NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG VĂN XUÔI
NGUYỄN THỊ DIỆP MAI VÀ BÍCH NGÂN
TRẦN THỊ BÍCH THẢO
Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Văn xi Nguyễn Thị Diệp Mai và Bích Ngân phản ánh những vấn đề đa
dạng trong đời sống xã hội và nhân tính con người. Nghiên cứu nghệ thuật kể
chuyện thực chất là tìm hiểu một phương diện quan trọng của thi pháp xây dựng
truyện ngắn, cung cấp một cái nhìn tồn diện và hệ thống về văn xuôi của hai nhà
văn này. Sự lựa chọn ngơi kể đã tạo nên tính độc đáo, linh hoạt trong mỗi tác
phẩm. Sử dụng ngôi kể thứ nhất, ngôi kể thứ ba, đặc biệt người kể chuyện với cái
tôi hư cấu đã tạo nên những cái tôi phong phú, sinh động. Lựa chọn ngôi kể phù
hợp đã thể hiện những quan điểm, những cách nhìn độc đáo đa chiều của hai nhà
văn nữ về hiện thực cuộc sống và khám phá thế giới nội tâm con người.
Từ khoá: văn xuôi, nghệ thuật kể chuyện, ngôi kể
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nằm trong dòng chảy chung của văn học thời đại, văn xi của Nguyễn Thị Diệp Mai và
Bích Ngân đại diện tiêu biểu cho những đổi thay và cách tân của văn học thời kỳ đổi mới.
Trong đó, việc xây dựng được những loại hình tượng người kể chuyện sinh động là một nỗ
lực đáng ghi nhận của hai nhà văn này. Để tạo nên những câu chuyện đầy sức thuyết phục,
tác giả đã vận dụng hết sức linh hoạt các hình thức tự sự để xây dựng nên nghệ thuật kể
chuyện đa dạng. Việc tìm hiểu nghệ thuật kể chuyện trong văn xi của Diệp Mai và Bích
Ngân giúp chúng ta xác định sâu sắc hơn vai trò của cấu trúc trần thuật trong việc làm nổi
bật giá trị tư tưởng và nghệ thuật của các tác phẩm.
2. KỂ CHUYỆN NGÔI THỨ NHẤT VỚI CÁI TÔI TRẢI NGHIỆM
Tự sự học là hệ thống lý thuyết có nội hàm nghiên cứu sâu rộng, bao gồm nhều thành phần
của nghệ thuật tự sự. Trong đó, nghệ thuật kể chuyện là một yếu tố trọng yếu có khả năng chi
phối đến việc tổ chức cấu trúc tác phẩm. Đối với mỗi nhà văn, việc lựa chọn ngôi kể đối với
tác phẩm của mình là vấn đề rất quan trọng. Bởi vì, người kể chuyện thể hiện cách nhìn, cách
đánh giá về con người, về cuộc sống của các nhà văn.
Hình thức tự sự ngôi thứ nhất ở các truyện ngắn này khá đa dạng. Sử dụng ngôi kể thứ nhất để
trần thuật giúp nhà văn đi sâu vào thế giới nội tâm của từng nhân vật. Với ngôi kể thứ nhất,
người kể chuyện không những miêu tả được các biến cố, sự kiện của tác phẩm mà còn cho
phép nhà văn đi sâu vào thế giới bên trong của nhân vật. Người kể chuyện vừa là người kể lại
câu chuyện vừa đóng vai trò là một nhân vật trong tác phẩm, bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm
mang tính chủ quan.
Khảo sát văn xi Diệp Mai và Bích Ngân, chúng tơi thấy rằng mỗi nhà văn có một sở trường
khác nhau khi chọn ngơi kể thứ nhất và đằng sau đó có bóng dáng của những trải nghiệm và
cá tính của riêng họ. Mỗi câu chuyện là một số phận khác nhau, tính cách khác nhau, do vậy
thế giới nội tâm của từng nhân vật cũng khác nhau. Việc sử dụng ngôi kể thứ nhất làm cho tác
phẩm của họ dễ dàng hơn trong việc khám phá chiều sâu thế giới nội tâm của nhân vật và nó
phù hợp với nhu cầu giãi bày, tự kể chuyện của các nhà văn nữ.
