Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.9 KB, 108 trang )

Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH
TỤNG TRONG PHIÊN TỒ XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ
ÁN HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò nguyên tắc tranh tụng trong phiên
toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
1.2. u cầu và tiêu chí hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự bảo
đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tịa xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự

7
7

25

Chương 2: THỰC TRẠNG TRANH TỤNG VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ BẢO ĐẢM NGUN TẮC TRANH TỤNG
TRONG PHIÊN TỒ XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM

2.1. Khái quát thực trạng tranh tụng trong tố tụng hình sự ở Việt
Nam từ 1992 đến nay
2.2. Thực trạng pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự và
những vấn đề đặt ra trong mơ hình tố tụng hình sự Việt Nam



41
41

52

Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH
TỤNG TRONG PHIÊN TOÀ XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ
ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM

3.1. Quan điểm hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm
ngun tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự ở Việt Nam
3.2. Giải pháp hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
3.3. Những đề xuất hồn thiện mơ hình tố tụng hình sự Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

68

68
70
86
97
99
100



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm qua, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân
thì vấn đề quyền con người và quyền cơng dân luôn được chú ý quan tâm và
đặc biệt coi trọng. Nhưng tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra
nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng ảnh hưởng đến q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế WTO.
Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều
cố gắng trong cơng tác tư pháp nên đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững
an ninh - chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, chất lượng cơng tác tư
pháp cịn chưa ngang tầm với u cầu và nhiệm vụ mà Đảng và Nhân dân
giao phó, cịn bộc lộ nhiều yếu kém, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội,
xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và
công dân. Những điều đó đã tạo nên dư luận xã hội khơng tốt, làm giảm lịng
tin vào nền cơng lý xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ra đời vào ngày 02/01/2002
được xem như sự mở đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Nghị
quyết này đề cập nhiều nội dung khác nhau của công tác tư pháp từ hoạt động
điều tra, truy tố xét xử cho đến việc đào tạo cán bộ Tư pháp, quy chế bổ
nhiệm, miễn nhiệm nhưng tăng cường yếu tố tranh tụng trong quá trình xét xử
vụ án hình sự được coi là điểm nhấn của cải cách tư pháp và là vấn đề trọng
tâm của Nghị quyết (nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên
toà, đảm bảo tranh tụng dân chủ với Luật sư, Người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác, v.v. Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định:
“Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử”), coi đây là khâu đột
phá của hoạt động tư pháp. Những tư tưởng quan điểm trên một mặt xác định



2
tranh tụng là một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp, mặt
khác đây cũng được coi là định hướng và yêu cầu thúc đẩy việc nghiên cứu
vấn đề tranh tụng trong hoạt động của Toà án. Vậy việc phán quyết của Toà án
phải căn cứ chủ quan vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, nhằm xác định sự
thật về vụ án bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến
vấn đề này như:
- Dương Thanh Biểu (2007), Tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
- Ngơ Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Học viện Tư pháp (2003), Tranh tụng tại phiên toà - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Đề tài khoa học.
- Nguyễn Bá Khuyến, “Chức năng của các chủ thể trong tranh tụng - Cơ
sở lý luận và thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2003
liên quan đến tranh tụng tại phiên tồ hình sự - Một số kiến nghị và giải
pháp”, Tạp chí Tồ án Nhân dân tối cao.
- Đào Trí Úc (2003), “Về vị trí, vai trò đặc trưng và các nguyên tắc hoạt
động tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tháng 6/2003.
- Nguyễn Thế Vụ (2002), “Một số vấn đề nâng cao chất lượng tranh
luận của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm hình sự”, Tạp chí
Kiểm sát.
Trong các cơng trình kể trên, các tác giả đã đề cập một cách khái quát về
vấn đề tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, hiện nay chưa có
cơng trình nào nghiên cứu nó một cách đầy đủ, có hệ thống và toàn diện theo
chiều sâu về tranh tụng với tính cách là một nguyên tắc trong hoạt động tố tụng



3
hình sự và Luận văn này khơng trùng lặp với bất cứ một cơng trình nào khác.
Đây cũng chính là lý do tại sao tác giả lựa chọn vấn đề này đề nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận về hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự
bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự; đánh giá thực trạng ngun nhân luận văn có mục đích đề xuất một số giải
pháp hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ
Nhằm mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu và làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trị ngun tắc tranh
tụng trong phiên tồ xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
- Nghiên cứu yêu cầu, tiêu chí hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
- Đánh giá thực trạng tranh tụng và thực trạng pháp luật tố tụng hình sự bảo
đảm ngun tắc tranh tụng trong phiên tồ xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
- Xác định quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và
những kiến nghị khác nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
hình sự, thực trạng nguyên tắc tranh tụng trong TTHS, những vấn đề đang đặt
ra và từ đó đề xuất một số giải pháp hồn thiện pháp luật TTHS bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong phiên tồ xét xử hình sự ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu



4
Đề tài tập trung phân tích, nghiên cứu luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn
của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự, những vấn đề đặt ra cả về
phương diện lý luận và thực tiễn.
Việc đưa ra các khuyến nghị trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh
giá, giải quyết các mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn khi thực hiện tranh
tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Luận văn nghiên
cứu thực trạng pháp luật tố tụng hình sự đã thể hiện nguyên tắc tranh tụng
như thế nào, quan điểm, giải pháp hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự, bảo
đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong cải cách tư pháp, xây dựng các cơ quan Tư pháp trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cơng dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân và vì dân.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan điểm
lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong quá trình chỉ đạo đổi
mới tổ chức, hoạt động của Bộ máy Nhà nước nói chung và cải cách tư
pháp nói riêng theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân và vì dân. Mặt khác Luận văn, có tham chiếu kinh nghiệm
nước ngồi trên quan điểm chắt lọc tinh hoa trí tuệ và kinh nghiệm của
nhân loại trong vấn đề thực hiện nguyên tắc tranh tụng để áp dụng vào
hoàn cảnh thực tế của Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các quan điểm, phương pháp nghiên cứu của Triết học
Mác - Lênin bao gồm: quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn còn kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: phương pháp phân tích tổng hợp và



