Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Ẩn dụ ý niệm về từ chỉ động vật trong tiếng Trung và tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.56 KB, 5 trang )

TỪ ĐIỂN HỌC & BÁCH KHOA THƯ, SỐ 1 (69), 1-2021

49

ẨN DỤ Ý NIỆM VỀ TỪ CHỈ ĐỘNG VẬT
TRONG TIẾNG TRUNG VÀ TIẾNG VIỆT

NGUYỄN THỊ LÊ * - NGUYỄN THU TRÀ **

Tóm tắt: Theo lý luận của ngơn ngữ tri nhận thì bản
chất của ẩn dụ tri nhận là ẩn dụ ánh xạ qua các miền ý
niệm: miền nguồn và miền đích. Sự ánh xạ khơng
phải võ đốn, mà có cơ sở trong con người, trong
kinh nghiệm sống hàng ngày và trong tri thức của con
người. Cùng nằm trong một khơng gian văn hóa,
Trung Quốc và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng
trong phương thức sinh hoạt, phương thức tư duy và
đặc điểm tâm lý. Vì vậy, các đặc điểm tri nhận với
cùng một sự vật hiện tượng của hai dân tộc cũng có
nhiều điểm giống nhau. Lý luận này một lần nữa
được củng cố vững chắc hơn thông qua ngữ liệu,
miêu tả, phân tích từ chỉ con vật dưới con mắt của
người Trung Quốc và Việt Nam có nhiều điểm tương
đồng và khác biệt.
Từ khóa: Từ chỉ động vật, ẩn dụ ý niệm, Trung - Việt.
Abstract: According to the theory of cognitive
linguistics, the essence of cognitive metaphor is a
metaphor mapping across conceptual domains: source,
and target domains. The mapping is not arbitrary but
based on human beings, everyday life experiences,
and human knowledge. Sharing the same cultural


space, China and Vietnam have many similarities in
modes of living, thinking, and psychological
characteristics. Therefore, the cognitive characteristics
with the same thing, and phenomenon of the two
countries also have many similarities. The theory is
once again supported with the linguistic data, the
description, and analysis of words indicating animals
in the eyes of Chinese and Vietnamese that have many
similarities and differences.
Keywords: Words indicating animals, conteptual
metaphor, Chinese-Vietnamese.

Trong lịch sử tri nhận có lẽ người đầu tiên
coi ẩn dụ là công cụ tri nhận đó là Black (1998)

nghĩa là nó khơng phải chỉ là một phương cách
biểu thị các tư tưởng bằng ngôn ngữ mà còn là
một phương cách để tư duy về các sự vật. Ẩn
dụ ý niệm (conceptual metaphor): Là ẩn dụ dựa
trên kinh nghiệm của con người đối với thế
giới, trong đó một miền (thơng thường là miền
cụ thể) được áp dụng để hiểu một miền khác
(thông thường là miền trừu tượng hơn), miền
thứ nhất được gọi là miền nguồn (source
domain) và miền sau gọi là miền đích (target
domain).
Ẩn dụ vừa là một loại hành vi ngôn ngữ,
cũng lại là một loại hành vi tri nhận đồng thời
cũng lại là một hành vi văn hóa. Nếu chúng ta
khơng suy nghĩ đến ảnh hưởng của nhân tố văn

hóa sẽ khó có thể giải thích hai sự việc khác
nhau làm thế nào có thể liên hệ trong quan niệm
của người, cũng khơng thể giải thích được con
người cảm nhận cơ chế sâu sắc của ẩn dụ.
Bài viết chủ yếu phân tích ẩn dụ ý niệm về
các từ chỉ động vật trong tiếng Trung và tiếng
Việt xuất hiện ở từ vựng và câu, tiến hành
nghiên cứu sâu thêm cơ chế tri nhận ẩn dụ,
nhấn mạnh sự xuất hiện của ẩn dụ là đến từ trải
nghiệm của con người, môi trường sống của
con người, phương thức tư duy của con người,
truyền thống văn hóa của con người. Sự giải
thích của con người đối với các hình tượng
trừu tượng, hầu hết là được gắn liền với con
vật. Những thứ đó là quan hệ ánh xạ của hai
miền ý niệm: miền nguồn và miền đích. Chẳng

* TS - Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội; Email:
** TS - Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.