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sau Đại học lần thứ hai
Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 10/2014: tr. 305-311
306
TRẦN THỊ BÍCH THẢO
Người kể chuyện ngơi thứ nhất trong sáng tác của nhà văn Bích Ngân khá nhiều, đó là những
cái tơi mong muốn tự kể về mình với mong muốn được giãi bày. Trong truyện ngắn Biển,
bình minh và đôi lứa, nhân vật tôi đã tự bộc bạch nỗi lịng của mình, đó cũng là tâm sự
chung của những người phụ nữ hiện đại. Tình duyên đến muộn màng nhưng khơng vì như thế
mà họ sẵn sàng chấp nhận một cuộc hôn nhân khi họ cảm nhận được sự chênh vênh trong
lòng. “Sinh nhật lần thứ ba mươi tôi nhận lời cầu hôn. Ba mươi là tuổi bước đến một cái vạch
có sắc màu chói mắt khiến tơi khựng lại. Tơi chùng chình rồi chợt nhận ra là mình khơng thể
đi tiếp cuộc hành trình trong đơn độc. Tuy nhiên, đó chưa phải là lý do khiến tơi nhận lời khi
anh nói cầu hơn mà chính là anh, người đàn ông tôi sẽ lấy làm chồng. Không đẹp trai, không
ga lăng, không thề thốt: “Anh chỉ yêu em”, cũng không hứa hẹn rằng anh sẽ bao bọc tôi suốt
đời; nhưng tôi thấy ở anh sự vững chãi của một người có thể làm trụ cột gia đình” [1, tr. 81].
Họ có những phút yếu đuối, cần một nơi vững chãi để nương tựa nhưng khơng vì thế mà họ
nhắm mắt để quyết định vội vàng. Họ luôn thể hiện bản lĩnh để vượt qua và tìm con đường
hạnh phúc cho riêng mình.
Truyện ngắn Hai chấm sao xa đem đến cái tôi đầy trăn trở của một người phụ nữ trên con
đường kiếm tìm hạnh phúc của mình. Hạnh phúc ngỡ là trong tay nhưng cô luôn cảm thấy có
gì đó chơng chênh khi những mặc cảm trong cơ cứ giằng xé. “Lẽ ra tơi đang cuộn trịn trong
vịng tay Huy. Lẽ ra tim tôi đầy ắp Huy. Lẽ ra trong đầu tơi khơng cịn lướng vướng những
câu hỏi và lơ lửng lời đáp. Và lẽ ra tôi phải lắng nghe những lời đáp thẳng thừng, rằng tôi
đang tự lừa dối tơi. Tơi bay ra với Huy vì tơi chạy trốn sự cô quạnh. Tôi muốn làm vợ Huy vì
tơi khơng muốn tiếp tục chống chọi với cuộc sống đơn chiếc của mình” [4, tr. 98]. “Tơi” ln
khao khát một sự đồng điệu với người đàn ông cô quyết định làm chồng mình, nhưng điều đó
ln là q xa vời.
Đó cịn là câu chuyện cảm động khi nhân vật “tơi” chứng kiến về bà nội của mình rịng rã
suốt mấy năm trời tìm hài cốt của đứa con gái hi sinh trong chiến tranh. Mỗi lần được gọi lên
để xác nhận hài cốt nhưng rồi lại thất vọng trở về càng khứa sâu nỗi đau của bà nội. Cùng
cảnh ngộ với bà nội là một người mẹ nữa giành quyền hương khói cho bộ hài cốt mà bà đinh
ninh rằng đó là của con gái bà nhưng lại khơng phải. Truyện Con chung gợi cho người đọc
những ám ảnh về những nỗi đau tấm lòng vĩ đại của những bà mẹ, những mất mát về tinh thần
khi những đứa con hi sinh khơng tìm được hài cốt khiến lịng mẹ như lửa đốt. Hiểu được điều
đó nên họ đồng cảm được với nhau và đùm bọc nhau cùng vượt qua đau thương.
