Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 163 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHẠM HỒNG NHUNG

BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI
TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƢỢC HƢỞNG THEO
LUẬT THƢƠNG MẠI 2005

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 02 - NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI
TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƢỢC HƢỞNG THEO
LUẬT THƢƠNG MẠI 2005
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phan Huy Hồng
Học viên: Phạm Hồng Nhung -Lớp Cao học Luật kinh tế - Khóa 32

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Những thông


tin, dữ liệu trong luận văn đã được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định ngoại trừ
những kết quả nghiên cứu do tơi tìm hiểu, phân tích và tổng hợp được.
Tơi xin chịu trách nhiệm về những lời cam đoan trên.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Hồng Nhung


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Bộ nguyên tắc UNIDROIT

Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng
thương mại quốc tế năm 2004 (PICC)

BLDS 2015

Bộ luật dân sự năm 2015

Công ước
(CISG)

Viên

1980 Công ước của Liên hiệp quốc về Hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế năm 1980 ( United
Nations Convention on Contracts for the
International Sale of Goods)


LTM 1997

Luật thương mại số 58/L-CTN ngày 10 tháng 5
năm 1997 (Luật thương mại năm 1997)

LTM 2005

Luật thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14
tháng 06 năm 2005 (Luật thương mại 2005)

PLHĐKT 1989

Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25 tháng 09
năm 1989 (Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm
1989)

PECL

Bộ nguyên tắc chung Châu Âu về hợp đồng
(The Principles of European Contract Law)


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ............................................................................... 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................. 6
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và những đóng góp mới của luận văn .............. 6

7. Bố cục của luận văn ........................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI VÀ BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ
ĐƢỢC HƢỞNG THEO LUẬT THƢƠNG MẠI 2005 .......................................... 8
1.1 Khái niệm, nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại và bồi thƣờng thiệt hại đối với
khoản lợi trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng .............................................................. 8
1.1.1 Khái niệm về bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại đối với khoản
lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng .......................................................................... 8
1.1.2 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ................................................................ 11
1.2 Phân loại thiệt hại đƣợc bồi thƣờng ............................................................. 13
1.2.1 Giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp ............................................................... 15
1.2.2 Khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ................................................... 15
1.3 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại đối với khoản lợi trực
tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng theo luật thƣơng mại 2005 ........................................ 18


1.3.1 Hành vi vi phạm hợp đồng ........................................................................ 20
1.3.2 Thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ........................ 21
1.3.3 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và khoản lợi trực tiếp đáng
lẽ được hưởng ..................................................................................................... 24
1.4 Nghĩa vụ chứng minh và hạn chế tổn thất của bên yêu cầu bồi thƣờng
thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng................................. 26
1.4.1 Nghĩa vụ chứng minh ................................................................................ 26
1.4.2 Nghĩa vụ hạn chế tổn thất.......................................................................... 27
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 33
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ ĐƢỢC HƢỞNG THEO
LUẬT THƢƠNG MẠI 2005 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GĨP PHẦN HỒN
THIỆN PHÁP LUẬT .............................................................................................. 34
2.1 Quy định pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp

đáng lẽ đƣợc hƣởng theo luật thƣơng mại 2005 ............................................... 34
2.1.1 Xác định thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ......... 34
2.1.2 Quy định về nghĩa vụ chứng minh ............................................................ 36
2.1.3 Quy định về nghĩa vụ hạn chế tổn thất ..................................................... 38
2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại đối với khoản lợi
trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng theo luật thƣơng mại 2005................................ 40
2.2.1 Xác định khoản lợi trực tiếp đáng lẽ bên bị vi phạm được hưởng nếu
khơng có hành vi vi phạm ................................................................................... 40


2.2.2 Chứng minh và cách tính tốn thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ
được hưởng ......................................................................................................... 54
2.2.3 Hạn chế tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ............ 63
2.3 Một số kiến nghị góp phần hồn thiện quy định pháp luật về bồi thƣờng
thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng................................. 69
2.3.1 Khái niệm về khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng và xác định khoản
lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ........................................................................ 70
2.3.2 Về chứng minh và cách tính thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ
được hưởng ......................................................................................................... 71
2.3.3 Về nghĩa vụ hạn chế tổn thất .................................................................... 72
2.3.4 Xem xét bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được
hưởng là thiệt hại về uy tín doanh nghiệp .......................................................... 73
2.3.5 Thống nhất quy định giữa BLDS và LTM, tăng cường chức năng hướng
dẫn xét xử của Tòa án nhân dân tối cao ............................................................ 74
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 76
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 77


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn hiện nay vấn đề tự do giao kết hợp đồng giữa các bên ngày
càng phổ biến đòi hỏi pháp luật phải đặt ra những quy định chặt chẽ để các bên
không lợi dụng những kẽ hở của pháp luật mà cố tình vi phạm, gây thiệt hại cho bên
bị vi phạm. Do đó pháp luật đã đưa ra một biện pháp pháp lý quan trọng có vai trị
bù đắp cho bên bị thiệt hại những tổn thất là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng
đó là bồi thường thiệt hại.
Trong hoạt động thương mại cũng vậy, khi các bên giao kết hợp đồng thể hiện
ý chí, sự thỏa thuận của các bên để các bên có thể đạt được mục đích của việc giao
kết hợp đồng. Việc vi phạm hợp đồng của một bên dù là cố ý hay vô ý đều phải
chịu những hậu quả do hành vi vi phạm của mình, và hậu quả của sự trừng phạt đó
chính là các chế tài trong thương mại. Trong đó, bồi thường thiệt hại với tư cách là
chế tài trong thương mại có chức năng bù đắp tổn thất vật chất cho bên bị vi phạm,
làm cho hành vi vi phạm hợp đồng trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị vi
phạm.
Bồi thường thiệt hại là loại chế tài phổ biến nhất được các bên áp dụng khi giải
quyết các tranh chấp hợp đồng nói chung và hợp đồng kinh doanh, thương mại nói
riêng. Có thể thấy bồi thường thiệt hại khơng chỉ được quy định trong luật hợp
đồng, trong luật thương mại mà cịn được quy định trong Cơng ước của Liên hiệp
quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Cơng ước Viên 1980). Việt Nam đã
gia nhập Công ước Viên từ năm 2015 và trở thành thành viên thứ 84 của công ước,
việc gia nhập Công ước Viên 1980 đã đánh dấu một mốc mới trong quá trình tham
gia vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại. Theo nghiên cứu từ thực
tiễn cho thấy trong luật hợp đồng nói chung, luật thương mại và Cơng ước Viên
1980, hầu hết trong các vụ tranh chấp xảy ra giữa các bên thì biện pháp được các
bên ln đề cập đến khi có hành vi vi phạm xảy ra của một bên đó là bồi thường
thiệt hại.
Rõ ràng trong quan hệ hợp đồng, bên nào cũng mong muốn mình có thể đạt
được mục đích của việc giao kết hợp đồng, tuy nhiên hành vi vi phạm của một bên



