồn khai thác những gì
thuộc về thân xác và nhục cảm. “Khi viết Sông, nhiều bạn cũng đã hỏi tôi tại sao không
đi sâu vào sex, nhục dục, nhưng tơi nghĩ đồng tính khơng chỉ có sex. Họ cũng có ẩn ức
khác, những mối quan tâm xã hội, có đời sống rất bình thường. Viết về đồng tính đâu cứ
phải sex. Khi nhà văn đào sâu tâm tư, ẩn ức của họ cũng rất hấp dẫn” Nguyễn Ngọc Tư
chia sẻ [1]. Nhà phê bình Phạm Xuân Ngun nói: "Đưa chuyện đồng tính vào, tơi cho
đó là một sự gia giảm cần thiết và hợp lý, với liều lượng vừa phải và hoàn toàn ăn nhập
với câu chuyện. Chính điều này đã khơng gây cảm giác tác giả đang muốn dùng điều đó
để câu khách” [1].
Ân – nhân vật chính trong tác phẩm xuất hiện là người có một cuộc sống đầy đủ, người
ln được mẹ đặt nặng vấn đề trách nhiệm lên vai “vì Ân là đàn ông trong nhà” [6, tr.
144] nhưng không ai lại biết được rằng đằng sau sự hạnh phúc bề nổi ấy là ẩn chứa một
nỗi đau khó diễn tả hết. Ân sinh ra là nỗi thất vọng của bà ngoại “cậu bỗng hiểu cái điều
mà cả thời thơ ấu không bao giờ hiểu được, rằng bà ngoại cậu đã thất vọng đến chừng
nào, về sự có mặt của cậu ở giữa đời này” [6, tr. 152]. Nhưng trên hết, Ân là một người
đồng tính và anh khơng thể khơng chấp nhận điều đó. Anh khơng thể nghe lời mẹ để
cưới được một cô vợ mà mẹ anh mong muốn. Quyết định bỏ lại sau lưng tất cả khi biết
tin người tình đồng tính cưới vợ để bước vào hành trình khám phá sông Di như là sự tất
yếu, là một sự lãng quên để chìm vào hư ảo cuộc đời. Ân liên tục bị chìm đắm vào dịng
suy nghĩ miên man về Tú - “người tình” của mình, mặc dù khơng hành động ra bề ngồi
như cách trả lời lại tin nhắn của Tú nhưng thông qua những suy nghĩ, nhớ nhung, liên
tưởng triền miên về Tú thì ta cũng cảm nhận được sự sâu sắc, tình cảm chân thành của
anh. Có thể thấy, trước lúc Ân bỏ đi thì Ân và Tú cũng đã từng dấn thân vào những suy
nghĩ biến mất khỏi đời này sau những chuyến đi chỉ có hai người. Bọn cậu muốn biến
mất để được sống cùng nhau, tận hưởng những giây phút hạnh phúc bên nhau mà khơng
có sự ngăn cản, gièm pha của người đời. Nhưng sau khi mối tình ấy chấm dứt thì những
suy nghĩ khơn ngi về Tú hiện lên với tần suất lớn: “Cậu nơn hai lần, cứ ước có Tú vỗ
lưng cho, có càm ràm cũng vui. Đáng đời, ai kêu uống cho cố mạng, uống khơng biết

thương chính mình. Tú thường nói vậy. Giờ này Tú làm gì trong tổ, một căn nhà vừa
mới mua cuối đường Xuân Diệu?” [6, tr. 56]. Liệu chăng, việc chọn cách dấn thân triền


THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT SÔNG CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ

133

miên vào suy nghĩ kèm theo hành động bỏ đi có thể giúp Ân vơi đi được sự bế tắc trong
cuộc đời?
Ta thấy được sự giằng xé, đau đớn tâm can trước dòng suy nghĩ miên man về những
ham muốn tột độ của cảm xúc mà Ân không kiềm chế được khi nhắc đến những kỉ niệm
đẹp nhưng buồn với Tú. Đó là kỉ niệm về thời mới quen biết Tú giữa một cánh đồng
hoa cải vàng: “Mùa đông chưa đi được nửa đường rét của nó. Nắng trên những triền
núi chảy rịng xuống, khỏa lìm lịm trong thung lũng. Thè lưỡi ra có thể nếm được cái vị
thanh thao của nắng. Cậu cũng muốn được những vạt hoa cải vàng nuốt chửng lấy
mình, dìm sâu tận đáy” [6, tr. 23]. Bây giờ mọi thứ đều đã trở thành kí ức, một chuỗi kí
ức đẹp nhưng buồn man mác. Tất cả ấy bây giờ chỉ còn tồn tại trong những suy nghĩ
khôn nguôi và sẽ không bao giờ tắt trong Ân, theo Ân đến hết hành trình trở về chính
mình.
6. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT SÔNG
Tác phẩm được xây dựng bằng kết cấu mở, với một cái kết thúc buồn pha trộn sự huyền
ảo, người đọc khơng thể biết chính xác là Ân hay Xu hoặc Phụng còn sống hay đã chết
giữa cái rốn Túi ấy. Nguyễn Ngọc Tư đã bỏ dở cuộc đời họ dừng lại ngay giữa đó để
bạn đọc tự cảm nhận và đồng sáng tạo. Có thể khẳng định rằng: với kiểu kết cấu này thì
các sự kiện, chi tiết trong tác phẩm Sông bao gồm hiện thực và cả con người như được
tạo thành một chỉnh thể giãn nỡ, biến đổi và người ta khó phân định được đâu là điểm
kết thúc về cuộc đời, số phận của nhân vật. Bên cạnh kết cấu mở thì thế giới nhân vật
trong tiểu thuyết này còn được Nguyễn Ngọc Tư xây dựng thông qua kiểu kết cấu ghép
mảnh. Đọc Sông của Nguyễn Ngọc Tư ta thấy xuất hiện đồng thời của nhiều mảnh đời

chứ không đơn thuần là một mảnh đời như những tác phẩm trước mà chị từng viết.
Ngoài ra, kết cấu này cịn được thể hiện thơng qua việc xâu chuỗi nhiều vấn đề, đề tài
trong cùng một tác phẩm: đồng tính, bi kịch gia đình, bình đẳng giới, ngược đãi trẻ em,
tôn giáo, tệ nạn xã hội… và tất nhiên là phải kể đến yếu tố sex. Kết cấu này giúp người
đọc có một cái nhìn tổng quan, đầy đủ hơn, chính xác hơn về con người và cuộc đời
nhằm có những nhận định chính xác hơn về hành trình mà các nhân vật đang trải qua.
Khơng gian trong tiểu thuyết này không bao giờ đứng yên ở một vị trí nhất định mà
ln vận động, ln chuyển từ nơi này đến nơi khác. Đặt con người vào trong sự dịch
chuyển không gian này, Nguyễn Ngọc Tư càng nhấn mạnh, tô đậm thêm sự mong
manh, bất định của đời người. Con người đang chạy đua với cuộc đời để khẳng định bản
thể bởi vì cuộc đời nó khơng bao giờ giờ đứng yên ở một điểm dừng trên một trục nhất
định.
Bên cạnh ấy, thời gian trong Sơng có sự đan xen, chồng chéo thời gian giữa quá khứ,
hiện tại và tương lai. Sự tổ chức, sắp xếp thời gian như vậy đặt nhân vật vào một ranh
giới không rõ ràng giữa hiện tại, quá khứ và tương lai; dễ làm cho nhân vật bị lung lay,
mất phương hướng trên chặng đường vươn lên đi tìm những giá trị chân thật nhất cho
bản thân mình. Đặc biệt, đóng góp đầu tiên khi xây dựng thế giới nhân vật trong tác
phẩm phải kể đến đó là ngơn ngữ của người kể chuyện. Với Sơng thì ta thấy ở đây

 

 


134

NGUYỄN THỊ KIM HẢO

Nguyễn Ngọc Tư đã kể chuyện theo ngơi thứ ba, người kể chuyện giấu mình nhưng
điểm nhìn và lời kể theo giọng điệu của nhân vật. Ngôn ngữ của người kể chuyện ở đây