Nhà văn Diệp Mai đã thể hiện thành cơng ngơi kể thứ nhất trong truyện ngắn của mình. Dưới
dạng kể chuyện mang tính tự thuật, chân dung nhân vật hiện lên một cách chân thực và rõ nét,
mang tính chủ quan của nhân vật đồng thời đảm bảo độ chính xác và tin cậy. Xưng “tơi” để kể
về câu chuyện của mình hoặc câu chuyện của một người khác nhưng với tư cách là vai chứng
nhân, người kể chuyện có điều kiện bày tỏ thái độ, tình cảm và quan niệm sống của mình.
Với truyện Dã Quỳ dị mộng, nhà văn đã để cho nhân vật xưng tôi kể về cảm xúc thật của
mình. “Tơi” - Dã Quỳ, nói về cảm xúc thật của cơ khi u một người nhưng lại chấp nhận làm
vợ người kia, cô muốn chạy trốn cảm xúc của mình nhưng trái tim khơng tn theo. “Vì sợ
trái tim bất trị bay mất, tơi vội vã nhận lời làm vợ Hồng. Tơi chạy trốn nỗi khát khao được
gặp lại anh, được làm người đàn bà của anh. Tơi chạy trốn bằng cách biến mình thành người
của công việc cho sự nghiệp, thành đàn bà cho gia đình, thành người vợ ngoan của Hồng,
thành người mẹ mẫu mực của con trai và thành osin cho chính mình” [3, tr. 12].
Trong truyện Những ả váy ngắn, nhà văn Diệp Mai lựa chọn ngôi kể thứ nhất, trao quyền
giới thiệu cho các nhân vật tôi. Câu chuyện được kể lại với cái tơi đóng vai trị chính trong
truyện, sử dụng trần thuật ngôi thứ nhất giúp cho nhân vật thoải mái kể về mình từ góc nhìn
NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THỊ DIỆP MAI VÀ BÍCH NGÂN
307
bên trong. Bốn nhân vật là bốn cái tơi cùng giới thiệu về mình và những biến cố của câu
chuyện đó được kể lại bởi cái tơi mang chức năng kết nối câu chuyện.
Ngôi kể thứ nhất trong Ngộ nhận vẫn là thiên đường đã bộc lộ chiều sâu nội tâm bên trong
của nhân vật. Cô gái kể quá khứ mà cô đã trải qua và cả hiện tại, về những mối tình mà cơ chỉ
là người tình mà người đàn ơng đó xem như qua đường. Để khi gặp gỡ một người mới thì
những ám ảnh về quá khứ khiến cô không thể tiếp tục yêu. “Tơi giải thích với anh sao đây.
Giải thích rằng bác sĩ nói tại tơi tự làm tổn thương mình nếu gặp lại bất cứ thứ hình ảnh nào
gợi lại ký ức về người ấy. Tại vì anh hỏi quá nhiều câu ngày xưa người ấy đã nói. Tại anh ghì
chặt tôi như người ấy đã từng làm. Tại tôi tự làm mình đau khi khơng thể tin anh thật lịng
u vì tơi là tơi chứ khơng phải là một người vui vội qua đường. Tại tôi không thể vượt qua
bản thân mình… Và tại một ngàn lý do khiến tơi không thể mở miệng trả lời được” [3, tr. 99].
Sự kết hợp nhiều hình thức tự sự đa dạng đã đem lại cho tác phẩm cái nhìn đa chiều hấp dẫn,
đồng thời mở rộng tầm khái quát hiện thực của truyện ngắn. Tự sự ngôi thứ nhất giúp người
kể chuyện thể hiện được tính cá thể cao trong lời kể, người kể chuyện có khả năng bộc lộ
chiều sâu trong nhận thức và thể hiện sâu sắc quá trình tự vấn của bản thân. Ở ngôi kể thứ
nhất với điểm nhìn bên trong khám phá thế giới nội tâm nhân vật, văn xi của Diệp Mai và
Bích Ngân đã phát huy tối đa khả năng khám phá chiều sâu bản thể con người, khám phá
những gì thiêng liêng, cao cả nhất trong mỗi con người.