2
đã gây ra những hậu quả bất lợi cho bên cịn lại khiến họ khơng thể đạt được những
lợi ích mà mình mong muốn. Bồi thường thiệt hại là một chế tài được pháp luật đặt
ra để giúp bên bị thiệt hại có thể bảo vệ được lợi ích chính đáng của mình. Đây là
chế tài được rất nhiều tác giả quan tâm và đã nghiên cứu, tuy nhiên mỗi học giả lại
phân tích, nghiên cứu theo một hướng riêng. Từ thực tiễn hoạt động xét xử có thể
nhận thấy rằng bồi thường thiệt hại trong các tranh chấp về kinh doanh thương mại
rất đa dạng và vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể giải quyết được, trong đó tác giả đặc
biệt quan tâm đến “bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được
hưởng theo Luật thương mại 2005” là một vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa rõ ràng từ
những quy định của pháp luật đến thực tiễn xét xử. Do đó để giúp hồn thiện các
quy định của pháp luật thương mại hiện hành về vấn đề bồi thường thiệt hại đối với
khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo Luật thương mại 2005, đồng thời giúp
cho các cơ quan tiến hành tố tụng có sự rõ ràng, thống nhất trong tư duy và áp dụng
pháp luật để giải quyết các tranh chấp trong hoạt động thương mại, tác giả đã chọn
đề tài “ Bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo
Luật thương mại 2005” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu của tác giả, có khá nhiều cơng trình đề
cập liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại trong các hoạt động thương mại theo
pháp luật Việt Nam, một số cơng trình cụ thể như sau:
Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Phú Cường với đề tài “Bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thương mại” năm 2009:
Trong đề tài này, tác giả đã nêu ra được bản chất và những vấn đề cơ bản của chế
tài bồi thường thiệt hại trong kinh doanh, thương mại gồm căn cứ làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ chứng minh trong bồi thường thiệt hại,
mối quan hệ giữa chế tài bồi thường thiệt hại với các loại chế tài khác, các trường
hợp được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tổng thể, tác giả đã tập trung

nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại trong kinh
doanh, thương mại nhưng còn việc áp dụng những quy định này trong thực tiễn như
thế nào và bất cập ra sao vẫn chưa được tác giả nghiên cứu sâu để đưa ra những
kiến nghị góp phần hồn thiện hơn pháp luật thương mại Việt Nam.


3
Sách chuyên khảo Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án xuất
bản năm 2010, tái bản năm 2014 của tác giả PGS.TS Đỗ Văn Đại: đối với sách
chuyên khảo này, tác giả đã nghiên cứu rất cụ thể các vấn đề pháp lý về hợp đồng,
các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thơng qua bình luận các bản án. Tác giả
đã nghiên cứu, phân tích các quy định của BLDS và LTM về giá trị bồi thường
thiệt hại như thiệt hại vật chất, tổn hại tinh thần, bổ sung quy định nói rõ cho phép
bồi thường khoản lợi đáng lẽ được hưởng trong BLDS, kiến nghị sửa đổi cụm từ
thiệt hại thực tế bao gồm cả tổn thất về tinh thần trong LTM 2005. Cơng trình
nghiên cứu của tác giả là nguồn tài liệu hữu ích làm nền tảng để tác giả sau tiếp tục
nghiên cứu các vấn đề còn bỏ ngỏ trong Luật thương mại 2005.
Bài viết Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế qua Luật
thương mại Việt Nam, Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit của tác giả
Nguyễn Thị Hồng Trinh trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22/2009: tác giả đã
tìm hiểu, phân tích các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại theo pháp luật
thương mại Việt Nam và quốc tế để so sánh những tương đồng và sự khác biệt của
pháp luật thương mại Việt Nam so với pháp luật quốc tế, trong đó tác giả có nghiên
cứu về việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại qua LTM 2005, Công ước Viên
1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit. Bài viết của tác giả đã cung cấp cho độc giả thêm
nhiều kiến thức về bồi thường thiệt hại theo pháp luật trong nước và quốc tế, từ đó
điều chỉnh LTM theo hướng phù hợp hơn với luật quốc tế.
Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Đức Trọng (2016) với đề tài
Giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam: đối với đề tài này
tác giả đã nghiên cứu về giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm cả thiệt hại thực tế và

khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng, tác giả đã đưa ra một số
lý luận về giá trị bồi thường thiệt hại và sử dụng phương pháp phân tích, bình luận
án khi nghiên cứu thực trạng pháp luật về giá trị bồi thường thiệt hại.
Bài viết Về việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại vào
thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại của tác giả
Nguyễn Thị Hằng Nga năm 2006 trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 5: tác giả đã
nghiên cứu hai chế tài là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trên cơ sở tìm hiểu
những quy định pháp luật và việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn xét xử, so sánh