50

NHỮNG VẤN ĐỀ TỪ ĐIỂN HỌC

hạn, các miền nguồn và miền đích được Lakoff
và Johnson (1980): “Đời là một chuyến đi, tình
yêu là một chuyến đi,... và các ẩn dụ ý niệm
này được thể hiện qua các biểu thức ẩn dụ”.


trong tiếng Việt và tiếng Trung có một phần ý
nghĩa biểu trưng, liên tưởng giống và khác
nhau. Dưới đây tôi xin khảo sát một số tên động
vật thường gặp, có ý nghĩa biểu trưng cao nhất.

Còn các từ chỉ động vật trong bài viết này
thì có:

Hình tượng con vật trong lĩnh vực đời sống
văn hóa của người Việt qua so sánh với những
biểu tượng và ý nghĩa của các con vật trong
truyền thống văn hóa Trung Hoa chúng tơi
nhận thấy, người Việt có những cách nhìn rất
hiện thực và sinh động về từng con vật, và như
một quy luật phổ biến đối với đời sống văn hóa
(nhất là những lĩnh vực văn học nghệ thuật),
những con vật thân quen đã trở những biểu
tượng đa dạng đa nghĩa để người Việt khai thác
và sử dụng. Từ đó đúc kết thành những hình
ảnh mang tính triết lý, hình tượng cũng rất sinh
động, gần gũi để làm đẹp cho kho tàng văn hóa
nghệ thuật cũng như cho mối ứng xử của mình.
Chính với những sáng tạo rất thực tiễn người
Việt đã làm phong phú thêm cho một trong
những nét văn hóa đặc thù văn hóa phương
Đơng. Nghiên cứu đối chiếu giữa văn hóa
Trung Quốc chúng tơi thấy có một độ khúc xạ
làm cho biểu tượng con vật của Trung Hoa bị
biến dạng và người Việt đã ký gửi vào đấy
những quan niệm của mình, ví dụ như văn hóa

của người Trung Ngun rất coi trọng con
ngựa, với tâm lý suy tơn “vó ngựa trường
chinh”, nên con ngựa được xem như biểu
tưởng của chiến tranh. “Ngựa” có một địa vị
rất cao trong văn hóa Trung Quốc “Ngựa” là
biểu tượng của những người dân du mục.
“Ngựa” là biểu tượng của sự hiếu chiến và
dũng cảm trong tiếng Trung Quốc. “Ngựa” còn
là biểu tượng của “khả năng, hiền thục, tài
năng, công thành danh toại”, người xưa thường
ví nhân tài với “千里马” “thiên lí ngựa”. Vì
vậy, “con ngựa” có ảnh hưởng sâu sắc đến văn
hóa và phong tục của Trung Quốc. Khi nhắc
đến “ngựa”, người ta thường nghĩ đến những
thành ngữ như “马不停蹄”,“万马奔腾”,“马到成
功”,“ngựa phi không ngừng”, “ngựa phi nước
đại vạn người mê”, “ngựa vươn tới thành
cơng”. Cịn người Việt, cư dân lúa nước đi lại
bằng thuyền, đánh nhau bằng những “thớt voi”