3. KỂ CHUYỆN NGÔI THỨ NHẤT VỚI CÁI TÔI HƯ CẤU
Văn học nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống nhưng khơng sao chép, mang tính sáng tạo. Từ
những chất liệu thực tế, nghệ sĩ tổ chức, nhào nặn, tạo ra những hình tượng nghệ thuật sinh
động, rõ nét và điển hình hơn, tuỳ thuộc chủ đề của tác phẩm. Hư cấu chính là phương thức
xây dựng hình tượng điển hình qua việc sáng tạo ra những giá trị mới, những yếu tố mới như:
sự kiện, cảnh vật, nhân vật trong một tác phẩm theo sự tưởng tượng của tác giả. Đây là một
yếu tố không thể thiếu của sáng tác văn học nghệ thuật.
Không lựa chọn cái tôi hư cấu phong phú về nhân vật như các nhà văn khác, qua khảo sát văn
xi của Bích Ngân, chúng tôi thấy rằng nhà văn sử dụng nghệ thuật hư cấu đa số là các nhân
vật nam giới, chứng kiến hoặc trải nghiệm câu chuyện. Qua cái tôi nam giới, câu chuyện Ẩn
hiện trong mưa được kể cảm động với những biến cố thực trong cuộc sống nhưng không
phải người đàn ông nào cũng bộc bạch ra được. Chính điều đó tạo nên cho người đọc những
bất ngờ và sự đồng cảm với nhân vật. Đó là câu chuyện về người vợ bị những nỗi sợ hãi ám
ảnh khi phải từ bỏ đứa con chưa thành hình của mình, cảm xúc của “tơi” khi bị người vợ giấu
giếm uống thuốc ngủ khi mang thai. “Tôi hết sức bất ngờ vì quả thật tơi khơng rõ ràng nàng
dùng thuốc khi nào, bởi chưa lần nào tơi nhìn thấy nàng bỏ viên thuốc vào miệng và cũng
chưa nghe nàng ca cẩm về chứng khó ngủ…” [5, tr. 141]. Những cố gắng an ủi động viên
người vợ cũng khơng có kết quả tốt mà tình trạng người vợ càng thêm tồi tệ và người chồng
càng thấy rõ khoảng cách giữa hai người.
Cõi riêng là câu chuyện viết về những xúc cảm của một người đàn ơng, những xáo động
trong gia đình vì cõi riêng của mỗi người đã thực sự làm đổ vỡ hạnh phúc. Những dòng văn
thấm đẫm cảm xúc đau xót của nhân vật tơi thực sự đã chạm tới tâm hồn bạn đọc. “Vẫn đưa
mắt ra khung của sổ, nàng tìm kiếm mải miết trong bóng tối lễnh lỗng của đêm. Cái nhìn
chăm chú xa xăm ấy của nàng làm tôi đau hơn bất kỳ thái độ cuồng nộ, gây gổ đôi khi xấc
xược, tàn nhẫn của nàng dành cho tôi, riêng tôi - chồng nàng” [6, tr. 107]. Không muốn làm
khổ cho cả hai, “tôi” tự nguyện ra đi dù trong lịng xót xa khơn cùng.
308
TRẦN THỊ BÍCH THẢO
Câu chuyện là một cái nhìn tinh tế và sâu sắc của nhà văn trong việc đi sâu vào thế giới nội
tâm của nam giới. Không chỉ những người phụ nữ mới là những người phải chịu những đau
khổ trong tâm hồn mà những người đàn ông từ trong sâu thẳm tâm hồn, sự đổ vỡ hôn nhân là
điều họ không muốn nhưng cũng không thể tránh được.