4
chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, thực tiễn áp dụng hai chế tài này trong
các tranh chấp kinh doanh thương mại.
Luận văn Thạc sỹ luật học năm 2014 của tác giả Trần Trung Hiếu với đề tài
Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo luật thương mại Việt Nam: Tác giả
đã phân tích các quy định liên quan đến bồi thường thiệt hại theo luật thương mại
Việt Nam như căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, yếu tố lỗi, nghĩa
vụ chứng minh, hạn chế tổn thất, mối quan hệ giữa chế tài này với các hình thức chế
tài khác. Qua nghiên cứu các quy định pháp luật, tác giả cũng nghiên cứu sâu về
thực tiễn áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại so với các chế tài khác. Luận văn của
tác giả đã làm nổi bật chế tài bồi thường thiệt hại, giúp người đọc có cái nhìn bao
qt về chế tài này, so sánh những điểm chưa đồng nhất giữa BLDS và LTM, từ đó
đưa ra những kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật hơn.
Bên cạnh những cơng trình nêu trên, cịn có rất nhiều cơng trình khác cũng
nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến chế tài bồi thường thiệt hại trong hoạt động
thương mại. Những cơng trình luận văn hay các bài viết của các tác giả kể trên đều
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại, tuy nhiên mỗi tác giả sẽ
có những góc độ nghiên cứu khác nhau, có tác giả phân tích, nghiên cứu tổng thể về
chế tài này, có tác giả chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của chế tài này và những
bất cập còn gặp phải dựa trên thực tiễn xét xử. Dù vậy, cho đến thời điểm hiện tại,

vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu sâu về bồi thường thiệt hại đối
với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng được coi là một loại thiệt hại được xem
xét bồi thường đã được pháp luật quy định nhưng chỉ ở mức khái quát nêu ra và
chưa được làm rõ, gây nhiều khó khăn trong thực tiễn xét xử cho các cơ quan tài
phán khi giải quyết những tranh chấp có liên quan đến bồi thường thiệt hại đối với
loại thiệt hại này.
Dựa trên những nghiên cứu của các tác giả đi trước về chế tài bồi thường thiệt
hại trong thương mại kết hợp với việc nghiên cứu những bản án của Tòa án, phán
quyết của Trọng tài là nguồn tài liệu tham khảo rất bổ ích, giá trị để tác giả có thể
học hỏi, tiếp thu, chọn lọc trong q trình thực hiện đề tài “Bồi thường thiệt hại đối
với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005”.


5
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu thực tiễn giải quyết các tranh
chấp tại Tòa án và Trọng tài về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng
lẽ được hưởng, việc cụ thể hóa khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng này là gì,
cách tính khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ra sao, nghĩa vụ chứng minh, hạn
chế tổn thất của bên bị vi phạm như thế nào, từ đó việc chấp nhận một phần, toàn bộ
hay bác bỏ yêu cầu bồi thường đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng này
dựa trên quan điểm của Tịa án, Trọng tài, thơng qua bản án, phán quyết. Qua việc
nghiên cứu giải quyết tranh chấp tại Tòa án và Trọng tài là cơ sở để tác giả đối
chiếu với những quy định của Luật thương mại Việt Nam đang còn nhiều hạn chế.
Vấn đề bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng mặc dù
đã được luật nêu ra, tuy nhiên những quy định trong LTM đang dừng ở mức độ khái
quát, pháp luật chưa dự liệu các tình huống, cụ thể hóa được khoản lợi đó là gì dẫn
đến thực tiễn giải quyết các tranh chấp còn bất cập, chưa thống nhất giữa các bên
liên quan.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lý luận về bồi thường thiệt hại đối với
khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng dựa trên cơ sở lý luận của chế tài bồi thường
thiệt hại và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án, Trọng tài về bồi thường thiệt
hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005.
Qua việc phân tích bản án của Tịa án và phán quyết của Trọng tài, tác giả đúc
kết được những quan điểm từ thực tiễn giải quyết tranh chấp, từ đó đưa ra những
kiến nghị trong việc cụ thể hóa khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng, việc chứng
minh, xác định thiệt hại trong quy định pháp luật để các cơ quan tiến hành tố tụng
khi giải quyết tranh chấp lấy đó làm cơ sở để việc giải quyết tranh chấp có sự thống
nhất, hợp lý giữa các chủ thể.
Phạm vi nghiên cứu


6
Về mặt nội dung: Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, khi
nghiên cứu về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng
theo luật thương mại 2005, luận văn giới hạn ở việc phân tích các quy định pháp
luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo
pháp luật thương mại Việt Nam, có so sánh đối chiếu với pháp luật quốc tế như
Công ước Viên 1980 và tập trung sâu vào phân tích, bình luận án qua các tranh chấp
kinh doanh thương mại trên thực tiễn.
Về mặt không gian: phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc nghiên
cứu các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp
đáng lẽ được hưởng theo Luật thương mại năm 2005 và bình luận án qua thực tiễn
xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết hợp các phương pháp phân tích, hệ
thống hóa các quy định pháp luật, so sánh, tổng hợp, bình luận án, đánh giá.
Trong chương 1, tác giả tập trung thống kê, phân tích, tổng hợp, đánh giá các

vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được
hưởng trên nền tảng lý luận của chế tài bồi thường thiệt hại. Cụ thể, tác giả đã
nghiên cứu các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại theo Luật thương mại
2005, có so sánh, phân tích, đánh giá với một số quy định của Công ước Viên 1980.
Đồng thời để làm rõ hơn về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ
được hưởng theo luật thương mại 2005, tác giả thêm các ví dụ và trích một số bản
án có liên quan đến chế tài này.
Trong chương 2, tác giả tập trung chủ yếu vào phương pháp phân tích, bình
luận án để làm rõ những bất cập, thiếu sót về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi
trực tiếp đáng lẽ được hưởng thông qua thực tiễn xét xử và đưa ra một số kiến nghị
góp phần hoàn thiện pháp luật thương mại Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và những đóng góp mới của luận văn
Về lý luận: luận văn góp phần vào kho tàng khoa học pháp lý một cách hệ
thống về cụ thể hóa khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng và bồi thường thiệt hại


7
đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005. Đồng
thời, luận văn góp phần làm cho Luật thương mại Việt Nam cụ thể, rõ ràng hơn về
bồi thường đối với loại thiệt hại này. Luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo
hữu ích cho các học giả khi tìm hiểu về chế định bồi thường thiệt hại đối với khoản
lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng.
Về thực tiễn: luận văn phân tích, bình luận các bản án của Tòa án và phán
quyết của Trọng tài để nêu lên những bất cập khi luật thương mại không quy định rõ
về bồi thường đối với khoản lợi này, do đó thực tiễn có những bất cập khi giải quyết
vấn đề bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng trong các
hoạt động kinh doanh thương mại. Luận văn giúp các thương nhân có thể hiểu rõ
hơn về bồi thường đối với khoản lợi này để khi các bên giao kết hợp đồng sẽ minh
bạch, rõ ràng và khi có tranh chấp xảy ra giữa các bên thì cơ quan tài phán có căn
cứ, quy định cụ thể để việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng, dễ dàng.