5
phương pháp so sánh, phương pháp lôgic, đối chiếu, mô hình hố, phương
pháp quan sát, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, v.v.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn
Luận văn đóng góp phần làm rõ cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp
luật tố tụng hình sự, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tồ xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự.
Tổng kết và đánh giá một cách toàn diện và hệ thống thực trạng pháp
luật tố tụng hình sự bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự.
Đề xuất giải pháp hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự mang tính khả thi.
Đây là cơng trình nghiên cứu đề cập một cách hệ thống, tồn diện vấn đề
thực hiện tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự mà từ
trước đến nay chưa được nghiên cứu có hệ thống hoặc chỉ giải quyết ở một
khía cạnh nào đó của vấn đề. Trong luận văn tác giả đưa ra khái niệm, cơ sở,
phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện tranh tụng ở nước ta và đưa các
kiến nghị của mình về hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng và giải pháp khác nâng cao hiệu quả thực hiện tranh tụng trong
phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở nước ta.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là một cơng trình được tác giả nghiên cứu rất cơng phu và cố gắng
trong 01 năm mới có thể hồn thành. Luận văn là một cơng trình nghiên cứu
khoa học trình bày một cách có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn công
tác tranh tụng tại các phiên tồ hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự.
Trong q trình hồn thiện luận văn này tác giả đã dày công nghiên cứu
khoa học, các tài liệu của Hội thảo liên quan đến luận văn; những bài viết của
các tác giả đăng trên các Tạp chí, các Sách, Tạp chí Tồ án Nhân dân, Tạp chí



6
Viện Kiểm sát Nhân dân, Đặc san nghề Luật; Nghị quyết 08/NQ-TW; Thơng
tư Bộ Cơng an; Sách Chính trị Quốc gia; Đề tài khoa học cấp Bộ; Thông tin
khoa học xét xử; Tạp chí Dân chủ Pháp luật; Bình luận Bộ luật Tố tụng Hình
sự, các Báo cáo tổng kết hàng năm của Toà án Nhân dân tối cao; của Toà án
Nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh ở một số địa phương. Ngồi ra tác giả cịn
khai thác một cách cơng phu những thơng tin trên mạng internet có liên quan
đến Luận văn; trực tiếp trong xét xử của các Thẩm phán các cấp. Từ thực tiễn
xét xử của tác giả để đưa ra những kiến nghị nhằm thực hiện tranh tụng có
hiệu quả nhất. Những kiến nghị mà tác giả đưa ra vừa có ý nghĩa như một đề
xuất mang tính khoa học, góp phần hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự bảo
đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở
Việt Nam hiện nay vừa có giá trị thực tiễn góp phần vào việc thực hiện một số
nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét
xử mà Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 21/6/2005 của Bộ Chính trị coi là điểm
nhấn của cải cách tư pháp.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
chia thành 03 chương, 07 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG PHIÊN TỒ XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG PHIÊN TỒ XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ


1.1.1. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự
a. Khái niệm tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Hiện nay trong thực tiễn và khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác
nhau về tranh tụng. Theo từ điển Tiếng Việt thì tranh tụng được định nghĩa là
“sự kiện cáo nhau” giữa hai bên: bên nguyên đơn và bên bị đơn có lập trường
tương phản yêu cầu Toà án phân xử.
Xét về lịch sử ra đời, tranh tụng trong Tiếng Anh là “Adversarial” có
nghĩa là đối kháng, đương đầu. Tranh tụng xét về bản chất chính là cuộc đấu
tranh giữa hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên gỡ tội) mà việc
đương đầu diễn ra tại Toà án nơi diễn ra phiên tồ để thuyết phục quan tồ ra
phán quyết có lợi cho mình.
Xét về ngữ, tranh tụng là một từ Hán Việt được ghép thành từ “tranh
luận” và “tố tụng”. Do đó, suy diễn theo nghĩa Hán Việt, tranh tụng được xem
là tranh luận trong tố tụng.
Theo cách hiểu thông thường, tranh tụng là việc từng bên đưa ra các
quan điểm của mình và tranh luận lại bác bỏ một phần hay tồn bộ quan điểm
của phía bên kia.
Như vậy, mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau song tranh tụng được
xem là một loại hoạt động trong quá trình tố tụng hình sự. Tranh tụng khơng
chỉ địi hỏi Tồ án phát huy vai trị phán xét của mình để đưa ra sự thật khách


8
quan của vụ án mà còn đòi hỏi mỗi người tham gia hoạt động tố tụng phải
phát huy vai trò của mình. Cụ thể Tồ án giữ vai trị trung gian, trọng tài cho
cuộc tranh tụng giữa Luật sư và Cơng tố viên. Trong đó Luật sư giữ vai trị là
người bào chữa và bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, Công tố viên và cơ quan
Điều tra với vai trị là bên buộc tội để bảo vệ cơng lý. Hay nói khác khác,

tranh tụng trong phiên tồ chính là một trong các hoạt động tố tụng được tiến
hành bởi các bên tham gia tố tụng nhằm mục đích đưa ra các luận điểm, ý
kiến của mình để bảo vệ quan điểm hoặc bác bỏ luận điểm và những lời buộc
tội của phía bên kia dưới sự điều khiển của Toà án. Trong hoạt động tranh
tụng tại các phiên toà hình sự, Cơng tố viên hoạt động nhân danh Nhà nước
để buộc tội cho bị cáo; còn Luật sư lại hiện diện với vai trò là người bào chữa,
gỡ tội cho thân chủ của họ. Xét về mặt chủ thể, có thể dễ dàng nhận thấy mối
quan hệ pháp luật ở đây là mối quan hệ giữa cơ quan, cá nhân hoạt động nhân
danh Nhà nước với cá nhân hoạt động mang tính xã hội - nghề nghiệp. Tranh
tụng vì thế có đặc thù bất bình đẳng về vị trí pháp lý của chủ thể nên địi hỏi
phải có sự bình đẳng trong cách thức, quy trình và thủ tục tranh tụng, đảm bảo
quyền lực tố tụng được bình đẳng giữa các bên trong tranh tụng.
Trên thế giới hiện nay, tố tụng được phân chia là hai mơ hình chính.
Đó là tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn (hay còn gọi là tố tụng xét
hỏi). Việc phân loại này phụ thuộc nhiều vào tổ chức việc tư pháp nước đó
theo hệ thống pháp luật gì theo hệ thống án lệ hay hệ thống luật Châu Âu
lục địa. Thực tiến cho thấy rằng ở những nước Châu Âu thì mơ hình tố tụng
xét hỏi được sử dụng phổ biến. Còn ở các nước theo trường phái luật án lệ
như Anh, Mỹ, Úc, mơ hình này tuy có khác nhau về thủ tục, trình tự và các
biện pháp, cách thức để tham gia tố tụng thực hiện các hoạt động nghiệp vụ
của mình song đều giống nhau ở mục đích cơ bản là tìm ra sự thật khách
quan của vụ án thông qua hoạt động tố tụng, bảo vệ pháp luật, công lý và