cịn có sự đan xen giữa lời kể, tả, bình nhằm thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với từng
mảnh đời được đề cập đến trong tác phẩm. Ngơn ngữ nhân vật cịn được thể hiện rõ nét
qua những dòng độc thoại nội tâm của chính các nhân vật trong tác phẩm. Những dịng
độc thoại nội tâm này chính là nơi để nhân vật thể hiện cảm xúc, tình cảm của mình
nhiều nhất, từ đó cho độc giả thấy được nhân vật đang ở trong trạng thái như thế nào,
đang suy nghĩ những gì về mình và hiện thực đang xảy ra. Đối thoại để nhân vật tự đưa
ra những suy nghĩ, quan điểm của bản thân nhằm đi đến khẳng định mình với đời,
khẳng định sự hiện tồn của mình trước cuộc đời.
Sơng được viết bởi giọng điệu triết lí đầy suy tư, nó là phương tiện để nhân vật bộc lộ,
trình bày những suy nghĩ, quan điểm, nhận định của mình trước những vấn đề đã và
đang xảy ra đối với bản thân và trong cuộc sống hiện tại một cách khách quan và chủ
quan. Bên cạnh chất giọng triết lí, suy ngẫm thì ta cịn thấy ở Sơng xuất hiện chất giọng
trầm buồn, cảm thương. Nguyễn Ngọc Tư sử dụng chất giọng này trong tiểu thuyết một
phần để bộc lộ sự cảm thơng, thương xót cho số phận của các nhân vật, mặc khác cũng
là để các nhân vật tự bộc lộ cảm xúc của mình trước hồn cảnh, gắn kết những số phận
lại với nhau để cùng nhau vượt lên trên thực tại khắc nghiệt của cuộc sống. Ngoài ra,
với việc sử dụng giọng sắc lạnh, nhà văn đã góp thêm tiếng nói đa thanh vào nghệ thuật
viết tiểu thuyết của mình. Giọng giễu nhại, hài hước cũng được Nguyễn Ngọc Tư sử
dụng một cách khéo léo. Chất giọng này ngoài bề nổi là mang lại tiếng cười cho độc giả
nhưng ẩn chứa đằng sau đó là sự chất chứa nhiều giá trị nhân văn nhân bản. Cụ thể là
ngồi sự đùa cợt để giảm bớt nỗi buồn thì đó cịn là sự mỉa mai chua cay của nhà văn
đối với hiện thực cuộc đời mà con người đang tồn tại và chấp nhận sống trong. Ngoài
những nghệ thuật tiêu biểu trên thì để xây dựng thế giới nhân vật trong tác phẩm của
mình, Nguyễn Ngọc Tư cịn sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật khác như xây dựng
biểu tượng, thủ pháp huyền ảo…
7. KẾT LUẬN
Sông là sự vụn nát của những mảnh vỡ, mỗi số phận là một mảnh vỡ lăn lóc. Khát vọng
kiếm tìm mn thuở của con người trong cuộc sống nhiều bi kịch được gợi lên qua thế
giới nhân vật của tiểu thuyết Sông là thành công đáng ghi nhận của Nguyễn Ngọc Tư. Và
đáng ghi nhận nữa là sự vượt thoát khỏi những thể loại quen thuộc để làm mới mình của

nhà văn - cũng là một cách vượt lên trên những giới hạn. Sông là câu chuyện của một lớp
người trẻ hiện đại đi tìm cội nguồn và ý nghĩa tồn tại của mình ngay trên chính q
hương. Khơng hề nhắc tới chủ thuyết nhân sinh nào, nhưng với sức tưởng tượng như phù
sa của dịng sơng mẹ, tác giả đã để cho từng nhân vật trôi đi trong một thực tại đầy hư ảo
của kiếp người với ám ảnh tồn tại hay khơng tồn tại? Đó mới là vấn đề. Sơng khiến người
đọc phải chậm rãi đến với từng câu chữ của tác phẩm mới có thể cảm nhận hết được.
Nguyễn Ngọc Tư tìm tịi cái mới lạ, và dù phải nói rằng tác phẩm này chưa hẳn là tuyệt
đỉnh thành công của cô (và chắc cô là người đầu tiên nhìn nhận như thế), đây vẫn là một
cố gắng đáng ngưỡng mộ. Nguyễn Ngọc Tư đang vạch một hướng đi mới.


THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT SÔNG CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ

135

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]

Hà An (2012). Độc giả đón nhận Sông của Nguyễn Ngọc Tư,
/>Cao Việt Dũng (2012). Sông và những cuộc bỏ đi, Báo Thanh Niên.
Trần Hữu Dũng (2012). Nguyễn Ngọc Tư và Sơng, Báo Sài Gịn tiếp thị,
o/NNTu/THDung_DocSong.htm.
Nguyễn Đức Tân (2012). Con người hiện sinh trong tiểu thuyết Sơng của Nguyễn
Ngọc Tư, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP Huế.
Mai Anh Tuấn (2012). Đọc tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư – khảo về sự biến

mất, />Nguyễn Ngọc Tư (2012). Sông, NXB Trẻ.

NGUYỄN THỊ KIM HẢO
SV lớp Văn 4C, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
ĐT: 01672.124.613, Email:


 

 



×