Về đóng góp mới của luận văn: luận văn đã góp phần hồn thiện thêm quy
định của pháp luật thương mại về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp
đáng lẽ được hưởng, là nguồn tài liệu để các nhà làm luật xem xét, bổ sung thêm
các vấn đề còn bỏ ngỏ đã được quy định trong Luật thương mại 2005. Để từ đó các
cơ quan tài phán có cơ sở giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại liên
quan đến bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng được
rõ ràng, thống nhất.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 02 chương:
Chương 1: Lý luận chung về bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại đối
với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực
tiếp đáng lẽ được hưởng theo luật thương mại 2005 và một số kiến nghị góp phần
hồn thiện pháp luật


8
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI VÀ BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI ĐỐI VỚI KHOẢN LỢI TRỰC TIẾP ĐÁNG LẼ
ĐƢỢC HƢỞNG THEO LUẬT THƢƠNG MẠI 2005
1.1 Khái niệm, nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại và bồi thƣờng thiệt hại đối với
khoản lợi trực tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng
1.1.1 Khái niệm về bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi
trực tiếp đáng lẽ được hưởng
Pháp luật đang ngày càng tiến bộ và hoàn thiện hơn để phù hợp với sự thay
đổi của xã hội, trong đó có những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh buộc
những chủ thể trong những quan hệ này phải tôn trọng và tuân thủ những quy tắc
nhất định, khơng thể vì lợi ích cá nhân của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể khác. Khi một quan hệ được xác lập và được điều chỉnh

bởi những quy phạm pháp luật, nếu một chủ thể vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình
gây tổn hại cho người khác thì chủ thể đó phải chịu những hậu quả bất lợi do hành
vi vi phạm của mình gây ra. Việc gánh chịu hậu quả bất lợi đó bằng việc bù đắp
những tổn thất, mất mát cho bên bị vi phạm do hành vi vi phạm của mình được xem
là bồi thường thiệt hại.
Với nhu cầu phát triển của xã hội, để đảm bảo quyền được bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là một quyền tuyệt đối của mọi cơng dân, tổ chức
thì Nhà nước bắt buộc mọi người đều phải tơn trọng các quyền đó của các chủ thể
khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào xâm phạm đến các quyền của họ,
nếu vi phạm mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Xuất phát từ mục đích đó, cho
nên dù được quy định dưới các góc độ và phạm vi khác nhau nhưng bồi thường
thiệt hại đều có thể hiểu là một loại quan hệ dân sự phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và các
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì người gây thiệt hại phải bồi thường
cho người bị thiệt hại cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần1.

1

Hội đồng phối hợp, phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính Phủ (2010), Luật trách nhiệm bồi thường của
nhà nước, Đặc san tuyên truyền pháp luật, Hà Nội, tr.2


9
Trong quan hệ hợp đồng, nếu hành vi vi phạm của một bên gây ra những thiệt
hại, tổn thất cho bên cịn lại thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi
thường những tổn thất do hành vi vi phạm đó gây ra. Bởi trong quan hệ hợp đồng
mỗi bên đều được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp như nhau, sự vi phạm nghĩa vụ
gây thiệt hại của một bên trong quan hệ hợp đồng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi ích vật chất của bên kia. Do đó bồi thường thiệt hại được đặt ra làm cho hành vi
vi phạm hợp đồng của bên kia trong quan hệ thương mại trở nên vô hại về mặt vật

chất đối với bên bị vi phạm hợp đồng. Bên bị vi phạm được khôi phục lại tình trạng
trước khi vi phạm gây thiệt hại và thỏa mãn những quyền lợi chính đáng mà đáng lẽ
mình phải được hưởng.
Bồi thường thiệt hại trong khoa học pháp lý có thể được khái quát như một
chế tài tiền tệ dùng để bù đắp những thiệt hại thực tế cho bên bị thiệt hại2. Trong
lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế, bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm
được tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới áp dụng3. Trong trường hợp bên có
quyền bị vi phạm đã áp dụng các hình thức trách nhiệm khác thì họ vẫn khơng
đương nhiên mất quyền địi bồi thường thiệt hại. Vì thế, có thể coi bồi thường thiệt
hại là một giải pháp vạn năng cho mọi trường hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng4.
Trong pháp luật của nhiều nước cũng có quy định về chế tài bồi thường thiệt
hại như một biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị vi phạm. Cụ
thể, trong Bộ luật dân sự Nhật Bản, tại điều 415 quy định “người có quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại nếu người có nghĩa vụ khơng thực hiện nghĩa vụ phù hợp với
tinh thần và mục đích của nó”. Trong Bộ luật dân sự Pháp cũng có quy định về bồi
thường thiệt hại như sau: “người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do không thực
hiện hoặc thực hiện chậm nghĩa vụ”. Luật thương mại Việt Nam cũng quy định chi
tiết về chế tài bồi thường thiệt hại, cụ thể tại khoản 1 Điều 302 Luật thương mại
2005: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành
vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”.