9
đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Đồng thời phát huy vai trò của
các chủ thể tham gia quá trình tố tụng khác để khắc phục các hiện tượng
oan sai trong tố tụng hình sự.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu tranh tụng trong phiên tồ xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự là quá trình các bên tham gia tố tụng đưa ra

quan điểm, chứng cứ của mình và tranh luận để làm sáng tỏ sự thật của vụ án
trên cơ sở những chứng cứ không thể bác bỏ để Hội đồng xét xử phán quyết.
Ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu hoạt động tranh tụng được đặt trong
tổng thể của việc nghiên cứu hệ thống tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, tranh
tụng với ý nghĩa là một nguyên tắc của tố tụng hình sự đòi hỏi các chủ thể
tiến hành tố tụng, các cá nhân, cơ quan có liên quan phải có trách nhiệm đảm
bảo cho hoạt động tranh tụng được thực hiện trên thực tiễn đúng theo quy
định của pháp luật. Có đảm bảo tranh tụng công khai, khách quan, công bằng
và trực tiếp giữa các bên buộc tội và gỡ tội dưới sự điều khiển cơng minh,
chính trực của Thẩm phán thì sự thật khách quan mới được làm sáng tỏ. Như
vậy, pháp luật mới được thực hiện nghiêm minh, mới bảo vệ được quyền con
người, quyền công dân. Hoạt động tranh tụng từ đó địi hỏi phải được đặt
trong tổng thể các quy định của pháp luật.
Ngay từ khi mới ra đời, nền Tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của hệ thống Tư pháp của Pháp, đó là mơ
hình tố tụng thẩm vấn. Sau đó vào giai đoạn những năm1960, khi hệ thống tư
pháp Việt Nam có sự cải cách cơ bản thì ngay trong hệ thống cơ quan tư pháp
có sự phối hợp, ràng buộc lẫn nhau. Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, hoạt
động tranh tụng của Luật sư mặc dù chưa được quy định phù hợp với thực
tiễn xét xử song do có chịu nhiều ảnh hưởng của tố tụng tranh tụng nên Luật
sư đã và đang chuyển dần từ vai trò của người hỗ trợ cho hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng trong quá trình làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án để chuyển sang vai trị chính là người “gỡ tội”.


10
Những năm gần đây, đặc biệt kể từ sau khi có Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trọng tâm của công tác
tư pháp trong thời gian tới, vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự nói riêng
và tranh tụng trong các phiên toà được xem xét một cách khá toàn diện. Thực

tiễn đang có hai luồng ý kiến khác nhau.
Ý kiến thứ nhất cho rằng: cần phải chuyển mơ hình tố tụng của Việt
Nam sang mơ hình tố tụng tranh tụng nhằm đảm bảo sự bình đẳng, khách quan
trong quá trình tố tụng, phát huy yếu tố tranh tụng trong tất cả các khâu, các giai
đoạn tố tụng từ giai đoạn bắt tạm giữ, tạm giam, điều tra thu thập chứng cứ, truy
tố đến giai đoạn xét xử và thậm chí kể cả các giai đoạn thi hành án.
Ý kiến thứ hai cho rằng: ở Việt Nam, mơ hình tố tụng thẩm vấn đã vận
dụng và áp dụng mang lại nhiều hiệu quả thiết thực trong tổ chức và hoạt
động điều tra, truy tố và xét xử, đặc biệt là ở lĩnh vực hình sự. Hơn nữa, trong
tố tụng thẩm vấn đã bao hàm cả hoạt động tranh luận. Do đó, khơng cần thiết
phải chuyển đổi mơ hình tố tụng mà chỉ cần đưa nguyên tắc tranh tụng vào
trong tố tụng hình sự thì chất lượng dân chủ giữa Kiểm sát viên và luật sư
trong phiên toà xét xử sẽ mang lại hiệu quả cao trong hoạt động tố tụng.
Hai quan điểm này về mục đích đều chứa đựng những nét tương đồng và
hợp lý. Bởi lẽ, cho dù có đề nghị giữ ngun hay thay đổi quan điểm về mơ
hình tố tụng thì cả hai quan điểm đều khẳng định yếu tố tranh tụng là hết sức
cần thiết trong cả quá trình tố tụng.
Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng với truyền thống pháp luật của nước
ta thì mơ hình tố tụng thẩm vấn đang được đánh giá, nhìn nhận là phù hợp với
thực tiễn xét xử và trình độ pháp lý của Thẩm phán, Luật sư và Bị cáo cũng
như những người có liên quan. Sự thật khách quan của các vụ án không thể
phù thuộc nhiều vào hoạt động tranh tụng của Luật sư và Kiểm sát viên.
Thẩm phán với tư cách là đại diện cho Tồ án khơng thể và không hội đủ điều