Trong tiểu thuyết Thế giới xô lệch, mượn môt cái tôi hư cấu nhưng thực sự nhà văn đã cho
người đọc thấy được sự gị cơng xây dựng một nhân vật tơi nam giới nhạy cảm, tinh tế với cái
nhìn sâu sắc về cuộc sống. Bước ra từ cuộc chiến tranh với hình hài thiếu mất đơi chân, anh
khơng thể đảm đương được những cơng việc bình thường. Tuy mặc cảm tự ti nhưng anh ta
khơng đánh mất mình, ln khao khát sống có ích và khao khát giao cảm yêu thương. Những
trăn trở trong suy nghĩ khiến nhân vật tơi ln tự cật vấn mình. “Và khi cái ranh giới giữa
ngày và đêm mất đi, thì đâu đó trong sâu thẳm tôi, cứ cồn cào câu xé cái dự cảm bất an. Bất
an phập phồng câu hỏi, liệu tôi một người chồng thiếu mất đơi chân, có thể đem lại hạnh
phúc cho một trinh nữ có cái bóng bơ vơ?” [7, tr. 174].
Nhà văn Diệp Mai đã rất tinh tế khi xây dựng kiểu nhân vật với cái tôi hư cấu là nam giới.
Với tấm lòng bao dung đồng cảm với những nỗi xót xa đối với những người phụ nữ bị phụ
bạc, nhà văn đã để cho sự đồng cảm yêu thương chân thành từ một người đàn ông, một người
quan trọng mà người phụ nữ cần sẻ chia trong lúc đớn đau nhất. Trong Lấy tay che mặt, cái
tôi nam giới bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình: “Xun khơng thích nhìn mặt tơi lúc
u đương. Cái khơng thích đó khiến tơi ln sống trong cảm giác: Xuyên không yêu tôi. Cảm
giác ấy làm tôi đau khổ một thì chuyện Xuyên rất sẵn sàng khơi dậy và chà đạp những gã đàn
ông bám theo, trong số đó khơng biết có tơi hay khơng, làm tơi đau khổ gấp mười, gấp trăm
lần. Trời ạ, tôi không thể nào rời bỏ Xuyên. Tôi yêu như khùng, như điên” [3, tr. 104].
Trong Dã Quỳ dị mộng, nhà văn Diệp Mai đã thể hiện thành công kiểu trần thuật xưng tôi,
gợi suy nghĩ của nhân vật. Mỗi nhân vật đều được nhà văn mổ xẻ những suy nghĩ giấu kín
trong lịng. Khi đọc tác phẩm này, ta thấy mỗi nhân vật đều giữ những hồi nghi của riêng
mình, nhà văn bằng mạch câu chuyện đã giải đáp những thắc mắc cho người đọc thấy được
những tình cảm của nhân vật. “Tơi - Cơn Lốc” với tình u dành cho Dã Quỳ: “Khơng cịn gì
hối tiếc nếu ra đi trừ tình yêu của Dã Quỳ. Phải làm sao để lại cho em một niềm tin là tôi yêu
em, thật sự yêu. Chứng minh thế nào để Dã Quỳ hiểu tình yêu ấy đây? Dã Quỳ còn cả nửa
đoạn đời phải đi tiếp. Em chỉ có thể đi tiếp khi tin rằng dù tơi mất đi thì tình u vẫn cịn và
có người khác vẫn tiếp tục yêu em” [3, tr. 18]. Và “Tơi - Hồng” một người đàn ơng có tình
u cao thượng và lịng vị tha. Với những dịng bộc bạch, nhà văn cho người đọc thấy được
cảm xúc đau đớn của Hoàng khi quyết định để cho vợ mình đến bên người đàn ơng của cơ ấy,
người đàn ông sắp từ giã cõi đời này.
Gần gũi với cuộc sống, văn xi Diệp Mai và Bích Ngân là những góc quay vừa cay đắng,
vừa ngọt ngào về tình u và về tình người. Khơng xa lạ cũng khơng q cao sang, những câu
chuyện của họ là những lát cắt của cuộc sống đang bề bộn diễn ra trước mắt. Đừng suy nghĩ
và cố kiếm tìm bóng dáng của người nào đó trong văn xi của họ bởi người kể chuyện xưng
tơi ấy khơng phải là ai đó cụ thể mà chỉ là một bản mẫu được nhào nặn bởi bao số phận, bao
con người mà nhà văn đã từng gặp trong cuộc sống.