2

Nguyễn Thị Dung (2001), Áp dụng trách nhiệm hợp đồng trong kinh doanh, NXB chính trị quốc gia Hà
Nội, tr.93
3
Trường Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình Luật hợp đồng và thương mại quốc
tế, Nxb Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.87
4
Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội,

tr.433


10
Bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh do hành vi vi
phạm hợp đồng gây thiệt hại cho chủ thể khác. Tại Việt Nam, theo từ điển tiếng
Việt, trách nhiệm có thể được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất là “phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo
đảm làm tròn, nếu kết quả khơng tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả’;
Thứ hai là “ sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng
đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả”.
Theo hai cách định nghĩa như trên, trách nhiệm có nhiều điểm tương đồng với
nghĩa vụ nhưng nó cũng hàm chứa một điểm khác biệt quan trọng là yếu tố hậu quả
xảy ra. Với trách nhiệm pháp lý, tức trách nhiệm đã được các quy phạm pháp luật
điều chỉnh và bảo vệ, các “hậu quả” này sẽ là “hậu quả bất lợi” được áp đặt lên
những chủ thể đã có hành vi vi phạm pháp luật5.
Trong quan hệ thương mại, khi hợp đồng được giao kết thì quyền của bên này
sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại, việc vi phạm do cố tình hay vơ ý của một
bên gây thiệt hại thì bên bị vi phạm phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
bên bị vi phạm, mặc dù điều khoản bồi thường thiệt hại không được các bên thỏa
thuận trong hợp đồng đã giao kết trước đó. Quy định như vậy đã phần nào bảo vệ
trọn vẹn quyền lợi hợp pháp cho chủ thể bị thiệt hại. Bởi hành vi vi phạm của một
bên đã làm cho mục đích giao kết hợp đồng của các bên khơng những bị “phá vỡ”
mà cịn gây thiệt hại đến lợi ích của họ. Do đó, pháp luật đã đặt ra chế tài bồi
thường thiệt hại như một biện pháp để bên vi phạm có thể khắc phục lỗi của mình
bằng cách bù đắp những tổn thất đó. Có thể hiểu bồi thường thiệt hại là một hình
thức chế tài vật chất được áp dụng cho bên vi phạm, trừ những trường hợp được
miễn trách nhiệm, nhằm bồi thường những tổn thất mà bên bị vi phạm phải gánh
chịu và khoản lợi mà đáng lẽ bên bị vi phạm được hưởng. Theo đó, chế tài bồi
thường thiệt hại thể hiện mục đích là bù đắp, bồi hoàn toàn bộ thiệt hại thực tế cho

bên bị vi phạm hơn là trừng trị bên có hành vi vi phạm hợp đồng6.

5

Lê Văn Tranh (2018), Luận giải về phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo luật thương mại Việt Nam,
Nxb. Tư Pháp, tr.153-154
6
Nguyễn Phú Cường (2009), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thương mại,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP.HCM, tr.8


11
Như vậy, chế tài bồi thường thiệt hại là một chế tài mang tính tài sản, việc bồi
thường thiệt hại chính là bồi thường những tổn thất thực tế bị mất mát do hành vi vi
phạm của một bên trong quan hệ hợp đồng. Về lý thuyết, bồi thường thiệt hại là làm
cho hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia trong quan hệ thương mại trở nên vô hại
về mặt vật chất đối với bên bị vi phạm hợp đồng7. Từ đó cũng có thể hiểu, bồi
thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ bên bị vi phạm được hưởng là
việc bên vi phạm phải bồi thường cho bên bị vi phạm những lợi ích về vật chất hoặc
phi vật chất mà bên bị vi phạm đáng lẽ sẽ nhận được nếu như hai bên thực hiện
đúng như thỏa thuận trong hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng cũng được
xem là một biện pháp pháp lý mà khi một chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng gây thiệt hại cho khoản lợi mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng thì phải bồi
thường. Mục đích chính của biện pháp này là nhằm bù đắp, khơi phục lại lợi ích vật
chất, khoản lợi mà bên bị vi phạm đáng lẽ sẽ có được nếu hợp đồng được thực hiện.
Đây là một giải pháp để bảo đảm quyền lợi cho các bên khi hợp đồng bị vi phạm,
cân bằng lợi ích cho các bên có liên quan trong quan hệ hợp đồng. Thiệt hại là
khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng là một loại thiệt hại khá đặc biệt nên khi quy
định về bồi thường đối với thiệt hại này pháp luật cũng cần phải cân nhắc.

1.1.2 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Thứ nhất, bồi thường thiệt hại được áp dụng theo nguyên tắc “toàn bộ” và “kịp
thời”. Bồi thường thiệt hại toàn bộ có nghĩa là thiệt hại phải được bồi thường đầy
đủ. Bên bị thiệt hại phải được đền bù đầy đủ để có thể khơi phục lại lợi ích bị tổn
thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra8. Bồi thường thiệt hại kịp thời có nghĩa là
khi thiệt hại xảy ra, bên vi phạm chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải nhanh
chóng khắc phục tổn thất mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Trong BLDS 2015
tại Điều 13 cũng có quy định “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm
được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc
luật có quy định khác”. Nghĩa là khi một chủ thể bị xâm phạm đến quyền và lợi ích
được pháp luật bảo vệ thì chủ thể có hành vi vi phạm phải có trách nhiệm bồi
7

Lê Văn Tranh (2018), Tlđd 5, tr.147
Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật hợp đồng và thương mại quốc tế , Nxb
Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.88
8