Ví dụ: miền nguồn: ong bướm
miền đích: lăng nhăng trong tình u, khơng
chung thủy
Nghiên cứu hàm nghĩa văn hóa trong từ
vựng chỉ động vật là một lĩnh vực chưa được
đào sâu nghiên cứu, song với nhu cầu tìm hiểu
về bản sắc văn hóa dân tộc, nhu cầu giao lưu
văn hóa ngơn ngữ và nhu cầu học ngoại ngữ
trong thời đại hội nhập tồn cầu hóa hiện nay,
nghiên cứu hàm nghĩa văn hóa trong ngơn ngữ

trở thành nhiệm vụ quan trọng.
Hàm nghĩa văn hóa thường xuất hiện nhiều
nhất ở lớp từ vựng chỉ tên gọi động vật, hơn
nữa các từ vựng này rất hàm súc về mặt ngữ
nghĩa, đồng thời có sự biến đổi ngữ nghĩa rất
phong phú trong lời nói. Trong bài viết này,
chúng tơi chọn một số từ trong lớp từ vựng chỉ
tên gọi động vật thân thuộc gắn bó trong với
cuộc sống của người Việt Nam từ lâu đời để
phân tích, so sánh hàm nghĩa văn hóa của
nhóm từ này trong hai ngơn ngữ Việt và Trung.
Thơng qua phân tích so sánh thấy được quá
trình giao thoa, ảnh hưởng giống nhau và khác
nhau trong quan niệm, sự liên tưởng ngôn ngữ
giữa Việt Nam và người Trung Quốc.
Chúng ta đều biết Việt Nam và Trung Quốc
là hai nước có phong tục tập quán, bối cảnh
lịch sử, hồn cảnh địa lý, tín ngưỡng tơn giáo
và phương thức tư duy tương đối giống nhau.
Hơn nữa, người Việt mượn rất nhiều từ gốc
Hán của người Trung Quốc, khi vay mượn từ
vựng, người Việt đồng thời mượn luôn hàm
nghĩa văn hóa có trong từ vựng đó. Tuy nhiên,
người Việt, bên cạnh mượn ý nghĩa Hán, lại bổ
sung thêm vào những quan niệm, tư tưởng thể
hiện bản sắc văn hóa của mình. Những điều
này dẫn đến có rất nhiều từ là tên động vật


TỪ ĐIỂN HỌC & BÁCH KHOA THƯ, SỐ 1 (69), 1-2021


nên khi tiếp nhận con ngựa chiến của người
Trung Quốc, người Việt biến thành con ngựa
thờ gắn với những anh hùng dân tộc. Ngồi ra
trong tiếng Việt hình ảnh con ngựa cũng gây
cho người Việt nhiều nhiều ấn tượng âm tính
thân phận tơi địi, bị người khác chi phối “thân
trâu ngựa”. Ở Việt Nam, “Ngựa” còn thường
được dùng để chỉ một người có tính xấu, như:
“ngựa non háu đá”, “ngựa bất kham”.
Cũng hình tượng con rồng, nhưng con rồng
của Trung Quốc là biểu tượng gắn với quyền
uy của nhà vua nên rất oai phong, lẫm liệt và
như một ma lực khuất phục con người. Nhưng
ở người Việt, hình tượng con rồng lại gắn với
nước (nông nghiệp lúa nước), với cội nguồn
dân tộc (con rồng cháu tiên), nên biểu tượng về
rồng vừa thiêng liêng tượng trưng cho Tổ quốc,
dân tộc vừa thân thương, vui vẻ chơi đùa với lũ
trẻ (trò chơi rồng rắn, múa lân, rước rồng). Khi
còn trẻ thơ, những đứa bé đã mê chơi trò bịt
mắt bắt dê, rồng rắn lên mây.. lớn chút nữa
chúng lại được chơi và hát những bài hát đồng
dao về những con vật. Những bài hát đồng dao
đó khơng chỉ dạy chúng nhận biết cái xấu, cái
tốt của cuộc đời (như những câu thơ ngụ ngơn
đầy hấp dẫn và có tính giáo dục cao) mà còn là
những bài học đầu tiên dễ nhớ và đã nhớ là nhớ
suốt đời về những con vật và về mơi trường
thiên nhiên. Thật khó có bài học về môi trường