4. KỂ CHUYỆN NGÔI THỨ BA VÀ KHẢ NĂNG CHIẾM LĨNH HIỆN THỰC
Nếu như người kể chuyện ở ngôi thứ nhất được xuất hiện trực tiếp xưng “tơi” hoặc “chúng
tơi” thì đối lập lại ở ngơi kể thứ ba, người kể chuyện không được biểu thị trực tiếp bằng đại từ
mà được gọi bằng người kể chuyện hàm ẩn và ln được cụ thể hố bằng tên riêng. Kể
chuyện thứ ba là ngôi kể rất phổ biến trong văn học truyền thống, nó có lợi thế vươn xa và
phản ánh mọi vấn đề của hiện thực của đời sống, thường mang tính khách quan bởi nó để cho
NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THỊ DIỆP MAI VÀ BÍCH NGÂN
309
nhân vật tự thể hiện. Trong giao tiếp, người kể chuyện ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai có thể
trao đổi vị trí truyền phát và nhận thơng tin cho nhau nhưng ngơi kể thứ ba thì khơng thể ở
một trong hai vị trí đó vì bản thân nó là một biến cố nên nó khơng thể tự kể lể về mình. Người
kể chuyện ngơi thứ ba luôn được giấu mặt, đứng đằng sau văn bản để kể lại câu chuyện. Nó
đẩy nhân vật ra trước độc giả, vì thế khơng thấy xuất hiện người kể chuyện mà chỉ thấy hành
động bằng hiện thực.
Với kiểu trần thuật ngôi thứ ba, câu chuyện được kể lại bởi một người không phải là nhân vật
trong truyện, người trần thuật nằm ngoài những biến cố, sự kiện của câu chuyện mà được nó kể
lại. Đây là kiểu trần thuật dấu mặt, không công khai, không lộ diện. Trong truyện Bốn nữ ký
giả, người kể chuyện không trực tiếp xuất hiện trong tác phẩm mà đứng bên ngoài thế giới nhân
vật. Khơng theo điểm nhìn của nhân vật mà người kể chuyện kể theo điểm nhìn của chính mình,
những điều mình thấy và cảm nhận được. Những biến cố trong câu chuyện bắt đầu khi An được
bổ nhiệm làm người chịu trách nhiệm cao nhất ở một toà soạn đến những thành cơng cơ mang
lại cho tồ soạn. “An nhìn khung chỉ ngày trên máy tính. Hơm nay đúng ba năm cơ về tồ soạn.
Vất vả khỏi phải nói. Tồ soạn giờ đâu vào nếp nấy. Tờ báo ngày càng được nhiều người hoan
nghênh. Số lượng phát hành tăng gấp đôi, bán được cả ra ngoài tỉnh” [2, tr. 219].
Người kể chuyện ẩn giấu đằng sau văn bản, đứng ngoài hiện thực câu chuyện để kể, bởi vậy
lời kể trong chuyện không mang giọng chủ quan của nhân vật. Người kể chuyện nằm hoàn
toàn ngoài những biến cố, sự kiện của câu chuyện mà nó kể lại, điều này có ưu thế rất lớn cho
nhà văn trong việc phản ánh hiện thực một cách khách quan. Không bị hạn chế bởi tầm nhìn
của nhân vật, với sự lựa chọn ngơi kể thứ ba này nhà văn đã phản ánh hiện thực của đời sống
và khả năng biểu hiện con người độc đáo.