12
thường tồn bộ thiệt hại, nếu hai bên khơng có thỏa thuận trước về mức bồi thường.
Việc bồi thường kịp thời có vai trị quan trọng, nó bù đắp lại những tổn thất về vật
chất cho bên bị vi phạm, để bên bị vi phạm sớm ổn định, không bị xáo trộn về thời
gian, công việc và các dự định cho công việc ở hiện tại hoặc tương lai9. Thiệt hại là
khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng cũng phải được bồi thường toàn bộ và kịp
thời. Khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng là những giá trị tăng thêm trong tương
lai, những lợi ích mà bên bị vi phạm chắc chắn có thể nhận được nếu hợp đồng
được thực hiện. Vì vậy, việc bồi thường tồn bộ đối với thiệt hại là khoản lợi trực
tiếp đáng lẽ được hưởng nghĩa là bên vi phạm phải bồi thường cho bên bị vi phạm
tồn bộ những lợi ích mà đáng lẽ ra bên bị vi phạm sẽ nhận được nếu khơng có sự

vi phạm của bên vi phạm.
Thứ hai, bồi thường thiệt hại không làm sinh lợi cho bên bị thiệt hại. Bởi bản
chất cuả chế tài bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp những tổn thất, mất mát mà bên
bị thiệt hại phải gánh chịu do hành vi vi phạm của bên vi phạm. Do đó, bên có
quyền u cầu bồi thường thiệt hại khơng thể lợi dụng sự vi phạm của bên kia để
làm “giàu” cho mình, như vậy sẽ trái với bản chất của chế tài bồi thường thiệt hại.
Tại Điều 229 LTM 1997 có quy định như sau: “Số tiền bồi thường thiệt hại không
thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng”. Công ước Viên 1980
tại Điều 74 cũng có quy định về nguyên tắc này: “Tiền bồi thường thiệt hại này
không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng
lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi
phạm hợp đồng có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”. Mặc
dù tại LTM 2005 đã khơng cịn điều khoản nào quy định riêng cho nguyên tắc này,
tuy nhiên nguyên tắc này vẫn được mặc nhiên áp dụng và LTM 2005 đã thay thế
bằng những quy định có ý nghĩa bao hàm cả nguyên tắc này. Nguyên tắc này được
đặt ra là vô cùng cần thiết, hợp lý, phù với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
cả đơi bên. Bên nào có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia thì phải có nghĩa
vụ bồi thường, ngược lại bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không được lợi dụng việc
bồi thường của bên vi phạm để hưởng những lợi ích vượt quá so với thiệt hại thực
tế. Trong thực tiễn xét xử, khi xem xét mức bồi thường thiệt hại thì Tịa án ln
xem xét tới nguyên lý bồi thường này để giải quyết yêu cầu bồi thường. Vì bản chất
mục đích của bồi thường thiệt hại là đưa lợi ích vật chất của bên bị thiệt hại vào vị
9

Lê Văn Tranh (2018), Tlđd 5, tr.55


13
trí mà lẽ ra họ phải có nếu phía bên kia thực hiện khơng đúng nghĩa vụ của mình10.
Như vậy, thiệt hại là khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng càng cần phải lưu ý

đến nguyên tắc này, vì bản chất đây là thiệt hại trong tương lai, trên thực tiễn rất
khó xác định nên khi xác định trách nhiệm bồi thường các cơ quan tiến hành tố tụng
phải xem xét kỹ để bên bị vi phạm được bồi thường đúng với thiệt hại mà mình phải
gánh chịu, khơng làm giàu cho bên bị vi phạm.
Thứ ba, thiệt hại được bồi thường phải là thiệt hại thực tế và trực tiếp. Nguyên
tắc này nhấn mạnh rằng khi bên bị vi phạm yêu cầu bồi thường thiệt hại thì phải
chứng minh được thiệt hại của mình là có thật trên thực tế, đặc biệt là thiệt hại đối
với khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Bên bị vi phạm phải chứng minh việc có tồn tại
khoản lợi này và hành vi vi phạm của bên vi phạm đã ảnh hưởng trực tiếp làm cho
bên bị vi phạm mất đi khoản lợi mà mình đáng lẽ được hưởng. Như vậy, thiệt hại ở
đây phải là những thiệt hại có thật, thực tế đã xảy ra chứ không phải “sẽ” xảy ra và
mức độ thiệt hại để yêu cầu bên vi phạm bồi thường phải là những chứng cứ có liên
quan trực tiếp đến thiệt hại. Thiệt hại đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng
cũng vậy, muốn được bồi thường thì phải có những số liệu, tài liệu chứng minh, chứ
không phải do bên bị vi phạm tự “tưởng tượng” để u cầu bồi thường thì sẽ khơng
được cơ quan tài phán chấp nhận.
1.2 Phân loại thiệt hại đƣợc bồi thƣờng
Bồi thường luôn phải gắn liền với thiệt hại, nghĩa là có thiệt hại mới có quyền
yêu cầu bồi thường. Thiệt hại trong kinh doanh thương mại có thể hiểu là những tổn
thất về tài sản hoặc những mất mát lợi ích vật chất, tinh thần. Tuy nhiên, theo Luật
thương mại 2005, cụ thể tại Khoản 2 Điều 302 đã phân loại thiệt hại được bồi
thường như sau: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực
tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà
bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm”.
Như vậy, LTM 2005 đã nêu rõ giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm : giá trị tổn
thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu
khơng có hành vi vi phạm.
10

Dương Anh Sơn (2010), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, Tài liệu hội thảo khoa học: “Không

thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam”


14
Theo Pháp luật Hoa Kỳ cũng phân loại các thiệt hại để định ra mức bồi
thường, thiệt hại được phân thành 04 loại gồm:
Một là, thiệt hại kỳ vọng – đây là loại thiệt hại mà tòa án sẽ đánh giá dựa trên
những lợi ích kinh tế mà bên bị vi phạm dự kiến có thể đạt được khi hợp đồng được
thực hiện, cách tính này cịn được gọi là expectation measure.
Hai là, thiệt hại do tín nhiệm – bên vi phạm sẽ phải bồi thường những chi phí
và tổn thất phát sinh do đã tin tưởng là hợp đồng sẽ được thực hiện. Loại bồi thường
này chỉ được áp dụng khi không thể chứng minh thiệt hại kỳ vọng và số tiền bồi
thường không được vượt quá mức lợi nhuận dự kiến.
Ba là, thiệt hại ấn định – khi ký kết hợp đồng, các bên có thể ấn định trước
khoản tiền bồi thường cố định khi hợp đồng bị vi phạm, dựa trên sự tính mức thiệt
hại dự kiến hoặc thực tế. Hình thức bồi thường này chỉ được áp dụng nếu nhằm mục
đích dự kiến thiệt hại có thể phát sinh trong trường hợp khó chứng minh được thiệt
hại nhưng nó sẽ bị vơ hiệu nếu được sử dụng như một biện pháp trừng phạt bên vi
phạm hợp đồng khi quy định khoản tiền quá lớn, không hợp lý so với thiệt hại xảy
ra.
Bốn là, thiệt hại do tịa án tính tốn để khơi phục lại tình trạng kinh tế của bên
bị vi phạm ở thời điểm hợp đồng có hiệu lực, nhằm ngăn chặn bên vi phạm trục lợi
bất chính11.
Có thể nhận thấy Pháp luật Hoa Kỳ phân loại cụ thể từng loại thiệt hại, cũng
như việc áp dụng bồi thường đối với từng thiệt hại như thế nào, thứ tự áp dụng ra
sao. Việc quy định như vậy rõ ràng và dễ hiểu, do đó khi xảy ra tranh chấp về bồi
thường thiệt hại, các cơ quan tài phán sẽ có cơ sở để xác định loại thiệt hại gì, sau
đó sẽ quyết định mức bồi thường hợp lý cho bên bị thiệt hại.
Công ước Viên 1980 cũng có quy định những loại thiệt hại nào được bồi
thường, cụ thể theo Điều 74 CISG quy định như sau: “Mức bồi thường thiệt hại do

vi phạm hợp đồng của một bên bao gồm giá trị tổn thất, kể cả khoản lợi nhuận bị bỏ
lỡ, mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra”. Có thể thấy trong quy định
11

Lê Văn Tranh (2018), Tlđd 5, tr.197-198


15
của Công ước Viên 1980 thiệt hại được bồi thường bao gồm hai loại là tổn thất và
khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ.
Rõ ràng, LTM 2005 đã kế thừa những quy định của Cơng ước Viên 1980, do
đó việc phân loại thiệt hại để xác định mức bồi thường cho từng loại thiệt hại khá
tương đồng với nhau.
1.2.1 Giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp
Trong quan hệ hợp đồng thương mại, các bên ln đặt ra những mục đích để
mang lại lợi ích cho mình khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên do hành vi vi phạm của
một bên có thể làm cho bên kia khơng những khơng đạt được mục đích của việc
giao kết hợp đồng mà cịn làm cho bên bị vi phạm phải chịu những thiệt hại nhất
định. Những thiệt hại đó được xem là tổn thất thực tế, trực tiếp theo quy định tại
khoản 2 Điều 302 LTM 2005 thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi
thường những thiệt hại đó cho mình.
Thiệt hại thực tế là những thiệt hại có thể tính được thành tiền mà bên bị vi
phạm hợp đồng phải gánh chịu như hàng hóa mất mát, hư hỏng, chi phí để ngăn
chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra.
1.2.2 Khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng
Nội hàm của khái niệm “khoản lợi” là rất rộng, khoản lợi cũng chính là mục
đích mà hoạt động thương mại hướng tới ( khoản 1 Điều 3 LTM 2005). Tuy nhiên
giá trị khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên bị vi phạm được bồi thường gồm
những gì thì pháp luật thương mại Việt Nam hiện hành chưa quy định rõ. Điều 361
BLDS 2015 quy định thiệt hại được bồi thường gồm: tổn thất về tài sản, chi phí hợp

lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút.
Pháp luật dân sự nước ta không quy định rõ về khoản lợi đáng lẽ được hưởng như
Luật thương mại. Như vậy, khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng ở đây nằm trong
khoản lợi mà hợp đồng trong hoạt động thương mại hướng tới. Trên thực tế, chiếu
theo đặc điểm của hoạt động thương mại, khoản lợi ở đây thường là thu nhập, lợi
nhuận đạt được khi thực hiện hợp đồng và thường là khoản lợi về vật chất. Ví dụ: A
– Cơng ty xuất khẩu nông sản ký hợp đồng mua bán cà phê với B – Công ty thu


16
mua nông sản của nông dân. Do B giao hàng chậm, không đủ số lượng nên A không
thể xuất khẩu cà phê để bán theo hợp đồng với đối tác nước ngồi. Theo đó, phần
lợi nhuận mà A có được do xuất khẩu cà phê nếu như B giao hàng đủ, đúng hạn
chính là khoản lợi trực tiếp A có được từ hợp đồng với đối tác nước ngoài. Do đó, B
phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với khoản lợi đáng lẽ A có được nếu
như khơng có hành vi vi phạm hợp đồng của B, chưa tính đến việc A bị đối tác phạt
hay uy tín A đối với đối tác bị giảm sút (tổn thất phi vật chất)12.
Khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành
vi vi phạm là một trong hai loại thiệt hại đã được LTM 2005 quy định. Mặc dù đã
có quy định về bồi thường đối với thiệt hại này, tuy nhiên LTM 2005 vẫn chưa nêu
rõ cụ thể thiệt hại là khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng này bao gồm những
thiệt hại gì, cách xác định như thế nào và mức bồi thường ra sao.
Dù chưa có quy định riêng cụ thể về bồi thường cho loại thiệt hại này, nhưng
theo một cách thơng thường có thể hiểu được rằng: “ Khoản lợi trực tiếp đáng lẽ
được hưởng là khoản lợi đáng lẽ bên vi phạm được hưởng trong điều kiện bình
thường nếu như phía bên kia thực hiện đúng nghĩa vụ của mình”.
Trong quan hệ hợp đồng thương mại, khi giao kết hợp đồng các bên luôn xác
định trước lợi ích mà mỗi bên sẽ đem lại khi ký kết, lợi ích đó có thể là khoản lợi
trong hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,…. . Tuy nhiên vì hành vi vi
phạm hợp đồng do vơ tình hay cố ý của một bên gây thiệt hại cho bên cịn lại làm

cho bên bị vi phạm có thể mất đi khoản lợi đáng lẽ được hưởng đó. Vì vậy, pháp
luật thương mại Việt Nam đã đặt ra trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại là
khoản lợi đáng lẽ được hưởng.
Ví dụ, Thương nhân A ký hợp đồng mua tiêu của thương nhân B để bán lại
cho Cơng ty C và trong hợp đồng hai bên có thỏa thuận cụ thể thời gian giao hàng
là vào ngày 1/3/2018, địa điểm giao hàng tại cơ sở của thương nhân A và giá cũng
như phương thức thanh toán cũng được hai bên thoản thuận rõ ràng . Vào thời điểm
đó, Thương nhân A mua tiêu của thương nhân B với giá là 77.000 đồng/kg và A
cũng đã ký hợp đồng bán cho C với giá 80.000 đồng/kg. Đến ngày giao hàng nhưng
12

Nguyễn Đức Trọng (2016), Giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam, Luận văn thạc
sĩ luật học, Đại học luật TP.HCM, tr.28 -29


17
A khơng thấy B giao hàng cho mình, liên lạc với B cũng khơng thấy B giao hàng
cho mình, đợi mãi đến một tuần sau khơng thấy phản hồi gì từ B nên A đã đi mua
một lô hàng khác của D với giá 80.000 đồng /kg để kịp thời gian giao hàng cho C.
Sau khi đã giao hàng cho C, A yêu cầu B phải bồi thường thiệt hại do đã vi phạm
chậm giao hàng dẫn tới A phải mua hàng nơi khác với giá cao hơn để giao cho C .
Do đó, yêu cầu bồi thường của A trong tình huống này là phù hợp với thực tế
bởi hành vi vi phạm của B đã làm A mất thêm 3.000 đồng/kg để mua hàng của D và
khiến cho lợi nhuận so với tính tốn ban đầu A dự định bán cho C cũng đã bị giảm
sút 3.000 đồng/kg. Điều này làm cho A bị mất một khoản lợi trực tiếp mà đáng lẽ ra
được hưởng nếu bán hàng cho C nhưng do B không giao hàng đúng hạn đã khiến
cho A phải mua hàng từ một nơi khác với giá cao hơn để giao cho C nên A khơng
nhận được khoản lợi đó. Vì vậy số tiền 3.000 đồng/kg ở đây chính là khoản tiền lời
mà hay nói cách khác đó là khoản lợi trực tiếp mà lẽ ra A sẽ được hưởng từ việc bán
hàng cho C. Tuy nhiên do hành vi vi phạm của B nên A đã không được nhận khoản

lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng này, do đó việc bên A yêu cầu bên B bồi thường
đối với khoản lợi này là hợp lý. Khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng trong
trường hợp này là lợi nhuận mà bên mua đáng lẽ được hưởng trong giao dịch bán lại
hàng cho bên thứ ba nhưng đã bị mất do hành vi vi phạm hợp đồng của bên bán.
Như vậy, LTM 2005 đã nhanh chóng tiếp cận hệ thống pháp luật của một số
nước trên thế giới và Công ước Viên 1980 khi đặt ra quy định về bồi thường thiệt
hại đối với khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có
hành vi vi phạm của bên vi phạm. Việt Nam đã gia nhập và trở thành thành viên của
Cơng ước Viên 1980, trong đó CISG có quy định về bồi thường đối với loại thiệt
hại này, tuy nhiên CISG sử dụng cụm từ “khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ” thay vì sử dụng
“khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng” như LTM 2005. Dù tên gọi khác nhau
nhưng bản chất và chế tài bồi thường đối với loại thiệt hại này ở LTM 2005 và
CISG cũng khá tương đồng nhau. Điều 74 CISG quy định về mức bồi thường thiệt
hại như sau: “ Mức bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên
bao gồm giá trị tổn thất, kể cả khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ, mà bên bị vi phạm phải
chịu do bên vi phạm gây ra”. Như vậy, theo CISG, giá trị tổn thất bao gồm giá trị
giảm đi mà bên bị vi phạm phải gánh chịu (thiệt hại thực tế) và giá trị tăng thêm mà
bên bị vi phạm bỏ lỡ (khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ). Quy định này đã thể hiện triết lý


18
của CISG về mục đích tồn tại của chế tài bồi thường thiệt hại, đó là việc bồi thường
thiệt hại phải đặt bên bị vi phạm vào vị thế kinh tế mà họ có được trong trường hợp
bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng13.
1.3 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại đối với khoản lợi trực
tiếp đáng lẽ đƣợc hƣởng theo luật thƣơng mại 2005
Pháp luật là công cụ hữu hiệu dùng để quản lý xã hội, pháp luật cũng là
phương thức để công dân thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Trong bất cứ quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ kinh doanh, thương mại nói
riêng, pháp luật tơn trọng quyền tự do thỏa thuận giữa các bên, tuy nhiên sự thỏa

thuận đó khơng được vi phạm những điều cấm của luật và không trái với đạo đức xã
hội. Quy định này được thể hiện tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự 2015 như sau:
“Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình
trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận, mọi cam kết, thỏa thuận không vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các
bên và phải được chủ thể khác tơn trọng”.
Rõ ràng có thể thấy tinh thần pháp luật đã cho các bên quyền tự do thỏa thuận,
tơn trọng sự thiện chí, trung thực giữa các bên miễn là không vi phạm những điều
cấm của luật và trái với đạo đức xã hội. Tuy nhiên, khi xét đến tranh chấp giữa các
bên, ngoài tinh thần chung của pháp luật thì pháp luật cũng đặt ra những quy định
riêng để khi giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại bám sát vào thực tiễn
tranh chấp, thể hiện đúng bản chất của những tranh chấp và bảo vệ được các quyền,
lợi ích chính đáng cho các bên.
Do đó, khi giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại liên quan đến vấn
đề bồi thường thiệt hại, LTM 2005 ln được áp dụng, theo đó tại Điều 302 LTM
2005, về bản chất, bồi thường thiệt hại được đặt ra khi có tổn thất. Bên cạnh đó,
Điều 303 LTM 2005 quy định: “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại
Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu
tố sau đây:

13

Nguyễn Thế Đức Tâm, Phạm Ánh Dương, Bồi thường khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ theo công ước Viên 1980,
Nhà nước và pháp luật số 4, 2018, tr.28


×