nào cho trẻ lại hay, lại dễ hiểu, dễ nhớ như các
trò chơi và những bài đồng dao.
Người Việt Nam và Trung Quốc đều cho
rằng hổ là loài hung ác. Hổ tượng trưng cho
nơi nguy hiểm và thế lực. Trong tiếng Trung có
“vi hổ ác tướng” (nghĩa là mượn uy danh lớn
để hành sự), hổ lang chi tâm (lòng dạ hổ lang),
hay trong tiếng Việt và tiếng Trung đều có 放虎
归山 “phóng hổ quy sơn” (thả hổ về rừng)
tiếng Việt có nghĩa ví hành động vơ tình lại tạo
thêm điều kiện cho kẻ dữ hồnh hành ở mơi
trường quen thuộc, cịn trong tiếng Trung lại ví
về việc đưa những kẻ xấu trở lại tổ cũ của
chúng, lưu lại hậu họa sau này, 虎不食儿 “hổ
dữ khơng ăn thịt con” thì cả hai ngơn ngữ đều
thể hiện tình cảm ruột thịt, , 两虎相争 “nhị hổ

51

tương tranh” hai thế lực chiến đấu, 坐山观虎斗
“tọa sơn quan hổ đấu” ngồi xem hai tướng, hai
thế lực chiến đấu, 骑虎难下 “cưỡi trên lưng hổ”
làm một việc rất khó khăn nguy hiểm nhưng
cũng khơng thể dừng lại được.. Trong tiếng
Việt có “hổ tướng”. hổ phụ sinh hổ tử” đây là
những cụm từ Hán Việt mà người Việt mượn
từ tiếng Hán. Tuy nhiên, từ “hổ” trong tiếng
Trung ngoài ra cũng có hàm nghĩa khác mà
tiếng Việt khơng có, ví dụ trong tiếng Trung
có:电老虎 “con hổ điện, 水老虎 con hổ nước, 税

老虎 con hổ thuế, 房地产老虎 con hổ nhà đất”
hàm nghĩa của “hổ” ở đây đã được chuyển dịch
thành thiết bị quá tiêu hao năng lượng và kẻ
phạm tội lợi dụng chức quyền tham ô, chiếm
đoạt lượng lớn tài sản của nhà nước. Trong khi
đó, người Việt lại gọi hổ là “ơng ba mươi”.
Việt Nam có một truyền thuyết kể rằng đến 30
tết, hổ thường tìm đến các thơn làng ăn thịt
người, mọi người sợ hãi gọi hổ là ông ba mươi.
Người Trung Quốc nếu không biết truyền
thuyết này thì khơng thể hiểu được người Việt
muốn ám chỉ điều gì.
Người Việt Nam và Trung Quốc đều cày
ruộng bằng sức trâu, bị. Trâu, bị xuất hiện
trong nhóm từ vựng mang hàm ý nghĩa văn hóa
trong tiếng Việt và tiếng Hán với tần suất cao.
Trâu, bị trong hai ngơn ngữ đều tượng trưng
cho sức mạnh 九牛之力 “sức chín trâu”, 铁牛
“con trâu sắt”, “khỏe như trâu”, 对牛弹琴 “đàn
gảy tai trâu”. Ngược lại, trong tiếng Trung và
tiếng Việt có những cách diễn đạt khác, trong
đó ý nghĩa biểu trưng của từ trâu, bị không
giống nhau, nếu như ở tiếng Trung, trâu biểu
trưng cho sự kiễn nhẫn, chăm chỉ 牛黄狗宝 “lão
hoàng ngưu” (chỉ người chăm chỉ, kiên nhẫn).
Trâu biểu trưng cho sự ương bướng, cố chấp
“ngưu tinh”, phát ngưu tỳ khí (ương bướng, cố
chấp) 阿猫阿狗 a miêu a cẩu (tầm thường
không đáng giá). Trâu biểu trưng cho sự tài
giỏi, cao siêu 你真牛 “nhĩ chân ngưu” (bạn thật

là siêu). Với những giá trị nhân bản đẹp đẽ và
gần gũi như vậy, mà từ xưa tới nay biểu tượng
của chúng không bị phai mờ đi, một điều đặc
biệt hơn nữa như một số biểu tượng văn hóa tốt