Sử dụng ngôi kể thứ ba, nhà văn trao quyền kể chuyện cho các nhân vật được tự do kể về mình,
về những điều được chứng kiến. Trong văn xi Bích Ngân, người đọc có thể thấy được đằng
sau các nhân vật luôn ẩn giấu bên trong là những câu chuyện cuộc đời, những trải nghiệm của
nhà văn. Người đọc thường bắt gặp trong sáng tác của nhà văn Bích Ngân thế giới riêng chỉ có
mẹ và con. Thấp thống trong một số tác phẩm của Bích Ngân là những nhân vật mang bóng
dáng của chị. Như Thuỳ trongLong lanh ký ức là một người phụ nữ “ương bướng, dễ bốc
đồng, muốn làm cái gì là làm bằng được, bất chấp lời khuyên, bất chấp những hậu quả nhãn
tiền. Ngay cả việc hệ trọng là chọn bạn đời, Thuỳ cũng hành động theo thói đồng bóng thời
thượng là lấy người đàn ơng có cái phong thái phớt đời và bộ ria giống bộ ria của Rhett trong
phim Cuốn theo chiều gió mà khơng nhận ra mình khơng phải là Scarlet và ngay cả người tài
sắc mạnh mẽ như Scarlet cũng đã khơng giữ được người mình u” [5, tr. 60].
Khơng chấp nhận được cuộc sống đơn điệu, cô chị trong Thế giới xơ lệch đã từ bỏ gia đình
để đi theo tiếng gọi của trái tim mà chị cho rằng đó là hạnh phúc để rồi kết cục nhận được vẫn
là sự cơ đơn, xót xa. “Mái tóc dày đen của hắn vuốt ngược ra sau, khoe cái đuôi rùa chỗ chân
tóc. Hắn có một bộ ria của anh rể tôi, bộ ria của Rhett Butler trong bộ tiểu thuyết Cuốn theo
chiều gió mà chị tơi mê mẩn. Và một đơi mắt nhìn thẳng. Hắn nhìn tơi nhưng ánh mắt ấy
khơng phải cho tơi. Có lẽ chị tơi đã mê hoặc và bị nhấn chìm bởi ánh mắt thăm thẳm như mặt
hồ đêm của hắn” [7, tr. 21].
Tuy đứng ngoài kể lại những câu chuyện nhưng ngôi kể thứ ba đã có được cái nhìn bao qt
tồn bộ câu chuyện và có thể hiểu thấu đáo trước mọi diễn biến. Ngơi kể này thể hiện được
nội tâm xót xa của những người phụ nữ bất hạnh, phản ánh lại hiện thực và những sự việc
đang xảy ra trong tác phẩm một cách khách quan nhất. Đó là những góc riêng của mẹ và con
không ai được phép xâm phạm trong Long lanh ký ức, Hạnh trong Cái rùng mình của vũ
TRẦN THỊ BÍCH THẢO
310
trụ hay những cảnh ngộ xót xa của những cô gái như Thi trong Bồng bềnh thiên sứ, Th
trong Biển khơng có hoa hồng, Thư trong Phế tích,… và Lam trong Kẻ tống tình…
Sử dụng ngơi kể thứ ba, nhà văn đã tái hiện thành công được gương mặt q khứ từ góc nhìn
hiện tại, hiện thực cuộc sống và số phận con người hiện lên với đầy đủ vẻ vốn có của nó.
Chiến trong truyện Những chiếc lơng cị dù được người vợ đánh bóng về lí lịch và ngoại hình
nhưng từ trong sâu thẳm anh cũng khơng bao giờ qn được q khứ của mình, và nhất là khi
đứa con riêng tìm đến anh. Hay Hiếu trong Trăng vỡ cũng không thể quên được việc làm tàn
nhẫn của anh đối với con Phèn, để rồi chuyện đó cứ ám ảnh mãi đến cuộc sống của anh, muốn
trốn tránh nhưng lại càng nhớ về nó. “Gió, dường như khơng cịn là tiếng gió dặt dìu. Sóng,
dường như khơng cịn là những con sóng mơn man. Chúng hoà điệu. chúng hú lên từng tràng,
từng tràng. Mặt biển dưới ánh trăng chỉ cịn là những mảnh vỡ. Vơ số những mảnh vỡ. Ánh
trăng nhễ nhại, thịt da nhễ nhại, chuỗi chuỗi mê đắm… rùng rùng bục vỡ, từng tràng âm
thanh rờn rợn. Những tiếng tru dài….” [5, tr. 48].