11
kiện cần thiết chỉ để đóng vai trị trọng tài, khơng buộc tội, khơng gỡ tội như
mơ hình tố tụng tranh tụng. Bên cạnh đó, do tác động của yếu tố phân công
quyền lực trong tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước, khơng cho phép
Tồ án, Viện Kiểm sát và các cơ quan bổ trợ tư pháp độc lập với nhau và độc

lập với nhánh hành pháp, lập pháp. Sự độc lập chỉ tồn tại trong phiên tồ xét
xử.
Tranh tụng vì thế khơng thể được coi đồng nghĩa với tranh luận mà tranh
tụng cần phải được hiểu có nội hàm rộng hơn tranh luận. Trong tố tụng hình
sự, tranh tụng được xác định và ghi nhận là một nguyên tắc đặc trưng của
hoạt động tư pháp nói chung và tư pháp hình sự nói riêng. Tranh luận là một
thủ tục của phiên tồ hình sự mà trong đó bên buộc tội và bên bào chữa trên
cơ sở phân tích các chứng cứ, tài liệu về vụ án để đưa ra sự đánh giá pháp lý
đối với hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử về các vấn đề
phải giải quyết trong vụ án. Với cách hiểu như vậy, hoạt động tranh tụng tiến
hành tại phiên tồ theo một trình tự, thủ tục do pháp luật về tố tụng quy định.
Quá trình diễn ra hoạt động tranh tụng được bắt đầu từ khi khai mạc phiên toà
và kết thúc sau khi Toà án cơng bố phán quyết.
Do đó, tranh tụng trong tố tụng hình sự là tổng hợp các hoạt động và kỹ
năng nghề nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau diễn ra trong suốt quá
trình tố tụng, chủ yếu tại phiên toà dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tồ
trình nhằm mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người có hành vi phạm tội, bảo vệ pháp chế, pháp luật,
giám sát hoạt động tư pháp, bảo vệ công lý, tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật.
b. Đặc điểm tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Trong thực tiễn bất kỳ một mơ hình tố tụng hình sự nào trên Thế giới
cũng đều có mục đích làm sáng tỏ sự thật của vụ án trên cơ sở những chứng


12
cứ, lý lẽ khơng thể bác bỏ. Mục đích này khơng đồng nghĩa với việc phải tìm
ra tội phạm mà là tìm xem thực chất trong vụ án hình sự đó sự việc xảy ra
như thế nào. Có thể sự thật là khơng có hành vi phạm tội nào đã được thực
hiện hoặc cũng có thể đã có hành vi phạm tội. Đối với một vụ án hình sự cụ

thể thì mục đích của mơ hình tố tụng hay nói cách khác là mục đích của các
chủ thể tham gia là tìm xem sự thật có phải là bị cáo trong vụ án đó đã phạm
tội hay khơng.
Bảo đảm bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng trong việc đưa ra quan
điểm, chứng cứ, lập luận của mình. Các học giả pháp lý từ các nước thuộc hệ
thống Thông luật (Common law) cho rằng đối với mơ hình tố tụng tranh tụng,
ngồi mục đích tìm ra sự thật cịn có mục đích khác nữa là đảm bảo sự cơng
bằng (fairess) trong thủ tục tố tụng. Thực chất “công bằng” vừa có thể được
coi là một mục đích của mơ hình tố tụng tranh tụng vừa có thể được coi là
cách thức mà mơ hình tố tụng này sử dụng để đạt được mục đích tìm ra sự
thật khách quan. Để so sánh, có thể thấy rằng mơ hình tố tụng thẩm vấn cũng
có mục đích tìm ra sự thật của vụ án hình sự và cách thức mà họ áp dụng để
đạt được mục đích đó là huy động các cơ quan tố tụng của Nhà nước đi tìm tất
cả các bằng chứng có thể xác định sự thật khách quan; trong khi đó, mơ hình
tranh tụng chủ trương tìm ra sự thật khách quan bằng cách của mình từ đó
một người xét xử khách quan, tức là Bồi Thẩm đồn xác định ra sự thật chân
chính của vụ án. Chính vì vậy mơ hình tranh tụng thường được coi là dựa trên
thuyết “đối kháng” (fight theory) cịn mơ hình tố tụng thẩm vấn được coi là
dựa trên thuyết “sự thật” (truth theory). Nếu mơ hình tranh tụng dựa vào sự
va chạm của hai phiên bản sự thật (của Luật sư và của Cơng tố viên) để tìm sự
thật đích thực thì mơ hình thẩm vấn dựa vào trí tuệ của những người chuyên
nghiệp, gồm Điều tra viên, Công tố viên và Thẩm phán để tìm ra sự thật
khách quan của vụ án.


13
Giải pháp trước mắt để có thể tạo ra sự chuyển biến tích cực trong Tố
tụng Hình sự là tăng cường tính tranh tụng của phiên tồ sơ thẩm và coi đây là
khâu đột phá theo tinh thần của Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị. Phiên tồ sơ
thẩm có tính tranh tụng khơng chỉ làm thay đổi một cách cơ bản hoạt động

của các bên tranh tụng tại phiên toà và những người tham gia tố tụng khác,
thay đổi vai trị của Tồ án, tạo điều kiện khách quan cần thiết cho Bản án
cơng minh mà cịn có tác động lan toả tích cực đến hoạt động tố tụng ở các
giai đoạn khác, nhất là giai đoạn điều tra. Phiên tồ sơ thẩm tranh tụng chính
là con đường duy nhất để lấy lại niềm tin của người dân về cơng lý, về cơ
quan Tồ án ở nước ta hiện nay. Một phiên toà tranh tụng sẽ buộc hoạt động
của tất cả những chủ thể tham gia phiên toà kể cả hoạt động xét xử của chính
Tồ án và các chủ thể tham gia giai đoạn trước phiên toà sẽ phải chuyên
nghiệp hơn.
c. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Hiện nay có ba cách tiếp cận về khái niệm tranh tụng: tranh tụng là mơ
hình tố tụng, là cách thức hoạt động tố tụng hình sự theo những tiêu chí nhất
định trong thời kỳ lịch sử khác nhau của mỗi quốc gia dưới tác động của
nhiều yếu tố, điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá, truyền thống pháp lý, v.v,
tranh tụng là một quá trình (giai đoạn) vận động đấu tranh giữa các chức
năng đối lập nhau, có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ ý kiến, lập luận,
lợi ích của mình và phản bác ý kiến, lập luận, lợi ích của phía bên kia.
Thơng qua việc thực hiện chức năng xét xử, Toà án với tư cách là trọng tài,
điều khiển quá trình tranh tụng và kết thúc bằng bản án hoặc quyết định
của Toà án, tranh tụng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự, được hiểu là
những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo chi phối hành vi của các chủ thể tham gia
tố tụng và quá trình tố tụng.


14
Nghiên cứu các tài liệu khoa học pháp lý cho thấy, tố tụng hình sự Việt
Nam chịu ảnh hưởng bởi mơ hình tố tụng hỗn hợp, tức là vừa có thẩm vấn
(xét hỏi) vừa có tranh tụng. Mơ hình tố tụng chi phối đến các nguyên tắc và
giai đoạn tố tụng. Trong bối cảnh cải cách tư pháp, hoàn thiện và xây dựng
Nhà nước pháp quyền, việc xây dựng và hồn thiện các quy định về pháp luật

hình sự nói chung và hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về tố tụng
phải trên quan điểm thực tiễn, xuất phát từ điều kiện của Việt Nam và nhằm
phục vụ cho yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm. Do vậy, tranh tụng nên
chăng được bàn trong phạm vi mô hình tố tụng của Việt Nam hiện có trên cơ
sở tham khảo những điểm tích cực của các mơ hình tố tụng khác nhằm nâng
cao hiệu quả tranh tụng trong tố tụng hình sự.
Như đã trình bày ở trên, tranh tụng trong tố tụng hình sự là một nguyên
tắc, là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo chi phối hành vi của các chủ thể
tham gia tố tụng hình sự. Chúng ta coi tranh tụng là một nguyên tắc trong tố
tụng hình sự dựa trên các căn cứ:
Về mặt chủ trương, chính sách:
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm của cơng tác tư pháp trong thời gian tới đã đặt ra mục
tiêu trong cải cách tư pháp là khi xét xử các Tồ án phải đảm bảo cho mọi
cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm
phán và Hội thẩm Nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán
quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà,
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên,
Người bào chữa, Bị cáo, Nguyên đơn, Bị đơn dân sự và những người có
quyền và nghĩa vụ liên quan để đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp
luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định.


15
Nghị quyết số 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
ngày 02/6/2005 Đảng ta tiếp tục khẳng định việc tố chức đổi mới phiên toà
xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai, dân
chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử,
đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.

Về mặt pháp lý: Tuy Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 chưa chính thức
ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc nhưng thực tế những nội dung của
nguyên tắc tranh tụng thể hiện trong nhiều quy định của Bộ luật Tố tụng Hình
sự, đã được thể hiện cùng các nguyên tắc khác trong một thể thống nhất như
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cho Bị can, Bị cáo; ngun tắc suy đốn
vơ tội; ngun tắc xác định sự thật khách quan của vụ án; nguyên tắc pháp chế
XHCN. Bên cạnh đó, sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa đã được
đặt ra ngay trong giai đoạn điều tra, truy tố. Xét về bản chất, nguyên tắc tranh
tụng phụ thuộc nhiều nhất vào các quy định bảo đảm quyền bào chữa của bị can,
bị cáo và khả năng Luật sư, Người bào chữa thực hiện nhiệm vụ bào chữa của
mình. Vì vậy, tranh tụng và bình đẳng giữa các bên, cũng như các nguyên tắc
khác phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố bên ngoài, yếu tố pháp lý. Như vậy, Bộ luật
tố tụng Hình sự hiện hành chứa đựng nhiều nội dung của nguyên tắc tranh tụng.
Để tăng cường tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay
yêu cầu cải cách tư pháp thì vấn đề tranh tụng cần được nghiên cứu, bổ sung và
phát triển nâng lên thành nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật tố tụng Hình sự.
Về mặt nhận thức:
Tranh tụng là một quá trình tố tụng để đi đến chân lý khách quan của vụ
án hình sự. Quá trình tranh tụng trong tố tụng hình sự là một quy luật khách
quan. Đây chính là mục tiêu và nguyên tắc trong tố tụng hình sự ở các nước.


16
Hơn 20 năm kể từ khi Bộ luật Hình sự được ban hành, khoa học pháp lý
tố tụng hình sự Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định, trong đó có
mảng lý luận về nguyên tắc tố tụng. Cần chính thức ghi nhận nguyên tắc tranh
tụng là một nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam để nó
giữ vai trị chi phối và định hướng cho mọi hoạt động cũng như hành vi tố
tụng của tất cả các chủ thể tham gia vào q trình tố tụng và phải cụ thể hố
những nội dung của ngun tắc này trong tồn bộ tiến trình tố tụng hình sự.

Nguyên tắc trong Luật Hình sự được hiểu là những tư tưởng chủ đạo và
định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp luật hình sự (thực định), cũng
như trong việc giải thích và thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua một hay
nhiều quy phạm (hoặc định chế) của nó.
Như vậy, từ những phân tích trên, nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng, chi phối tồn bộ q trình xây
dựng và thực hiện pháp luật tố tụng hình sự.
Khái niệm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự được hiểu theo hai
nghĩa. Theo nghĩa hẹp, quá trình tranh tụng được tiến hành tại phiên tồ và bắt
đầu tại thời điểm cơng bố cáo trạng (giai đoạn thẩm vấn) và kết thúc khi bản án
có hiệu lực pháp luật. Do vậy, nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự chỉ
chi phối đến hoạt động tranh luận tại Toà, đặc biệt là phiên toà sơ thẩm. Theo
nghĩa rộng, nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự chi phối tồn bộ q
trình tố tụng, do đó ngun tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự còn chi phối
đến nội dung của pháp luật TTHS và tồn bộ q trình tố tụng từ khi có quyết
định khởi tố bị can và kết thúc khi bản án về vụ án đã có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự theo u cầu của sự nghiệp
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải đề cao các nguyên tắc
phản ánh bản chất, tính dân chủ, cơng bằng, nhân đạo và khơng ngừng tăng
cường vai trò pháp chế XHCN. Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
có ý nghĩa bao qt và quyết định đối với hoạt động tố tụng hình sự.


17
1.1.2. Đặc điểm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Thứ nhất: nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự chi phối tồn bộ
q trình, các hoạt động tố tụng hình sự và biểu hiện trong nhiều văn bản pháp
luật khác nhau, bao gồm: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Tổ
chức Tồ án Nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân, Luật Luật sư,
Pháp lệnh Tổ chức Điều tra Hình sự, v.v, có thể chia thành các nhóm quy định:

nhóm các quy định ghi nhận các nguyên tắc tố tụng hình sự trong đó chứa nội
dung nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự; Nhóm các quy định về quyền
và nghĩa vụ các chủ thể tham gia tranh tụng; Nhóm các quy định về trình tự, thủ
tục tranh tụng tại phiên tồ và Nhóm các quy định pháp luật về các điều kiện
khác bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự.
Thứ hai: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự chi phối hoạt động
tranh tụng diễn ra chủ yếu tại phiên toà.
Về bản chất, tranh tụng trong tố tụng hình sự là quá trình cọ sát các quan
điểm, lập luận về vụ án giữa các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa
tham gia vào quá trình tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khách quan của vụ
án, nhưng quá trình tranh tụng khơng đồng nhất với q trình tố tụng hình sự.
Có ý kiến cho rằng q trình tranh tụng bắt đầu không chỉ từ giai đoạn
khởi tố vụ án mà cả các giai đoạn trước khởi tố và quá trình này sẽ kết thúc
khi vụ án được xét xử xong, thậm chí q trình này lại cịn được tiếp tục trong
một số trường hợp khi bản án bị Toà án cấp trên huỷ để tiến hành điều tra,
truy tố, xét xử lại. Những người đồng tình với ý kiến này cho rằng: tranh tụng
là một quá trình xác minh sự thật khách quan về vụ án đồng thời cũng là
phương tiện để đạt được mục đích và nhiệm vụ của tố tụng hình sự. Có thể
nói rằng quan điểm này chưa có cơ sở để thuyết phục. Bởi lẽ việc tranh tụng
trong điều kiện mà ở đó chỉ có chủ thể của hai bên buộc tội và bào chữa tham
gia, các chức năng buộc tội và bào chữa mới chỉ được hai bên thực hiện một
cách đơn phương theo ý chí chủ quan của mình là phiến diện. Quá trình tranh


18
tụng ở đây còn thiếu một chủ thể giữ vai trị quyết định đó là Tồ án với chức
năng xét xử. Vì vậy, quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự
hiện hiện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát
của Tồ án, v.v. Chính vì vậy mà q trình này chỉ có thể được bắt đầu từ giai
đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử sơ thẩm tại phiên tồ.

Tại đây, với sự có mặt đầy đủ các chủ thể, q trình tranh tụng được tiến
hành thơng qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa
và Toà án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và xét xử. Tại
phiên toà phúc thẩm, Giám đốc thẩm và tái thẩm, quá trình tranh tụng vẫn còn
tồn tại song bị hạn chế hơn cả về nội dung, chủ thể tham gia và các chức năng
được thực hiện. Phạm vi tranh tụng bị giới hạn bởi nội dung kháng cáo, kháng
nghị. Do đó, các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử cũng không được thực
hiện đầy đủ như ở phiên toà sơ thẩm. Như vậy, có thể khẳng định rằng nguyên
tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự chi phối giai đoạn tranh luận tại Tồ án, ở
đó có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bào chữa và xét xử. Tuy nhiên ở
đây cần chú ý rằng để tiến hành được việc tranh tụng và tranh tụng có hiệu quả
các bên cần phải có thời gian và các điều kiện cần thiết để thu thập các chứng cứ,
tài liệu và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng.
Ở các giai đoạn trước và sau phiên toà, các bên buộc tội và bên bào
chữa tiến hành các công việc điều tra, thu thập chứng cứ, chuẩn bị lý lẽ và
các căn cứ pháp lý, v.v, và đây có thể coi là các cơng việc chuẩn bị cho
hoạt động tranh tụng để thực hiện tốt các chức năng bào chữa và chức năng
buộc tội khi diễn ra hoạt động tố tụng tại Tồ án. Có thể khẳng định rằng,
các quyết định của bên buộc tội trong giai đoạn này chưa có giá trị pháp lý
cuối cùng và cao nhất; tương tự, các ý kiến đề nghị, phản đối hoặc yêu cầu
của bên bào chữa đối với bên buộc tội trong giai đoạn điều tra, truy tố cũng
chỉ là sự thể hiện ý kiến ý kiến đơn phương và không phải là bắt buộc đối


19
với các cơ quan tiến hành tố tụng. Khẳng định như vậy khơng có nghĩa là
ngun tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự khơng chi phối đến giai đoạn
này, nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự chi phối tồn bộ q trình
tố tụng với các quy định pháp luật tương ứng; tuy nhiên, nguyên tắc tranh
tụng trong tố tụng hình sự ảnh hưởng và chi phối trực tiếp nhất là hoạt

động tố tụng diễn ra tại Toà án với sự hiện diện đầy đủ của ba chủ thể thực
hiện ba chứ năng tương ứng.
Thứ ba: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự thể hiện sự phân
định rõ ràng các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử với các chủ thể
tương ứng (bên buộc tội, bên gỡ tội và Tồ án), trong đó Tồ án ln giữ vai
trị là trung tâm và quyết định trong hoạt động tố tụng.
Tham gia vào quá trình tranh tụng có nhiều chủ thể khác nhau và do vị
trí, vai trò khác nhau nên mỗi chủ thể tham gia thực hiện một chức năng hoặc
một phần chức năng tố tụng.
Xuất phát từ quan điểm cho rằng tranh tụng bắt đầu từ khi khởi tố vụ án,
những người theo quan điểm này cho rằng chủ thể tham gia vào quá trình
tranh tụng bao gồm tất cả những chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng hình
sự. Cụ thể là: cơ quan điều tra, điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên;
Người bị hại, Nguyên đơn dân sự, Bị đơn dân sự và Người đại diện hợp pháp
của họ, Bị can, Bị cáo, Người bị kết án, Người bào chữa, Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân. Hoạt động tranh tụng chỉ thực sự bắt đầu từ giai đoạn xét xử
tại phiên tồ, chính vì vậy mà chủ thể tham gia tranh tụng chỉ bao gồm: Bị cáo
và Người bào chữa; Kiểm sát viên - đại diện cho Viện Kiểm sát và Người bị
hại (trong trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại);
Hội đồng xét xử tương ứng với ba chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự đó
là buộc tội, bào chữa và xét xử. Các chủ thể khác như: Cơ quan điều tra, Điều


20
tra viên, Bị can, không phải là chủ thể của tranh tụng mà họ chỉ tham gia vào
việc chuẩn bị cho q trình tranh tụng mà thơi.
Thứ tư: Ngun tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự bảo đảm thực hiện
các chức năng tố tụng. Trong tố tụng hình sự bao gồm ba chức năng cơ bản
đó là: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử.
Chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự cũng chính là các chức năng cơ

bản trong tranh tụng. Điểm khác nhau cơ bản giữa chúng chính là thời điểm
xuất hiện các chức năng, nếu trong tranh tụng hình sự thì cả ba chức năng cơ
bản đều ln cùng tồn tại, nếu thiếu một trong ba chức năng thì điều đó cũng
có nghĩa là chưa xuất hiện tranh tụng. Nhưng trong tố tụng hình sự, so với
chức năng xét xử thì chức năng buộc tội và bào chữa xuất hiện sớm hơn và
song song tồn tại với nhau. Quan điểm rất đúng đắn khi cho rằng: có chức
năng buộc tội mà khơng có chức năng bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang
tính chất một chiều và kết buộc chứ khơng phải là tranh tụng. Tố tụng hình sự
khơng thể được thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội khơng có đối
tượng là chức năng bào chữa. Chỉ có sự song song tồn tại hai chức năng trên
mới có thể tạo ra sự tranh tụng giữa các bên - điều kiện cần thiết để xác định
chân lý khách quan của vụ án.
Thứ năm: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự được lồng ghép
thể hiện thơng qua các nguyên tắc khác trong pháp luật tố tụng hình sự. Tuy
khơng trực tiếp ghi nhận ngun tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự là một
nguyên tắc độc lập, Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam đã có nhiều quy định
chứa đựng nội dung của nguyên tắc tranh tụng như: Nguyên tắc bảo đảm pháp
chế XHCN (Điều 3), Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân (Điều 4), Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi cơng dân
trước pháp luật (Điều 5), Ngun tắc khơng ai bị coi là có tội và phải chịu
hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật (Điều


21
9). Nói đến vai trị của tranh tụng là nhấn mạnh vai trò của Luật sư, của các cá
nhân và đề cao các quyền cơ bản của con người. Thẩm phán chỉ đóng vai trị
một người trọng tài khách quan và công minh, ra phán quyết trên cơ sở chứng
cứ mà các bên chứng minh tại Toà. Nguyên tắc tranh tụng hình sự địi hỏi phải
có sự tn thủ những vấn đề như sau:
+ Tuân thủ đòi hỏi việc chứng minh phải thực hiện cơng khai ngay tại Tồ;

+ Tranh tụng phải được tiến hành dưới sự giám sát của Bồi thẩm đồn và
Thẩm phán;
+ Tranh tụng ln phải chịu sức ép từ bên đối tụng;
+ Mục đích của việc áp dụng nguyên tắc trang tụng là các bên phải tự
chứng minh được lẽ phải thuộc về phía mình, nếu khơng họ sẽ là người thua
cuộc.
1.1.3. Vai trị của ngun tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự
Vai trị của ngun tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự được xem xét
thơng qua ba quy tắc cơ bản định hình cho mọi thủ tục trong hệ thống tranh
tụng. Đó là:
Quy tắc thứ nhất là quy tắc thủ tục (Rule of procedure): Trong giai đoạn
trước và sau khi xét xử. Trong tố tụng hình sự, quy tắc về thủ tục bao gồm
một loạt các quy định giúp các bên chuẩn bị chứng cứ trước khi bước vào xét
xử các chứng cứ và là một thủ tục tư pháp hành chính để Tồ án xem xét các
chứng cứ đã đủ cho việc mở phiên toà xét xử sơ thẩm chính thức hay chưa
nhằm mục đích tránh những thủ tục điều tra có thể diễn ra khơng cần thiết tại
Toà. Quy tắc về thủ tục được xác định càng chặt chẽ bao nhiêu thì độ chính
xác càng được nâng lên, tính tuỳ tiện của các cơ quan công quyền càng được
khắc phục. Công lý và lẽ phải càng có cơ sở được khẳng định trong quyết
định xét xử của Thẩm phán.


22
Quy tắc thứ hai là quy tắc về chứng cứ (Rule of evidence): quy tắc về
chứng cứ đảm bảo sự thống nhất của các yếu tố trong hệ thống tranh tụng.
Mục đích của nó là nhằm chặn việc sử dụng những chứng cứ khơng đáng tin
cậy có thể làm cho Toà án đưa ra phán quyết trên cơ sở những thơng tin sai
lệch. Đồng thời, nó cũng nghiêm cấm sử dụng chứng cứ có thể gây ra những
định kiến khơng công bằng cho một trong các bên tham gia tố tụng.

Với những quy định trong quy tắc về chứng cứ, nguyên tắc tranh tụng
đảm bảo sự trung lập và thụ động của Tồ án trong q trình xét xử. Hơn nữa
quy tắc về chứng cứ cũng tạo điều kiện ràng buộc Luật sư (kể cả của các bên
và Luật sư của cơ quan công tố) để họ biết được những chứng cứ nào có thể
được chấp nhận tại Tồ trong khi xét xử. Nó cũng là cơ sở để xác định thẩm
quyền của Thẩm phán chủ toạ điều hành phiên tồ theo các diễn biến của nó
theo đúng thủ tục. Khác với hệ tố tụng thẩm vấn, Thẩm phán chủ toạ phiên
tồ khơng có quyền lựa chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất mà phải
tuân thủ các quy tắc về chứng cứ đã được xác định trước.
Quy tắc thứ ba là quy tắc điều chỉnh về đạo đức ứng xử của Luật sư (Rule of
ethics), Thẩm phán, Bồi thẩm đồn và Những người có quyền và nghĩa vụ liên
quan.
Do tính chất cạnh tranh, đối đầu khốc liệt của hệ tranh tụng dẫn tới tình
trạng cần phải thắng trong cuộc đối đầu tại phiên toà (kể cả bằng bất cứ giá
nào), vì vậy hệ thống tranh tụng cịn đặt ra một loạt các quy tắc về đạo đức
nghề nghiệp để kiểm soát đội ngũ Luật sư của các bên và đội ngũ Thẩm phán,
Điều tra viên. Đạo đức của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
là một trong những yêu cầu khi áp dụng nguyên tắc tranh tụng. Bởi lẽ những
thủ đoạn hay hành vi che dấu, làm sai lệch thơng tin có thể làm cho Tồ án có
định kiến đều bị pháp luật ngăn cấm và loại trừ. Hơn nữa quy tắc về đạo đức
hành nghề Luật sư, Thẩm phán, Điều tra viên, v.v. còn đòi hỏi Luật sư phải


23
trung thành với quyền lợi của thân chủ như chính quyền lợi của mình, Thẩm
phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, v.v.
Như vậy, với vai trò của nguyên tắc tranh tụng thông qua 3 quy tắc này
có thể thấy rằng, trong tố tụng hình sự ngun tắc tranh tụng đảm bảo việc
không trao cho ai quyền độc tôn trong xét xử, không một bên tham gia nào có
thể chiếm ưu thế hơn bên kia, kể cả Thẩm phán chủ toạ. Áp dụng nguyên tắc

tranh tụng trong tố tụng hình sự cho phép khẳng định rằng: trong tố tụng hình
sự quyền lực được phân chia và giới hạn một cách rõ ràng giữa Thẩm phán,
Công tố viên và Luật sư bào chữa. Trong đó, Cơng tố viên là người đại diện
cho Nhà nước buộc tội người bị tình nghi trước Tồ án; Luật sư bào chữa là
người biện hộ cho người bị tình nghi phạm tội trước lời buộc tội của Công tố
viên. Với các lập luận của mình, họ có quyền phản bác lại các chứng cứ buộc
tội do Công tố viên đưa ra. Đây là yếu tố rất quan trọng bảo đảm cho người bị
tình nghi có đủ các điều kiện pháp lý bảo vệ mình trong quá trình tranh tụng.
Ngược lại, các chứng cứ do bên gỡ tội đưa ra cũng có thể bị bên công tố phản
bác lại trên cơ sở lập luận của họ. Đây chính là thủ tục kiểm tra chéo về
chứng cứ trong tố tụng hình sự như đã nêu trên. Tuy nhiên để xác định kết quả
của quá trình kiểm tra chéo chứng cứ và quá trình cân bằng quyền hạn, vị trí
(giữa Cơng tố viên và Luật sư bào chữa khơng ai có lợi thế hơn ai về thẩm
quyền trong quá trình xét xử hình sự) cho thấy sự bình đẳng và độc lập mang
tính tuyệt đối. Tính khách quan và công minh được khẳng định trong thực tiễn
tố tụng. Đây là một đặc điểm cơ bản xác định được vai trò của nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng tranh tụng, nơi mà hầu hết quyền lực tập trung vào
Thẩm phán trong giai đoạn xét xử. Nguyên tắc tranh tụng coi việc xem xét
một con người bị tình nghi phạm tội bị phán xét như thế nào quan trọng hơn
là việc xác định họ đã làm gì trên thực tế, xem xét tội trạng của họ thiên về
khía cạnh pháp lý hơn. Nếu được áp dụng trong mô hình tố tụng thẩm vấn thì


24
nguyên tắc tranh tụng không bị mất đi ý nghĩa, vai trị của nó mà càng phát
huy tính cơng bằng, cơng lý và cơng khai trong tồn bộ q trình tố tụng hình
sự.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, trong mơ hình tố tụng thẩm vấn phiên
tồ được xác định là giai đoạn điều tra cơng khai tại Tồ và ở đó Thẩm phán
khơng những là người điều khiển phiên tồ mà cịn là người thẩm vấn chính

có nhiệm vụ thẩm tra lại tất cả các chứng cứ do các bên thu thập được trong
giai đoạn điều tra trước đó. Điều này đi ngược lại với tinh thần chứng cứ được
đánh giá cơng khai, khách quan tại Tồ án. Nếu giữ nguyên các cách thức như
vậy, gánh nặng xét xử sẽ đè nặng vào Thẩm phán, vai trò của Thẩm phán lấn
át vai trò của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng. Sự thật khách quan của vụ án chưa chắc đã được xác định cụ thể và
làm sáng tỏ. Tồn bộ quy trình tố tụng hình sự có thể sẽ bị đưa ra xem xét
lại nếu trên thực tiễn, ý chí chủ quan của Thẩm phán được đề cao. Tính
khách quan khơng được đảm bảo. Do đó, địi hỏi vai trị của ngun tắc
tranh tụng trong tố tụng hình sự phải được áp dụng ở cả hai mơ hình tố
tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng.
Như vậy, có thể khẳng định: vai trị của nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng hình sự được xác định ở các khía cạnh như sau:
Một là: vai trị bảo đảm cho hoạt động tố tụng hình sự là một hoạt động
đảm bảo quyền con người, quyền công dân một cách tối đa.
Nguyên tắc tranh tụng bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực hiện đầy
đủ quyền tố tụng của mình; đồng thời thực hiện việc tranh tụng cũng có nghĩa
là các cơ quan tiến hành tố tụng, các bên tham gia tranh tụng phải thực hiện
nghĩa vụ tố tụng của mình để bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực hiện
các quyền tố tụng tương ứng.
Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự bảo đảm cho người tham gia tố
tụng có các điều kiện pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình liên


×