52

NHỮNG VẤN ĐỀ TỪ ĐIỂN HỌC

đẹp khác càng bước vào kinh tế thị trường,
càng hội nhập với khu vực và quốc tế, khi con
người càng giàu lên, giá trị biểu tưởng của
chúng lại được đề cao và luôn được nhắc tới
những con vật khi đã trở thành biểu tưởng cho
đất nước Việt Nam đối với Quốc tế mà điển
hình là con trâu đã trở thành linh vật của SEA
Games 22 tại Việt Nam (biểu tượng con trâu
vàng SEA Games). Còn người Việt thì ln tự
hào mình là con Rồng cháu Tiên.

ăn thịt, là hình ảnh ẩn dụ cho những người
phục vụ kẻ thống trị và bị bỏ rơi hoặc bị giết từ
Sử ký. Ở Trung Quốc, con thỏ còn tượng trưng
cho tuổi thọ. Vì vậy Đạo giáo đã suy tơn là con
thỏ thần tiên có thể làm thuốc trường sinh, cho
con thỏ dùng cối dưới cây nguyệt quế để đập
thuốc, sau đó con thỏ từ từ tiến hóa thành biểu
tượng của ngành y. Trong tiếng Việt, nghĩa
biểu tượng của “thỏ” là tính nhút nhát, chẳng

hạn như: “Nhát như thỏ đế”.

Do lịch sử văn hóa hai nước có sự khác biệt
nhất đinh, nên tên các con vật gọi thì giống
nhau nhưng nội hàm văn hóa của chúng thì
khác nhau. Hay cùng một sự vật hiện tượng sử
dụng các con vật khác nhau đề miêu tả. Con bị
trong tiếng Trung có nghĩa tốt, tượng trưng cho
người có tính cách có một tinh thần chịu khó
chịu khổ, cống hiến: 牛“吃的是草,挤出来的是
奶” bị ăn cỏ, và cho sữa, câu nói này thể hiện
tinh thần cống hiến thầm lặng. Nhưng trong
tiếng Việt thì con bị lại mang nghĩa xấu dùng
để ẩn dụ “ngu dốt, ngang ngạch”, “bị đội nón”
ngu ngơ/lơ ngơ như bị đội nón”. Đầu bị đầu
bướu: Ngổ ngáo, ngang ngạnh, khó dạy bảo.

Hay trong tiếng Việt một số con vật được
coi là những biểu tượng trong tình u đơi lứa
như: Ai làm cho phượng lìa loan/Dang tay mà
bẻ kim vàng làm đơi; Mèo hoang lại gặp chó
hoang/Anh đi ăn trộm gặp nàng bứt khoai; Yêu
nhau anh đến tận nhà…/Một mình chả dám
trao duyên, bướm ong giữa chợ sao nên, có
những cặp đơi như: phượng - loan, phượng/
phụng - rồng, nhạn - én (yến), chim uyên/uyên
ương, oanh - yến đều là những kỳ vọng có
được một tình u đẹp, rồng là nam tính, loan
là nữ tính cũng là tượng trưng của tình u.
Thời cổ ở Việt Nam khi kết hơn, chăn gối đều

có thêu hình rồng, loan, phượng. Ví dụ: Rồng
giao đầu, phượng giao đi?Nay tui hỏi thiệt,
thương tui khơng mình; Cậy ơng Nguyệt lão
với bà Tơ vương/Chăn loan gối phượng sẵn
sàng, khăn tay tặng người u có thêu un
ương bởi vì un ương là tượng trưng tình u
trung thành vì thơng thường chim un ương
sống thành cặp. Hình ảnh con tằm cũng xuất
hiện, có liên quan đến sản xuất nông nghiệp
trồng dâu nuôi tằm của người Việt: Trách tằm
kia chẳng đối hồi tới dâu. Hình tượng
phượng hồng cũng rất hay được dung ví von
trong tình u đơi lứa của dân tộc Việt. Theo
truyền thuyết, lồi chim Phượng Hồng linh
thiêng chỉ đậu trên cây ngơ đồng và khi chim
Phượng Hồng về đậu thì sẽ có thánh nhân ra
đời. Từ truyền thuyết đẹp này mà hình tượng
này được dùng cho đơi nam nữ trong tình u.
Đơi ta được gặp nhau đây/Khác gì chim
phượng gặp cây ngơ đồng. Ngồi ra cũng có
một số động vật được biểu trưng cho tình u
bất chính chúng là “bướm ong”. Cho đến nay

Người Trung Quốc tin rằng ý nghĩa biểu
tượng của “thỏ” liên quan mật thiết đến thói
quen sống và kỹ năng sống của nó. Con thỏ
dựa vào thính giác và thị giác nhạy bén để phát
hiện sự chuyển động xung quanh bất cứ lúc
nào, nếu có gió và cỏ cây, trước tiên thỏ sẽ bất
động chờ thay đổi, nếu thực sự nguy hiểm, nó

sẽ bay đi với tốc độ khơng thể bịt tai. Vì vậy,
có một câu nói ở Trung Quốc cổ đại rằng “yên
tĩnh giống như một trinh nữ, và chuyển động
như một con thỏ”. Vì vậy, con thỏ tượng trưng
cho tinh thần cảnh giác cao và tính cách dễ sợ
hãi. Hơn nữa, thỏ rất giỏi trong việc đào hang
phức tạp nên còn tượng trưng cho những người
hay nhầm lẫn, khả năng khẩn cấp đa dạng. Khả
năng sinh sản cao của thỏ đã trở thành biểu
tượng của sự thèm khát và khả năng sinh sản.
Có thành ngữ Trung Quốc về “thỏ” bao gồm
“获兔烹狗” “thỏ chết chó nấu ăn”, có nghĩa là
khi thỏ chết, chó săn bị người ta nướng chín,


53

TỪ ĐIỂN HỌC & BÁCH KHOA THƯ, SỐ 1 (69), 1-2021

từ “ong bướm” đã trở thành một từ có nghĩa
xấu “lăng nhăng” khơng chung thủy trong tình
u. Trong ca dao, trâu được nói đến nhiều vì
trâu đóng vai trị quan trọng trong sinh hoạt
nơng nghiệp. Từ việc ví von về tuổi tác đến
việc đồng áng, và trong tình yêu nam nữ cũng
đều có mặt trâu. Trâu gần gũi thân thiết với con
người như hình với bóng. Bởi vậy ta nên trở về
với cái vốn có khơng nên q mộng tưởng. Cái
gì của mình có sẵn q hơn vì nó là có thực:
Trâu ta ăn cỏ đồng ta/Tuy rằng cỏ cụt nhưng

là cỏ thơm. Hay “Trâu đi tìm cọc, chứ cọc
khơng đi tìm trâu”. Trâu và cọc tượng trưng:
Trâu tượng trưng cho vật thể động, cọc tượng
trưng cho vật thể tĩnh. Chúng ta đã quen hiểu
theo hàm ý: Trâu tượng trưng cho phái nam,
cọc tượng trưng cho phái nữ. Khi muốn kết
hợp đơi lứa thì người con trai sẽ chọn lựa và
tìm đến với người con gái họ yêu thương. Với
quan điểm này, người con gái giữ vai trò thụ
động: Nếu người đến với mình là người tốt và
phù hợp về tình cảm thì thật là may mắn, cịn
nếu khơng phải thì chỉ có thể miễn cưỡng chấp
nhận hoặc từ chối và đợi chờ duyên phận khác.
Người Việt thông qua kinh nghiệm sống và
dựa vào các khái niệm đã biết và hiểu, lại cộng
thêm sử dụng phương pháp biểu đạt của ngơn
ngữ dân tộc đã sáng tạo ra ẩn dụ tình u đặc
sắc của dân tộc.
Động vật đóng một vai trị quan trọng trong
cuộc sống của người dân Trung Quốc và Việt
Nam, những câu thành ngữ chứa hình hài lồi
vật có ý nghĩa sâu sắc và mang tính biểu tượng
mạnh mẽ. Bởi vì hai quốc gia có nền tảng xã
hội, cách suy nghĩ và phong tục tập quán khác
nhau, họ có những cảm nhận và liên tưởng
khác nhau với động vật. Sự khác biệt về ngữ
nghĩa của các thành ngữ phản ánh nội hàm văn
hóa tương ứng của chúng, mà theo nghĩa đen là
khơng thể hiểu được. Nền tảng văn hóa được
phản ánh bởi động vật Trung Quốc và Việt

Nam được so sánh với nội hàm văn hóa của
hình ảnh động vật mà họ sử dụng. Để hiểu

View publication stats

thêm về những nét chung và nét riêng của văn
hóa Trung Quốc và Việt Nam. Các từ chỉ động
vật trong tiếng Hán và tiếng Việt cũng phản
ánh sự khác biệt về văn hóa giữa hai nước. Từ
những miêu tả và phân tích trên các từ chỉ
động vật trong tiếng Trung và tiếng Việt đã thể
hiện phương thức tư duy của dân tộc Hán Việt
và làm nổi bật văn hóa truyền thống hai dân
tộc. Điều đặc biệt là thơng qua miêu tả, phân
tích ẩn dụ ý niệm về từ chỉ động vật trong tiếng
Trung và tiếng Việt thì cũng minh chứng cho
lý luận của ngôn ngữ học tri nhận về ẩn dụ của
Lakoff và Johnson (1980: 4) cho rằng ẩn dụ kết
cấu dựa vào các khái niệm cụ thể (miền nguồn)
đi giải thích các khái niệm tương đối trừu
tượng (miền đích). Đó cũng chính là những
khái niệm trừu tượng vơ hình, khó giải thích,
phức tạp bắt nguồn từ những khái niệm cụ thể
có hình, đã biết, đơn giản, nó đến từ trong cuộc
sống của người dân Trung - Việt là những hành
vi thói quen hàng ngày hay những kinh nghiệm
đã trải. Vì vậy việc chỉ ra những tương đồng và
khác biệt của lớp từ này nói riêng và cũng như
trường từ vựng- ngữ nghĩa chỉ động vật trong
tiếng Hán và tiếng Việt nói chung có vai trị

quan trọng trong giảng dạy và nghiên cứu ngơn
ngữ - văn hóa Trung Quốc ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thúy Khanh, Đặc điểm trường từ vựng ngữ nghĩa tên gọi động vật, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ
học, Hà Nội, 1994.
[2] Nguyễn Thúy Khanh, Một vài nhận xét về thành
ngữ so sánh có gọi tên động vật tiếng Việt, Ngôn ngữ,
số 3, 1995.
[3] Black M., More about metaphor//Metaphor and
thought (2nd edn.), ed., A. Ortony, Cambridge
University Press, 1998.
[4] Lakoff G. & Johnson M., Metaphor We Live By,
First Edition, University of Chicago Press, Chicago,
1980.
[5] Lưu Tùng Quân, Lý Hành Kiện, Hướng Quang
Trung (Chủ biên), Đại từ điển thành ngữ Trung Hoa,
Nxb. Văn sử Cát Lâm, 1996.
[6] 赵艳,认知语言学概论,上海外语教育出版社, 2001.



×