Đề Bài: Phân tích vai trò của hoạt động nhận thức trong các giai đoạn tố tụng
( Điều tra vụ án hình sự, xét xử vụ án hình sự, giáo dục cải tạo phạm nhân). Rút ra
kết luận cần thiết.
Bài làm.
A. PHẦN MỞ BÀI.
Trong quá trình tiến hành các giai đoạn của Tố tụng hình sự của Việt Nam hiện
nay, vấn đề về vai trò của hoạt động nhận thức được đánh giá là có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Vì thế, để hoạt động nghiên cứu tâm lí này có thể giữ được vai
trò cơ bản và quan trọng đó cũng như để nó được thực hiện một cách có hiệu quả
trong quá trình tố tụng thì vấn đề đặt ra là cần phải nâng cao hơn nữa sự hiểu biết
về hoạt động nhận thức đến từng chủ thể tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể
khác. Vì thế, từ quá trình nghiên cứu lí luận và tìm hiểu về thực tiễn thực hiện các
hoạt động tư pháp trong quá trình tố tụng ở Việt Nam hiện nay. Tôi xin chọn đề tài
: “Phân tích vai trò của hoạt động nhận thức trong các giai đoạn tố tụng ( Điều tra
vụ án hình sự, xét xử vụ án hình sự, giáo dục cải tạo phạm nhân). Rút ra kết luận
cần thiết” để haofn thành bài nghiên cứu khoa học cuối kì môn Tâm lí học Tư
pháp của mình.
Trong quá trình hoàn thành bài nghiên cứu này, tôi xin được gửi lời cảm ơn
chân trọng nhất đến các thầy cô giáo bộ môn Tâm lí học Tư pháp_ Khoa Pháp
Luật Hình Sự_Trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ tôi rất nhiều, tạo điều kiện
để tôi hoàn thành đề tài của mình theo đúng thời gian quy định.
B. PHẦN NỘI DUNG.
I. Khái niệm ,
I.1. Hoạt động nhận thức trong tố tụng hình sự.
Theo nguồn tài liệu giáo trình Tâm lí học Tư pháp_ Trường đại học Luật Hà Nội
thì “hoạt động nhận thức là quá trình tâm lí phản ánh hiện thực khách quan và bản
thân con người thông qua các cơ quan cảm giác và dựa trên những hiểu biết vốn
liếng của kinh nghiệm đã có của bản thân”(tr 46.).
I.2. Hoạt động điều tra.
Theo tài liệu Từ điển bách khoa toàn thư, thì hoạt động điều tra được hiểu là
“hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động ĐT nhằm xác định tội phạm của người có hành vi phạm tội,
lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ
quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Hoạt động
ĐT phải tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm
rõ những chứng cứ xác định có tội hoặc vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm của bị can. Mọi hoạt động ĐT phải tuân theo pháp luật, chấp
hành các nguyên tắc và thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.”
I.3 Hoạt động xét xử.
Theo tài liệu Từ điển bách khoa toàn thư, hoạt động xét xử được định nghĩa như
sau: “hoạt động của các toà án được tổ chức và tiến hành trên cơ sở những nguyên
tắc nhất định và theo một trật tự do luật định nhằm xem xét và giải quyết các vụ án
hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình và những vụ việc khác do pháp luật
quy định thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân. Hoạt động XX nhằm bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật, giáo dục mọi người có ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật. Hoạt
động XX chỉ do toà án thực hiện”. Điều 127 Hiến pháp 1992 của Việt Nam quy
định: “Toà án Nhân dân Tối cao, các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân
sự là những cơ quan XX của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hoạt động
XX được tiến hành trên những nguyên tắc: công khai; bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật; XX tập thể; bảo đảm cho bị can, bị cáo quyền bào chữa và các
nguyên tắc khác. Hoạt động XX được tiến hành theo một trật tự do pháp luật quy
định. Hoạt động XX ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm có những nhiệm vụ cụ thể của mình.”
I.4. Hoạt động giáo dục, cải tạo.
Hiện nay, hoạt động giáo dục cải tạo phạm nhân là biện pháp chế tài của nhà nước
áp dụng đối với những người phạm tội mà đã có bản án của tòa án tuyên người đó
là có tội và phải chịu hình phạt. hoạt động cải tạo diễn ra khi người đó đang chấp
hành hình phạt tù, hoạt động này nhằm giáo dục nhân cách cũng như nghề nghiệp
cho phạm nhân để sau khi đã chấp hành xong hình phạt tù học có thể nhanh chóng
hòa nhập được vào cộng đồng xã hội.
II. Vai trò của hoạt động nhận thức trong các giai đoạn tố tụng.
II.1. Tổng quan về hoạt động nhận thức trong hoạt động tư pháp
Như trên ta đã trình bày về khái niệm của hoạt động nhận thức. qua đó ta có thể
thấy : Hoạt động nhận thức là một bộ phận, một mặt hoạt động rất cơ bản và
không thể thiếu được của hoạt động tư pháp. Bởi vì trong hoạt động tư pháp, thì
hoạt động nhận thức luôn đảm bảo được quá trình thu thập chứng cứ, tài liệu và
đánh giá, phân tích cụ thể các chứng cứ, tài liệu đó để làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ án. Đồng thời cũng giúp chúng ta có thể nắm bắt được thái độ, hành
vi cũng như những đặc điểm tâm lí của những người tham gia tố tụng, qua đó mà
đưa ra các phương thức, phường pháp tác động đến tâm lí của những người tham
gia tố tụng.
Trong hoạt động tư pháp, hoạt động nhận thức có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất. Quá trình nhận thức là quá trình phát triển của tất cả các thành phần của
hoạt động tư pháp. Nhận thức chính là phương tiện để thực hiện các hoạt động
khác trong hoạt động tư pháp.
Thứ hai. Hoạt động nhận thức trong hoạt động tư pháp chủ yếu mang tính chất
gián tiếp.
Thứ ba. Trong hoạt động nhận thức của quá trình tố tụng, các cơ quan tiến hành tố
tụng thu nhận được khối lượng thông tin rất lớn từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng
những thông tin cần thiết, lien quan trực tiếp đến vụ án thường bị thiếu hụt, khó
xác định. Vì thế, những người tiến hành tố tụng phải có khả năng tạo ra các mô
hình tư duy về sự kiện đã xảy ra, đối chiếu các mô hình này với thực tế và rút ra
kết luận về thực tế của sự kiện.
Thứ tư. Hoạt động nhận thức trong hoạt động tư pháp lien quan chặt chẽ với các
thủ tục tố tụng. hoạt động nhận thức trong quá tình tố tụng luôn mang sắc thái tình
cảm cao, được tiến hành trong trạng thái tâm lí căng thẳng.
Thứ năm. Nhận thức bị hạn chế về thời gian.
II.2. Vai tò của hoạt động nhận thức trong các giai đoạn của quá trình tố
tụng hình sự.
II.2.1 Vai trò của hoạt động nhận thức trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Dựa trên những đặc điểm trên của hoạt động nhận thức. Ta nhận thấy, trong quá
trình điều tra vụ án hình sự, hoạt động nhận thức được đánh giá là thành phần chủ
yếu trong cấu trúc tâm lí của hoạt động điều tra tội phạm. Trong quá trình này,
hoạt động nhận thức gắn liền với việc thu thập, nghiên cứu các sự kiện đã xảy ra,
nghiên cứu nhân cách của bị can. Đồng thời, thông qua hoạt động nhận thức sẽ tạo
điều kiện cho các Điều tra viên thu thập, chọn lựa, đánh giá các nguồn tin nhận
được, qua đó đề ra những giả định về mối liên hệ giữa các sự kiện của vụ án.
Hoạt động nhận thức trong quá trình tiến hành điều tra vụ án hình sự chủ yếu dựa
vào quá trình nhận thức của các Điều tra viên. Cụ thể:
Trong quá trình nhận thức, các Điều tra viên không chỉ tự mình giải quyết những
vấn đề phát sinh trong quá trình tư duy mà còn tự mình đưa ra những nhiệm vụ tư
duy để có thể khôi phục lại những sự kiện đã xảy ra, hoặc ủy nhiệm cho người
khác khôi phục lại những sự kiện đã xảy ra. Việc nhận thức những sự kiện của vụ
án thực hiện thông qua việc xây dựng mô hình tội phạm trên cơ sở những thông tin
thu thập được cùng với các thông tin bổ trợ khác. Ngoài ra, Điều tra viên cũng
phải xây dựng mô hình tư duy về mối liên hệ biện chứng giữa các sự kiện đã xảy
ra với những sự kiện thực tại. vì thế, đòi hỏi các điều tra viên phải nghiên cứu kĩ
lưỡng các thông tin, đánh giá chính xác các sự kiện và đề ra hướng hành động,
kiểm tra các giả định.
Trong quá trình nhận thức, điều tra viên phải luôn chủ động để phân tích các
nguồn thông tin. Sự phong phú về thông tin vụ án, kết hợp cùng với những tin tức
chưa đầy đủ hiện có là điều kiện giúp quá trình tư duy của điều tra viên về vụ án
gặp nhiều thuận lợi, từ đó mà nhanh chóng xây dựng được mô hình chính xác về
vụ án đã xảy ra.
Đặc biệt, trong quá trình điều tra vụ án hình sự thì hoạt động nhận thức của các
điều tra viên được thể hiện ở sự tâp trung thần kinh cao độ. Vì thế mà đòi hỏi các
điều tra phải có sự chuẩn bị tâm lí. Thông qua hoạt động nhận thức, điều tra viên
có thể khôi phục lại mô hình của sự kiện đã xảy ra theo các phương thức: trực tiếp
nhận thức những sự kiện của thực tế khách quan hoặc nhận thức về các nguồn tin
do người khác cung cấp khi không có điều kiện trực tiếp xem xét. Vì thế, khi thực
hiện hoạt động nhận thức thì ở điều tra viên thường nảy sinh hai quá trình liên
quan mật thiết với nhau, đó là: Nhận thức về sự kiện cần thiết cho việc xây dựng
mô hình xảy ra và nhận thức về những người cung cấp thông tin có liên quan đến
vụ án.
Như vậy, qua sự phân tích cụ thể trên. Ta thấy: Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
vai trò của hoạt động nhận thức chủ yếu thể hiện thông qua quá trình nhận thức
của các điều tra viên. Và nó đóng vai trò chủ đạo, có vị trí trung tâm(vì nó có tầm
ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động khác sẽ diễn ra ở các giai đoạn sau), và là
hoạt động có tính chất cơ sở, là phương tiện để tiếp tục thực hiện các giai đoạn
sau. Sở dĩ trong giai đoạn này hoạt động nhận thức giữ vai trò chủ đạo, bởi vì mục
đích của giai đoạn này là thu thập các thông tin về vụ án nhằm để xác minh sự thật
mang tính khách quan của vụ án. Do đó, các điều tra viên trong quá trình điều tra
vụ án cần có sự nhận thức đúng đắn và khách quan về các sự kiện cũng như tình
tiết của vụ án,cũng như xây dựng nên mô hình tư duy đúng đắn về vụ án.
II.2.2. Vai trò của hoạt động nhận thức trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
Như ta vừa phân tích ở trên, trong giai đoạn điều tra thì hoạt động nhận thức giữ vị
trí cơ bản, chủ yếu, nhưng bước sang giai đoạn xét xử thì hoạt động giữ vai trò cơ
bản và chủ đạo không phải là hoạt động nhận thức nữa mà là hoạt động thiết kế.
Bởi vì, mục đích cuối cùng của giai đoạn này là đòi hỏi phải ra được quyết định
đúng về vụ án đã xảy ra, và đó cũng là nhiệm vụ cơ bản của Tòa án. Nhưng hoạt
động thiết kế của Tòa án chỉ có thể diễn ra và thực hiện có kết quả khả thi chỉ sau
khi đã thực hiện đúng đắn các yêu cầu của hoạt động nhận thức trên cơ sở kiểm
tra, đánh giá những chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong hồ sơ điều tra vụ án
của cơ quan điều tra chuyển sang.
Tòa án muốn thực hiện được hoạt động thiết kế một cách dễ dàng và có kết quả
đúng đắn thì mọi thông tin cần thiết phải được thu thập tương đối đầy đủ và chính
xác ngay từ trong giai đoạn điều tra. Bởi vì, tài liệu điều tra sẽ tạo ra điều kiện để
Tòa án có thể dễ dàng xác định được mô hình vụ án và hành vi phạm tội cũng như
mối quan hệ giữa chúng. Dựa trên cơ sở của hoạt động điều tra thu thập chứng cứ
và tìm kiếm những thông tin cần thiết mà Tòa án có thể trọn lọc và hệ thống hóa
thông tin, qua đó mà có thể nhận thức về các tình tiết của vụ án cũng như tình tiết
liên quan đến vụ án được dễ dàng hơn. Bởi vì, tất cả các thông tin về vụ án cũng
như mô hình của vụ án đã được thể hiện khá rõ ràng và cụ thể trong hồ sơ điều tra
của cơ quan điều tra , qua nghiên cứu hồ sơ đó sẽ giúp cho Tòa án có cách nhìn
toàn diện và đúng đắn về vụ án.
Tuy hoạt động nhận thức của cơ quan điều tra giúp cho công tác xét xử của Tòa án
được dễ dàng hơn, nhưng kết luận về tài liệu của cơ quan điều tra chỉ mang tính sơ
bộ. Vì thế, Tòa án phải có quá trình nghiên cứu và kiểm tra lại mô hình này tại tòa.
Do đó, xét hỏi về các tình tiết của vụ án là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét
xử, là giai đoạn quan trọng nhất, giai đoạn độc lập trong hoạt động xét xử để nhằm
xác minh sự thật của vụ án. Đây chính là yếu tố tìm kiếm của hoạt động nhận thức.
Hoạt động nhận thức của Tòa án là quá trình nhận thức những chứng cứ mang tính
gián tiếp cao. Lí do chủ yếu là vì trong các vụ án hình sự, Tòa án không tiếp xúc
trực tếp với vụ án, không tham gia vào giai đoạn điều tra mà chỉ tiếp nhận chứng
cứ, tài liệu thông qua điều tra viên. Từ đó, trong giai đoạn điều tra, điều tra viên
phải có những biện pháp củng cố tài liệu thu thập một cách đầy đủ và các tài liệu
đó phải giúp cho Tòa án nhận thức được chứng cứ,xây dựng mô hình tư duy về vụ
án cần nghiên cứu một cách dễ dàng hơn.
Trong quá trình nhận thức, Tòa án cần phải đối chiếu mô hình về hành vi phạm tội
với điều luật cụ thể. Ở trong hồ sơ điều tra, các điều tra viên đã chỉ ra những điều
luật có thể áp dụng đối với tội phạm. Nhưng các thẩm phán vẫn cần phải kiểm tra
cẩn thận về tính đúng đắn của sự đối chiếu đó, thẩm phán phải đối chiếu một cách
cụ thể và có khoa học, có căn cứ về các hành vi phạm tội với các điều luật tương
ứng.