Trao quyền kể lại câu chuyện cho nhân vật, tác giả hàm ẩn không xâm nhập hay can thiệp vào
câu chuyện để mặc các sự kiện của câu chuyện trải ra theo tự nhiên. Câu chuyện được bộc lộ
khách quan và thế giới nội tâm nhân vật được bộc lộ rõ nét hơn. Lựa chọn ngôi kể thứ ba, nhà
văn đã cho người đọc có một cái nhìn khách quan về những sự việc diễn ra, tạo nên một sự
độc đáo cho những xúc cảm của các nhân vật trong tác phẩm được tuôn trào.
5. KẾT LUẬN
Sự tương tác, đối thoại giữa những ý thức chủ thể độc lập góp phần tạo nên tiếng nói đa
thanh, đa giọng điệu trong tác phẩm. Sự lựa chọn ngôi kể đã tạo nên tính độc đáo, linh hoạt
trong mỗi tác phẩm của Nguyễn Thị Diệp Mai và Bích Ngân. Sử dụng ngơi thứ nhất, tác
phẩm đã soi rọi vào tận đáy tâm hồn nhân vật để nhân vật tự bộc lộ nội tâm của mình. Ngơi
thứ ba tạo nên cái nhìn khách quan về những sự việc diễn ra, thể hiện được những xúc cảm
của nhân vật. Đặc biệt với sự tưởng tượng, hư cấu đã tạo nên những cái tôi phong phú, sinh
động. Lựa chọn ngôi kể phù hợp đã thể hiện những quan điểm, những cách nhìn độc đáo đa
chiều của hai nhà văn về hiện thực cuộc sống và khám phá thế giới nội tâm của con người.
Thông qua nghệ thuật kể chuyện, Nguyễn Thị Diệp Mai và Bích Ngân đã thể hiện những
quan niệm sâu sắc của mình về bản chất của đời sống xã hội hiện tại. Mỗi tác phẩm đều chứa
đựng những vấn đề triết lý sâu sắc có khả năng lay động suy nghĩ và cảm xúc của người đọc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
Nguyễn Danh Lam - Bích Ngân - Phan Hồn Nhiên - Trần Nhã Thụy (2012). Say sóng (20
truyện ngắn mới nhất), NXB Văn hố - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Diệp Mai, Huệ Minh, Thái Lê (2007) (Tuyển chọn và giới thiệu). Truyện ngắn ba tác giả
nữ, NXB Công an nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Diệp Mai (2010). Ngộ nhận vẫn là thiên đường, NXB Phụ nữ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Trịnh Bích Ngân (2011). Người đàn bà bơi trên sóng (tập truyện ngắn), NXB Văn hoá Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trịnh Bích Ngân (2009). Làn gió hơm qua (tập truyện ngắn), NXB Văn nghệ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Trịnh Bích Ngân (2012). Bồng bềnh thiên sứ (tập truyện ngắn), NXB Văn học, Hà Nội.
Trịnh Bích Ngân (2009). Thế giới xô lệch, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG VĂN XUÔI NGUYỄN THỊ DIỆP MAI VÀ BÍCH NGÂN
311
Title: THE ART OF NARRATIVE IN PROSE OF NGUYEN THI DIEP MAI AND BICH NGAN
Abstract: The Proses of Nguyen Thi Diep Mai and Bich Ngan reflect various issues in social life and
man humanity. Actually, the research of narrative art is learning about a crucial aspect of building
poetics of short stories, providing a comprehensive and systematic view about these two writers’ prose.
The choice of grammatical person has created originality, versatility in every work. The use of first
person, second person, third person, especially the storyteller with fictional ego has created vivid and
various grammatical person. Choosing suitable grammatical person has shown the points of view, the
unique multi-dimensional view of two women writers of realistic life and discover one's inner world.
Keywords: prose, narrative art, person
TRẦN THỊ BÍCH THẢO
Học viên Cao học, chuyên ngành Văn học Việt Nam, khóa 21 (2012-2014), Trường Đại học Sư phạm
– Đại học Huế
ĐT: 0915 804 306 , Email: