Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Ths-Lich su Dang-Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hội nhập kinh tế quốctế từ năm 2001 đến năm 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.46 KB, 110 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, thế giới đứng trước những biến
động to lớn, phức tạp, đặc biệt trong lĩnh vực quan hệ quốc tế. Các nước
XHCN lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của chế độ
XHCN ở Đông Âu và Liên Xô. Kinh tế tri thức xuất hiện, cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ trên thế giới ngày càng phát triển nhanh chóng, tác
động sâu sắc đến mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa và xã hội của
các quốc gia, dân tộc. Đồng thời cũng thúc đẩy xã hội hóa sản xuất vật chất,
tạo ra những bước nhảy vọt về chất, đẩy mạnh việc cơ cấu lại nền kinh tế, tạo
ra nhiều ngành kinh tế mới.
Tồn cầu hóa đã trở thành xu thế nổi bật trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Quá trình ấy diễn ra đặc biệt sôi động trong lĩnh vực kinh tế. Thực tiễn
cho thấy rằng, đây chính là một q trình tất yếu khách quan, bắt nguồn từ sự
phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại - yếu tố
hàng đầu tạo nên bước phát triển đột phá về chất của lực lượng sản xuất. Cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đã và đang là nguồn lực thúc đẩy mạnh mẽ
q trình chun mơn hóa, phân cơng lao động và hợp tác giữa các quốc gia,
làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hóa cao độ. Những tiến bộ về khoa
học, đặc biệt là những phát triển vượt bậc trong lĩnh vực tin học và viễn
thông, đã thu hẹp khoảng cách không gian địa lý giữa các quốc gia, châu lục,
làm cho các nước gắn kết với nhau chặt chẽ hơn. Do vậy, các quốc gia trong
cộng đồng thế giới đã có những điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại của mình
nhằm thích ứng và phù hợp với tình hình mới.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển như
vũ bão và xu thế tồn cầu hóa kinh tế đang diễn ra sơi động, sự nghiệp đổi
mới nước ta thời gian vừa qua đạt được những thành tựu to lớn trong quá


2


trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) góp phần đưa nước ta thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, đẩy lùi cuộc bao vây, cấm vận của Mỹ và các thế
lực phản động, ổn định chính trị - xã hội, củng cố và nâng cao vị thế của dân
tộc Việt Nam trên trường quốc tế. Song bên cạnh đó, cũng cịn nhiều khuyết
điểm, yếu kém, nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong quá trình HNKTQT.
Quá trình HNKTQT cần được tiếp tục tổng kết, đánh giá đúng thành
tựu, hạn chế và rút ra những bài học vận dụng vào thời kỳ mới, đưa sự nghiệp
đổi mới tiếp tục tiến lên phấn đấu vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng XHCN. Với ý nghĩa đó, tác
giả chọn đề tài: "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hội nhập kinh tế quốc
tế từ năm 2001 đến năm 2009" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách HNKTQT của
Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới là đề tài hấp dẫn đối với nhiều nhà
nghiên cứu. Trên cả bình diện lý luận và thực tiễn vấn đề HNKTQT đã có
nhiều cơng trình khoa học đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau: Bộ Ngoại
giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội; Kim Ngọc (1996), Các khối kinh tế trên thế giới, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội; Bộ Ngoại giao (1999), Tồn cầu hoá và hội nhập kinh tế của Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Trọng Phúc (1999), Vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phan Ngọc Liên (1995), Tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh về một số vấn đề quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Hồng
Chí Bảo (2001), Tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế của Việt Nam - mấy vấn đề
phương pháp luận nghiên cứu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Ban Tư tưởng
- Văn hóa Trung ương (2001), Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Bộ Ngoại giao - Vụ



3
hợp tác kinh tế đa phương (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế
tồn cầu hóa: Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Đinh
Xuân Lý (2002), Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội; Kim Ngọc (2004), Kinh tế thế giới 2003: Đặc điểm và triển
vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lê Hữu Nghĩa, Lê Ngọc Tịng (2004),
Tồn cầu hố những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Nguyễn Thanh Uẩn (2005), Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương
(2005), Đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Hồng Anh Tuấn (2007), Đánh giá tiến trình APEC và tác động đối với Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyến Hữu
Cát, Nguyễn Thị Quế (2008), Hợp tác liên kết ASEAN hiện nay và sự tham
gia của Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Nhóm các bài được đăng trên các tạp chí, tiêu biểu: Trần Quang Cơ
(1991), "Dân tộc và thời đại - Thời cơ và thách thức", Tạp chí Thơng tin lý
luận,(1); Vũ Khoan (1991), "Một số vấn đề quốc tế của Đại hội VII", Tạp
chí Quan hệ Quốc tế; Nguyễn Quang Hùng (1991) "Lịch sử thế giới và
việc của chúng ta muốn là bạn của tất cả các nước", Tạp chí Nghiên cứu lý
luận; Lê Hữu Nghĩa (1998), "Tồn cầu hóa: Những vấn đề chính trị - xã
hội", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (22); Nguyễn Thúy Anh (2001), "Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Cộng sản, (12); Nguyễn Tấn Dũng
(2002), "Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ
nghĩa", Báo Nhân Dân (9); Nguyễn Xuân Lý (2004), "Kinh nghiệm hội
nhập quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới", Tạp chí Lý luận chính trị, (9);
Đào Vân Anh (2006), "Việt Nam - thành viên thứ 150 của WTO - Dấu mốc
mới trong tiến trình hội nhập quốc tế", Tạp chí Thơng tin đối ngoại, (11);
Nguyễn Hồng Giáp (2008), "Q trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước
ta trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Lịch sử Đảng, (11); Trần Thành



4
(2009), "Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Lý luận chính trị, (11)...
Nhóm các luận án, luận văn có các cơng trình: Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ 1986 - 1996, Luận án tiến sĩ của Vũ Quang
Vinh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2000; Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo thực hiện đường lối đối ngoại trong những năm đổi mới từ
1991 đến 2001, Luận án thạc sĩ của Dương Thị Huệ, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh năm 2004; Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hội nhập kinh tế
quốc tế từ năm 1991 đến 2001 của Nguyễn Chí Sơn, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh năm 2006; Đảng Cộng sản Việt Nam với việc đổi mới tư duy
hoạt động đối ngoại trong công cuộc đổi mới (1986 - 2001), Luận án thạc sĩ của
Phan Trọng Tám, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội năm 2003.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Làm rõ sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng với những kinh nghiệm trong
lãnh đạo HNKTQT từ năm 2001 đến năm 2009.
Nhiệm vụ:
- Trình bày những cơ sở để Đảng tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh HNKTQT
theo đường lối đổi mới.
- Hệ thống hóa chủ trương, đường lối HNKTQT; làm rõ sự đúng đắn,
sáng tạo của đường lối đó; các phương pháp và cách thức thực hiện đường lối
từ năm 2001 đến năm 2009.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế, từ đó bước đầu đúc rút một số
kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo HNKTQT từ 2001 đến 2009.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đường lối, chủ trương và thực tiễn lãnh đạo
của Đảng trong HNKTQT.



5
- Phạm vi nghiên cứu: Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
HNKTQT từ 2001 đến 2009
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về HNKTQT.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin;
kết hợp chặt chẽ phương pháp lịch sử với phương pháp lơgíc, tổng hợp, phân
tích, so sánh.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Trình bày và phân tích một cách hệ thống đường lối, chính sách
HNKTQT và q trình chỉ đạo của Đảng từ năm 2001 đến năm 2009.
- Bước đầu đúc rút một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo
HNKTQT ở nước ta.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Lý luận: Góp thêm ý kiến để tiếp tục hoàn thiện lý luận về xây dựng
kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam trong lĩnh vực phát triển
kinh tế đối ngoại, HNKTQT.
- Thực tiễn: Góp thêm ý kiến tổng kết thực tiễn, chỉ ra những kinh
nghiệm thành công để Đại hội XI của Đảng phát huy thắng lợi, khắc phục khó
khăn, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng đất nước đến năm 2020 cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


6

Chương 1
CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRƯỚC NĂM 2001

Vào thập kỷ cuối của thế kỷ XX, thế giới và khu vực có nhiều biến
động to lớn, phức tạp, có những đột biến lớn làm thay đổi cục diện kinh tế,
chính trị thế giới, đặt ra cho các nước, các dân tộc nhiều vấn đề mới bao gồm
những cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát triển và cả những khó khăn, thách
thức không nhỏ.
Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt ít có khả năng xảy ra, nhưng các
cuộc xung đột vũ trang với quy mô và cường độ khác nhau, chiến tranh cục
bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo và lãnh thổ nổ ra ở nhiều nơi, nhiều cuộc xung
đột từ nhiều năm trước vẫn chưa có giải pháp cơ bản.
Cách mạng khoa học - công nghệ tiếp tục phát triển với mức độ ngày
càng tăng thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc
tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội. Nét nổi bật là dưới tác động của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế thế giới đang ở giai đoạn quá độ
chuyển sang loại hình kinh tế mới - kinh tế tri thức hay kinh tế mới - với
những đặc điểm hồn tồn khác với loại hình trước. Q trình tồn cầu hóa
kinh tế có bước phát triển mới, trở thành xu thế khách quan, lôi cuốn ngày
càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có
hợp tác, vừa có đấu tranh. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định sức mạnh tổng
hợp quốc gia và ngày càng đóng vai trị quan trọng trong quan hệ quốc tế.
Các nước Đơng Nam Á đang ở thời kỳ chuyển hóa sâu sắc về chính trị
và kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997 làm cho vị thế ở
các nước Đơng Nam Á khơng cịn như trước. Những hậu quả của cuộc khủng
hoảng này đã dẫn đến tình trạng làm mất ổn định về chính trị - xã hội khá



7
nghiêm trọng ở một số nước, đặc biệt là Inđônêxia và Philippin. Mặc dù kinh
tế khu vực đang phục hồi nhưng vẫn chưa vững chắc do kinh tế phụ thuộc
nhiều vào bên ngồi, nhất là kinh tế Mỹ. Mơi trường hịa bình, ổn định và phát
triển của khu vực chưa thật bền vững, tiềm ẩn một số nhân tố gây mất ổn định.
Trong quan hệ quốc tế nổi lên những xu thế chủ yếu là hịa bình, ổn
định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân
tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước đều ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi
kinh tế là yếu tố quyết định. Các quốc gia dù lớn hay nhỏ đều tham gia ngày
càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh
tế, thương mại. Hợp tác và cạnh tranh diễn ra gay gắt. Các dân tộc nâng cao ý
thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh chống lại sự áp đặt và can
thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa của dân tộc.
Các nước XHCN, đảng cộng sản, công nhân quốc tế và các lực lượng cách
mạng tiến bộ khác nhau trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hịa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các nước có chế độ chính trị - xã hội khác
nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại hịa bình.
Bối cảnh quốc tế có những thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến nước ta:
sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xơ đã gây ảnh hưởng
khơng tốt về chính trị, tư tưởng, làm một số người hoài nghi đối với CNXH,
giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng
tình hình trên, ráo riết thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình bằng những thủ
đoạn về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hố và qn sự rất thâm độc. Chính
quyền Mỹ vẫn duy trì chính sách bao vây, cấm vận, ngăn cản các nước và các
tổ chức quốc tế quan hệ kinh tế với Việt Nam.
Công cuộc đổi mới đã đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh chóng,
nền kinh tế thay đổi một cách cơ bản, từ chỗ hàng hóa khan hiếm, đến nay
đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế. Tình
hình đó đặt ra u cầu cấp bách là phải tiêu thụ để tái sản xuất mở rộng -



8
nhân tố "đầu ra" lúc này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hơn nữa, phải thúc
đẩy xuất khẩu ra thị trường bên ngồi vì thị trường nội địa sức mua chưa
cao. Do đó, vì lợi ích đất nước, nước ta phải chủ động và tích cực HNKTQT
khu vực và thế giới. Mặt khác, trên thế giới xu thế toàn cầu hóa đang phát
triển nhanh chóng, gia tăng mạnh mẽ về quy mơ và phạm vi giao dịch hàng
hóa, dịch vụ xuyên quốc gia, dòng vốn đầu tư lan tỏa ra tồn cầu, cơng nghệ,
kỹ thuật truyền bá nhanh chóng và rộng rãi. Cục diện đó vừa tạo ra những
khả năng mới để mở rộng thị trường, thu hút vốn, công nghệ, vừa đặt ra
thách thức về nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế và sự cạnh tranh gay
gắt. Nền kinh tế nước ta là một bộ phận khơng tách rời nền kinh tế thế giới,
do đó phải tận dụng thời cơ, đồng thời sẵn sàng chủ động ứng phó với những
nguy cơ thách thức.
Sự nghiệp đổi mới được khởi xướng vào lúc đất nước đang trong tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng. Ở bên ngồi, tình hình thế
giới có nhiều biến động với những diễn biến phức tạp, bất lợi cho cách mạng
Việt Nam. Trong quan hệ quốc tế, xuất hiện nhiều xu thế mới khác với thời
chiến tranh lạnh. Tỉnh táo và sáng suốt, Đảng đã phân tích sâu sắc thực trạng
đất nước, tìm được nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội và lý
do dẫn đến việc các nước bao vây, cấm vận Việt Nam. Trên cơ sở đó, Đảng đề
ra chủ trương và chính sách đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt
Nam, phù hợp với xu thế khu vực và quốc tế. Về kinh tế đối ngoại, Đại hội
lần thứ VI của Đảng xác định:
Muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nước ta
phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết chủ yếu là
mở rộng quan hệ phân công lao động quốc tế, hợp tác tồn diện với
Liên Xơ, Lào, Cămpuchia, với các nước khác trong cộng đồng xã
hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa
học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp



9
phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngồi trên ngun
tắc bình đẳng, cùng có lợi [18, tr.48].
Nghị quyết Đại hội còn xác định những nội dung chính của chính sách
kinh tế đối ngoại có liên quan đến việc đẩy mạnh xuất nhập khẩu, thống nhất
quản lý ngoại hối, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, khuyến khích đầu tư
trực tiếp nước ngồi, hợp tác quốc tế về xuất khẩu lao động, phát triển các
dịch vụ du lịch, vận tải và hàng không quốc tế… nhằm thực hiện thành công
Nghị quyết của Đại hội trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, tháng 12/1987 Luật
đầu tư nước ngồi đã được Quốc hội thơng qua, đây là cơ sở quan trọng thu
hút vốn đầu tư từ nước ngồi. Những bước đi đó trên thực tế đã mang lại kết
quả tích cực cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước.
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1988) Về nhiệm vụ và chính sách
đối ngoại trong tình hình mới, đã chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với
cách mạng nước ta và khẳng định:
Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố
và giữ vững hịa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển
kinh tế. Đó là nhân tố quyết định củng cố, giữ vững an ninh và
độc lập…cần phải có quan điểm mới về an ninh và phát triển
trong thời đại ngày nay để khẳng định mạnh mẽ phương hướng
ưu tiên tập trung cho sự nghiệp giữ vững hịa bình và phát triển
kinh tế [75, tr.7].
Trong tình hình mới, để tạo điều kiện và cơ hội nhằm giữ vững hịa
bình, tập trung cho sự phát triển, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị xác định
quan điểm: Trong quan hệ quốc tế, chúng ta phải "thêm bạn, bớt thù", ra sức
tranh thủ các nước anh em bầu bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, phân hóa
hàng ngũ đối phương, làm thất bại âm mưu bao vây, cô lập về kinh tế, chính
trị; kiên quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu

tranh và hợp tác cùng tồn tại trong hịa bình.


10
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI
(3/1989), tiếp tục quán triệt chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, tham gia
tích cực vào phân công lao động quốc tế, chuyển mạnh hoạt động ngoại giao
từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế, mở rộng quan
hệ kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiếp đó, Hội
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (3/1990 ), coi việc mở
rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm "thêm bạn, bớt thù" là một trong
những nhiệm vụ cấp bách và quán triệt không để các vấn đề cục bộ, tạm thời,
thứ yếu cản trở việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược của ta; nêu cao tinh thần
độc lập, tự chủ, đồn kết quốc tế phù hợp với tình hình mới; đa dạng hóa quan
hệ quốc tế, đẩy lùi từng bước chính sách bao vây, cấm vận đối với Việt Nam.
Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, chế độ chính trị - xã hội ở các nước
XHCN ở Đơng Âu đã thay đổi, Đảng nhấn mạnh yêu cầu của công tác đối
ngoại là phải nhận thức nhạy bén và dự báo được những diễn biến trong quan
hệ quốc tế, sự phát triển của lực lượng sản xuất và xu thế quốc tế hóa nền
kinh tế thế giới để có những chủ trương đối ngoại phù hợp. Đại hội VII
(6/1991) đã chỉ rõ: "Đất nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, công cuộc đổi mới còn những mặt hạn chế, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội
nóng bỏng chưa được giải quyết" [28, tr.258]. Đó là khó khăn lớn nhất trong
thời kỳ này. Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Nghị quyết Đại hội nêu rõ: "Thị
trường mở ra còn chậm và bấp bênh, chưa có nhiều mặt hàng chủ lực có sức
cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường vững chắc, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm thơ cịn
lớn. Quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại còn nhiều sơ hở" [34, tr.229].
Về hoạt động kinh tế đối ngoại, Đại hội VII đã chủ trương: "Gắn thị trường
trong nước với thị trường thế giới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu dùng trong
nước với xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa" [28, tr.276]. Như vậy,

Đảng đã xác định chủ trương gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế
là một trong những nội dung của HNKTQT và là bước phát triển lơgíc tất yếu


11
sau khi chúng ta đã cơ bản thống nhất được thị trường trong nước theo cơ chế
một giá được xác lập trên cơ sở cung - cầu của thị trường. Đây là một chủ
trương đúng đắn nhằm không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế
thông qua sự mở rộng từng bước phạm vi, mức độ và đối tượng cạnh tranh
trên thị trường nội địa, khu vực và toàn cầu.
Đại hội VII đã xác định các nguyên tắc HNKTQT của ta là: "Đa dạng hóa
và đa phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi" [28, tr.363].
Đồng thời, Đại hội chỉ rõ: "Tiếp tục coi trọng các thị trường truyền thống,
đồng thời nhanh chóng thâm nhập thị trường mới, mở rộng thị trường khu
vực" [28, tr.271]. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội, chúng ta đã thực
hiện đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các thị trường truyền thống như

Liên

bang Nga, các nước SNG, các nước Đông Âu và các quốc gia châu Á, châu
Phi... Thực tế cho thấy, kết quả của việc củng cố phát triển quan hệ đối ngoại
với bạn bè truyền thống khơng những góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế và tác động không nhỏ tới tiến trình cải thiện, thiết lập
quan hệ và mở rộng quan hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới.
Những bước đi quan trọng đầu tiên này đều được triển khai dưới sự chỉ
đạo chặt chẽ và kịp thời của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương
Đảng. Tại Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) tháng 6/1992, khi bàn về chính
sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại, đã nêu rõ chủ trương mở rộng quan hệ với

các tổ chức quốc tế, trong đó nhấn mạnh: Cố gắng khai thông quan hệ với các Tổ
chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng thế
giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)... ; mở rộng quan hệ với các tổ
chức hợp tác khu vực, trước hết với khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Trên cơ sở quan điểm đối ngoại, Đảng coi trọng việc mở rộng quan hệ
hữu nghị, hợp tác với các nước Châu Á - Thái Bình Dương và có chủ trương


12
tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với từng nước láng giềng cũng như đối
với các nước ASEAN, sẵn sàng gia nhập ASEAN vào thời điểm thích hợp.
Đồng thời, chúng ta sẵn sàng tham gia các cuộc đối thoại song phương và đa
phương, trước hết giữa các nước trong khu vực, để tìm ra những biện pháp
hữu hiệu bảo đảm ổn định, hịa bình, an ninh trong khu vực trên cơ sở bảo
đảm an ninh của mỗi nước và phát triển quan hệ bình đẳng với từng nước
tham gia diễn đàn, khơng làm gì ảnh hưởng đến nước thứ ba.
Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1/1994)
tiếp tục quán triệt chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại
và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại; tiếp tục coi trọng thị trường truyền
thống, đồng thời nhanh chóng thâm nhập thị trường mới, mở rộng thị trường
khu vực. Để thực hiện tốt chủ trương này, Đảng ta đã khẳng định quyết tâm
xây dựng nền kinh tế mở cả trong và ngồi nước, kiên trì chiến lược hướng
mạnh về xuất khẩu: "Không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường
trong nước, thị trường khu vực và thị trường quốc tế" [28, tr.407].
Trước sự phát triển mới của tình hình thế giới và khu vực, vấn đề đặt ra
là cần phải tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác khu vực, xây dựng các
mối quan hệ lâu dài trên cơ sở lợi ích chung về an ninh và hợp tác phát triển
với các nước láng giềng, tạo môi trường khu vực hịa bình, thuận lợi, đồng
thời tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế với tất cả các nước lớn, các
trung tâm kinh tế, chính trị thế giới, đặc biệt là ở khu vực châu Á - Thái Bình

Dương. Chú trọng thích đáng quan hệ với các nước lớn, vì đây là những nhân
tố ảnh hưởng đáng kể đến an ninh và phát triển của khu vực Đông Nam Á và
Việt Nam. Cần có đối sách thích hợp để vừa giữ vững lập trường nguyên tắc
và lợi ích của đất nước, vừa phải có sách lược linh hoạt, khôn khéo để phát
triển quan hệ với các nước, xử lý hài hịa lợi ích của Việt Nam với lợi ích an
ninh và phát triển của các quốc gia láng giềng, khu vực để tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


13
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã đánh giá
tình hình phát triển của quan hệ quốc tế và cho rằng hịa bình, ổn định và
hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và
các quốc gia trên thế giới. Các nước giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi
phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh
tổng hợp của nước mình, tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và
liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực
hoạt động khác, hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt
giữa các quốc gia. Từ đó Đại hội khẳng định "Nhiệm vụ đối ngoại trong thời
gian tới là củng cố mơi trường hịa bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi
hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước" [17, tr.120].
Đại hội khẳng định và cụ thể hóa chủ trương xây dựng một nền kinh tế
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu
quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường quốc tế; mở rộng quan hệ quốc tế,
hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế
và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của
nhau, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Đại
hội khẳng định mạnh mẽ việc phải đẩy nhanh quá trình HNKTQT của Việt Nam

theo lộ trình phù hợp; tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại.
Đại hội VIII chỉ rõ mục tiêu của chương trình phát triển kinh tế đối
ngoại từ năm 1996 đến năm 2000 là: "Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng bình
quân hàng năm khoảng 28% (chưa kể phần xuất khẩu tại chỗ)… Tổng kim
ngạch nhập khẩu tăng bình quân hàng năm 24%” [28, tr.569]. Với phương
châm chỉ đạo tăng nhanh tỷ trọng hàng hóa đã qua chế biến trong kim ngạch
xuất khẩu, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, vật liệu và hàng sơ chế.


14
Hướng nhập khẩu là tập trung vào nguyên liệu, vật liệu, các loại thiết bị công
nghệ đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Từng bước thay thế nhập khẩu
những mặt hàng có thể sản xuất có hiệu quả ở trong nước. Tiếp theo việc gia
nhập ASEAN và chuẩn bị cho việc tham gia AFTA, cần xúc tiến việc tham gia
vào các tổ chức APEC và WTO, từng bước tham gia các hoạt động của hệ
thống ưu đãi phổ cập với các nước đang phát triển, áp dụng các chuẩn mực
thương mại quốc tế và lựa chọn tham gia một số hiệp hội xuất khẩu quốc tế về
từng mặt hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên, từ cuối năm 1996 trở đi, khi các yếu tố về đổi mới cơ chế, tổ
chức quản lý đã được khai thác một cách tương đối đầy đủ, sự phát triển về
chiều rộng đã bộc lộ những hạn chế, chất lượng tăng trưởng và phát triển theo
chiều sâu chưa được chú trọng, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại,
tác động mạnh đến nước ta cả phương diện đầu tư trực tiếp nước ngoài và thị
trường xuất khẩu. Trước tình hình đó, ngày 18/11/1996, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết số 01/NQ-TW về: "Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5
năm 1996 - 2000". Trên cơ sở đánh giá sát, đúng những kết quả, những thiếu
sót trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại từ khi tiến hành đổi mới đến cuối năm
1996, Nghị quyết đề ra nhiệm vụ và phương hướng giải pháp, cơ chế, chính
sách chủ yếu về phát triển kinh tế đối ngoại thời kỳ 1996 - 2000. Về nhiệm vụ

của kinh tế đối ngoại, Nghị quyết nêu rõ:
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại nhằm góp
phần đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện
thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 1996 - 2000 và chuẩn
bị cho sự phát triển vào đầu thế kỷ XXI theo các nguyên tắc độc lập
tự chủ, tơn trọng chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi; kết hợp
chặt chẽ kinh tế đối ngoại với chính trị đối ngoại, quốc phịng, an
ninh, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc [21, tr.630].


15
Để thực hiện tốt mục tiêu đó cần đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại
theo định hướng XHCN; tăng cường sức cạnh tranh trên trường quốc tế, góp
phần thúc đẩy lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới, tranh thủ
ngày càng nhiều vốn đầu tư công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến
từ nước ngoài và từng bước đầu tư ra nước ngoài góp phần tích cực làm biến
đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động trong nước, mở rộng hợp tác quốc
tế; thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại
nhưng có trọng tâm, trọng điểm, khai thác lợi thế so sánh của ta và tận dụng
xu thế phát triển của thế giới và khu vực, tạo được nhiều thị trường ổn định,
chú trọng những thị trường lớn.
Về phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại từ năm 1996 - 2000,
Nghị quyết chỉ rõ: "Xuất khẩu là hướng chiến lược trọng điểm của kinh tế đối
ngoại nhằm tăng tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân 28%/năm... Kiên quyết
từng bước giảm nhập siêu, tiến tới thăng bằng xuất - nhập" [21, tr.631-632].
Trên cơ sở phương hướng đó, Đảng và Nhà nước phải khẩn trương
hồn thiện cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhanh thu hút
vốn đầu tư trực tiếp của nước ngồi, thí điểm các hình thức đầu tư gián tiếp
như bán cổ phiếu doanh nghiệp, phát hành trái phiếu ra nước ngoài…

Đặc biệt, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các nước đang phát
triển về nguồn vốn ODA, trong xu thế vốn ODA ít có triển vọng gia tăng
mạnh mẽ, điều kiện cung cấp có chiều hướng giảm bớt tính ưu đãi, cần tiếp
tục vận động thu hút nguồn lực này. Sử dụng vốn vay thương mại cho đầu tư
chiều sâu đổi mới trang thiết bị, dây chuyền sản xuất, mua vật tư, nguyên
liệu... để tạo ra hàng xuất khẩu nhiều, chất lượng cao, tạo công ăn việc
làm, phát triển ngành nghề ở các vùng nông thôn, miền núi, ven đô, Nhà
nước quản lý tập trung, chỉ đạo và kiểm tra chặt chẽ, bảo đảm sử dụng có
hiệu quả và trả nợ các khoản vay thương mại cho tất cả vốn vay ODA
(cũng như mọi khoản vay khác), phải được tính tốn sử dụng một cách có


16
hiệu quả, bảo đảm có khả năng trả được nợ. Phát triển đa dạng và mạnh
mẽ các loại hình dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ hàng không, hàng hải,
bưu chính viễn thơng, kiều hối, xuất khẩu chun gia và lao động, dịch vụ
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-TW của Bộ Chính trị “Về
mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996 - 2000”, trong
lúc cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực bùng phát, tác động xấu đến
nước ta trong việc đầu tư trực tiếp nước ngồi và thị trường xuất khẩu, thì ở
trong nước thiên tai liên tục xảy ra gây thiệt hại to lớn về người và của. Do
vậy, tốc độ tăng trưởng GDP đã giảm sút mạnh; nhịp độ tăng trưởng cơng
nghiệp, xây dựng tiếp tục giảm. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 4 (khóa VIII) ngày 29/12/1997 đã nêu cao chủ trương
phát huy nội lực, chủ động phòng tránh và khắc phục khủng hoảng. Nghị
quyết nhấn mạnh tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tranh thủ vốn,
công nghệ và gia nhập thị trường quốc tế nhưng phải trên cơ sở độc lập tự
chủ, phát huy đầy đủ các yếu tố nội lực, dựa vào các nguồn lực trong nước là
chính bao gồm nguồn lực con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống

đi đơi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngồi. Nội dung nhiệm vụ của cơng
tác kinh tế đối ngoại và hội nhập cho đến năm 2000 được xác định là:
Tiếp tục điều chỉnh chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong
nước theo tinh thần bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn,
phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Lộ trình giảm thuế nhập
khẩu và giảm dần các hàng rào phi thuế quan được công bố rõ để
từng doanh nghiệp có kế hoạch phấn đấu cụ thể [22, tr.57].
Hội nghị nêu phương châm hội nhập quốc tế là: "Trên cơ sở phát huy nội
lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngồi...
tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế" [22, tr.59-60].
Trên cơ sở đó, Hội nghị đã nêu lên nhiệm vụ HNKTQT là:


17
Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp
và nhất là về những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh
để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Tiến hành
khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với
Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực
hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA [22, tr.60].
Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế theo tinh thần “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong
cộng đồng thế giới” đã được đề ra từ Đại hội VII và được Đại hội VIII tiếp
tục khẳng định. Đến nay, đường lối đó vẫn được thực hiện, song có sự phát
triển. Tư tưởng mở rộng quan hệ về nhiều mặt, song phương và đa phương
các quan hệ quốc tế trong đường lối đối ngoại của Đảng ta thể hiện quan điểm
độc lập, tự chủ, không để bất cứ một thế lực nào lôi kéo. Độc lập, tự chủ trong
hoạt động đối ngoại chính là tự mình quyết định các vấn đề về đường lối
chính sách, các mục tiêu và các quyết sách về đối ngoại phù hợp với lợi ích và
nghĩa vụ quốc gia, thích ứng với xu thế thời đại. Đó chính là thực hiện quyền

tự quyết trong quan hệ quốc tế, không chịu sự áp đặt về ý đồ và quyền lợi từ
bất cứ phía nào. Đa phương hóa là nói đến nhiều đối tác trong quan hệ, nhưng
vẫn có ưu tiên nhất định đối với các đối tác truyền thống và đối tác chiến
lược, đa dạng hóa là nói đến việc sử dụng nhiều hình thức quan hệ để thực
hiện đa phương hóa. Đây là chính sách ngoại giao mềm dẻo, cho phép ta
"thêm bạn, bớt thù", tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để tranh thủ các nguồn lực
bên ngoài cho phát triển đất nước.
* HNKTQT dưới sự lãnh đạo của Đảng từ khi đổi mới đến trước năm 2001
Năm 1990 trở về trước, Việt Nam mới có quan hệ thương mại với 30
nước, chủ yếu các nước XHCN. Thực hiện chủ trương đường lối đổi mới của
Đảng, chúng ta đã bắt đầu tham gia từng bước vào nền kinh tế khu vực và trên
thế giới. Tiến trình HNKTQT được thực hiện dưới nhiều hình thức, với nhiều


18
loại đối tác trên nhiều lĩnh vực. Trong nước, chúng ta đã thực hiện những biện
pháp nhằm từng bước cải cách các chính sách thương mại và đầu tư theo
hướng mở cửa để mang lại cho nước ta một số lợi ích do xu thế tự do hố
kinh tế mang lại. Đồng thời, phấn đấu để Việt Nam trở thành thành viên của
các tổ chức, hiệp hội, câu lạc bộ của khu vực và trên thế giới để thực hiện việc
áp dụng những chính sách theo hướng mở cửa giữa các thành viên và dành
cho nhau những ưu đãi về đầu tư, thương mại mang lại lợi ích cho nhau.
Năm 1993, nước ta đã khai thông quan hệ với các Tổ chức quốc tế như
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển
châu Á (ADB). Sự kiện mở đầu mang tính đột phá trong q trình HNKTQT
của Việt Nam là việc nước ta chính thức trở thành thành viên của ASEAN vào
ngày 28/7/1995. Hội nhập của Việt Nam vào ASEAN có nội dung chủ yếu là
thực hiện các cam kết trong hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế
ASEAN, tham gia vào AFTA, thực hiện các cam kết theo CEFT. Tháng
2/1998, chúng ta đã cơng bố lịch trình giảm thuế quan tổng thể của Việt Nam

đối với các mặt hàng thuộc CEFT/AFTA. Gia nhập ASEAN, Việt Nam đồng
thời chính thức trở thành thành viên của AFTA.
Một bước tiến nữa trong quá trình hội nhập, là tháng 3/1996 Việt Nam
đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng
lập. ASEM ra đời nhằm mục tiêu chủ yếu là tạo điều kiện thuận lợi cho sự
hợp tác thương mại, đầu tư giữa các quốc gia thành viên cũng như giữa các
nhà doanh nghiệp Á - Âu. Việc gia nhập ASEM sẽ tạo điều kiện để chúng ta
có thể mở thêm diễn đàn trao đổi, hợp tác, xúc tiến việc mở rộng thị trường
thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế khoa học - kỹ thuật trên cơ sở các bên
cùng có lợi, tạo thế cân bằng trong quan hệ với các trung tâm kinh tế, chính trị
trên thế giới.
Tháng 11/1998, Việt Nam chính thức gia nhập APEC, việc trở thành
thành viên chính thức của APEC là một bước tiến quan trọng trong tiến trình


19
hội nhập của Việt Nam góp phần nâng cao vị thế chính trị và mở rộng thị
trường, thúc đẩy việc xử lý các vấn đề song phương, tạo mối quan hệ đan xen
nhiều chiều với nhiều đối tác, tranh thủ các chương trình hợp tác kinh tế, kỹ
thuật thu hút đầu tư, công nghệ từ các nước phát triển. Với mục tiêu hỗ trợ sự
phát triển trong khu vực, tăng mức sống, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế
giới, tham gia vào APEC, các nước nói chung, Việt Nam nói riêng sẽ có điều
kiện nâng cao vị trí và hình ảnh, tăng thêm lợi thế và tiếng nói của mình trong
đàm phán song phương và đa phương, góp phần hình thành luật chơi chung ở
khu vực…
Tháng 10/1947, Cộng đồng quốc tế đã thành lập tổ chức Hiệp định
chung về thuế quan và thương mại (gọi tắt là GATT) với 23 nước thành viên
sáng lập. Ngày 1/1/1995, GATT trở thành WTO. Dựa trên cơ sở mục tiêu,
nguyên tắc hoạt động của WTO và thực tế quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của Việt Nam trong 10 năm đầu đổi mới (1986 - 1995), đã cho thấy sự thành

công về kinh tế của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều ở mức độ tham gia của đất
nước vào nền kinh tế của khu vực và thế giới. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước
nhận thấy sự cần thiết và lợi ích khi gia nhập WTO là tổ chức lớn hiện nay.
Nhất là sau khi đã nghiên cứu các kết quả của cuộc đàm phán Uruguay tháng
1/1995, Đảng và Nhà nước đã quyết định nộp đơn gia nhập WTO. Quyết định
này sẽ giúp đất nước đổi mới kinh tế có hiệu quả hơn, đồng thời góp phần mở
rộng hơn nữa các quan hệ kinh tế với các nước khác.
Sự ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 10 năm
đầu đổi mới (1986 - 1995) là cơ sở cho Việt Nam gia nhập WTO. Việt Nam
đang được xem là một nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh cùng với đường
lối kinh tế hướng ngoại đúng đắn. Việt Nam tranh thủ được sự ủng hộ và hợp
tác của nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước đã nỗ lực cao
trong việc giải quyết các vấn đề trong quan hệ với Mỹ như vấn đề người Mỹ
mất tích trong chiến tranh ở Việt Nam. Cùng với những nỗ lực trên các lĩnh


20
vực khác đã dẫn tới việc Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam
vào ngày 3/2/1994 và tun bố bình thường hố quan hệ ngoại giao. Ngày
12/7/2000 sau 4 năm đàm phán, Hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ đã được ký kết.
Trên cơ sở đó, Đại hội VIII (6/1996) của Đảng chỉ rõ: Tiếp tục đổi mới
nền kinh tế mà một trong những nội dung quan trọng là hoà nhập vào hệ
thống thương mại thế giới. Nghị quyết Đại hội khẳng định: “Cần xúc tiến việc
tham gia... Tổ chức Thương mại quốc tế WTO” [28, tr.571]. Thực hiện nghị
quyết của Đại hội và để hoàn thành các cuộc thương lượng gia nhập WTO,
Đảng và Nhà nước đã tiến hành thực hiện một tiến trình hội nhập WTO với
nhiều giai đoạn.
Tháng 6/1994, Việt Nam được công nhận là quan sát viên của WTO.
Tháng 2/1995, thay mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, đại sứ Việt Nam tại
Liên hợp quốc, ông Nguyễn Lương đã nộp đơn gia nhập WTO. Ban công tác

về việc gia nhập của WTO được thành lập với nhiệm vụ đàm phán về điều
kiện, quy định kết nạp Việt Nam. Tham gia Ban cơng tác có nhiều thành viên
WTO quan tâm đến thị trường Việt Nam. Điều đó khẳng định, Việt Nam đã
thực hiện xong bước đầu tiên trong tiến trình gia nhập WTO.
Tháng 8/1996, Việt Nam đã hoàn thành “Bị Vong lục về chế độ ngoại
thương của Việt Nam” và gửi tới Ban thư ký WTO để chuyển tới các thành
viên của Ban công tác. Bị Vong lục không chỉ giới thiệu tổng quan nền kinh
tế, các chính sách kinh tế vĩ mơ, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách, mà
cịn thơng tin chi tiết về chính sách liên quan tới thương mại hàng hoá, dịch
vụ, về quyền sở hữu trí tuệ.
Tháng 2/1998, Việt Nam trả lời các câu hỏi làm rõ về chế độ thương
mại. Sau khi nghiên cứu “Bị Vong lục về chế độ ngoại thương”, nhiều thành
viên đặt ra các câu hỏi yêu cầu ta trả lời nhằm hiểu rõ chính sách, bộ máy
quản lý và thực thi chính sách của ta. Ngồi việc trả lời các câu hỏi ra, ta cũng


21
phải cung cấp nhiều thông tin các biểu mẫu do WTO quy định về hỗ trợ nông
nghiệp, trợ cấp trong cơng nghiệp, các doanh nghiệp có đặc quyền, các biện
pháp đầu tư không phù hợp với quy định của WTO, thủ tục hải quan, hệ thống
tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ. Ban công tác tổ chức các phiên họp tại trụ
sở WTO ở Giơnevơ (Thụy Sỹ) để đánh giá tình hình chuẩn bị của Việt Nam.
Tháng 8/1998, Việt Nam đưa ra các bản chào ban đầu và tiến hành đàm phán
song phương, đàm phán đa phương, hoàn thành Nghị định thư gia nhập WTO.
Trước hết, Việt Nam đã đưa ra những bản chào ban đầu về mở cửa thị trường
hàng hố và dịch vụ để thăm dị phản ứng của các thành viên khác. Trên cơ sở
đó, các thành viên đưa yêu cầu của họ và nếu chấp nhận được thì có thể đáp
ứng hoặc đưa ra mức bảo hộ thấp hơn một chút. Quá trình đàm phán như vậy
tiếp diễn cho tới khi mọi thành viên đều chấp nhận với mức độ mở cửa thị
trường và hàng hóa của ta.

Để đàm phán thành cơng, thì việc xây dựng chiến lược tổng thể phát
triển kinh tế dài hạn giữ vai trò quyết định. Việt Nam phải xác định được
những thế mạnh, những lĩnh vực ta cần bảo hộ để có thể vươn tới trong tương
lai, những mặt hàng nào ta không cần bảo hộ.
Việt Nam đã tiến hành các cơng việc minh bạch hố chính sách, chuẩn
bị và tiến hành các vòng đàm phán song phương, mở cửa thị trường. Để gia
nhập WTO, Việt Nam phải tiến hành đồng thời các cuộc đàm phán với WTO
và các cuộc đàm phán song phương với một số nước có chọn lọc. Việt Nam
đã vượt qua các vịng đàm phán, hồn thành việc trả lời các câu hỏi từ Ban
thư ký của WTO và các nước thành viên, đang xúc tiến chuẩn bị các cuộc
đàm phán tiếp theo với quyết tâm phấn đấu sớm gia nhập WTO, tất nhiên là
với những điều kiện chấp nhận được đối với nền kinh tế của Việt Nam.
Với những nỗ lực triển khai đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ quốc tế và HNKTQT đã góp phần làm tăng bạn, bớt thù, duy trì
hồ bình ổn định và tạo mơi trường thuận lợi cho việc khai thác các điều kiện


22
thuận lợi bên ngoài phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Quá
trình hội nhập của Việt Nam trong hơn một thập kỷ qua đã góp phần quan
trọng phá bỏ thế bị bao vây, cô lập, tạo thế và lực vững chắc cho đất nước
thông qua mối quan hệ đan xen nhiều chiều, nhiều nấc, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế, khai thác các lợi thế
của các mối quan hệ với các nước lớn, đồng thời thể hiện quan điểm, thực
hiện vai trị, đóng góp của chúng ta trong cơng cuộc bảo vệ hồ bình và an
ninh chung.
1.2. BỐI CẢNH, CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TỪ 2001 ĐẾN 2005

Thế kỷ XX để lại trong lịch sử loài người những dấu ấn cực kỳ sâu sắc.

Đó là thế kỷ kinh tế phát triển mạnh mẽ xen lẫn những cuộc khủng hoảng lớn
của CNTB thế giới, thế kỷ của những tiến bộ vượt bậc về khoa học công
nghệ, tạo ra giá trị sản xuất vật chất tăng gấp 15 lần so với thế kỷ trước và lớn
hơn cả toàn bộ giá trị của hai thiên niên kỷ trước cộng lại. Đó là thế kỷ diễn ra
hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu do chủ nghĩa đế quốc gây ra cùng hàng
trăm cuộc xung đột vũ trang, cướp đi hàng chục triệu sinh mạng; sau đó là
cuộc “chiến tranh lạnh” cũng do chủ nghĩa đế quốc gây ra kéo dài gần năm
thập niên và cuộc chạy đua vũ trang ở mức cao chưa từng thấy. Đó là thế kỷ
chứng kiến một phong trào cách mạng sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới với
thắng lợi của Cách mạng Tháng mười Nga - cuộc cách mạng vĩ đại mở ra thời
đại quá độ từ CNTB lên CNXH, của cách mạng XHCN ở một loạt nước từ
châu Âu sang châu Á và Mỹ la tinh, sự giải phóng hầu hết các nước thuộc địa
của chủ nghĩa thực dân, sự phát triển của phong trào cộng sản, cơng nhân
quốc tế và phong trào hồ bình, dân chủ; mặt khác, lại xảy ra sự thoái trào của
CNXH trên thế giới vào cuối thế kỷ.
Thế kỷ XXI có thể sẽ có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc. Đó là thế kỷ
mà khoa học và cơng nghệ sẽ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy. Kinh tế


23
tri thức ngày càng lớn trong quá trình phát triển. Tồn cầu hố kinh tế là một
xu thế khách quan ngày càng nhiều nước tham gia, đang bị một số nước phát
triển và các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu
thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa hợp tác, vừa có đấu
tranh. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và
mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, lúc hịa hoãn,
lúc gay gắt. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề tồn cầu mà khơng một quốc
gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu khơng có sự hợp tác đa phương. Chủ
nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị

trường, song khơng thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có. Các quốc gia
độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định
con đường phát triển của mình, chống lại sự áp đặt, can thiệp và xâm lược của
nước ngoài, bảo vệ độc lập, chủ quyền và nền văn hóa dân tộc. CNXH thế
giới tạm thời lâm vào thối trào nhưng vẫn có điều kiện và khả năng để phục
hồi và phát triển. Tính chất của thời đại vẫn không thay đổi. Lịch sử thế giới
đã, đang và sẽ còn trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử.
Những năm đầu thế kỷ XXI, thế giới tiếp tục có những biến động phức
tạp, đầy bất trắc khó lường. Trong khoảng 10 - 15 năm đầu ít có khả năng xảy
ra chiến tranh thế giới thứ ba, chiến tranh tổng lực dùng vũ khí hạt nhân và vũ
khí giết người hàng loạt khác. Hịa bình và hợp tác vẫn là một xu thế lớn phản
ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Nhưng chiến tranh cục bộ,
xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động
can thiệp lật đổ, khủng bố cịn xảy ra ở nhiều nước với tính chất phức tạp
ngày càng tăng. Hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh
đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh vì hồ bình, độc lập
dân tộc, dân chủ, dân sinh, tiến bộ và cơng bằng xã hội sẽ có những bước tiến


24
mới. Khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương sau khi khắc phục
được khủng hoảng tài chính - tiền tệ, có khả năng tiếp tục phát triển năng
động nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.
Những nét mới trong tình hình quốc tế và khu vực, với những xu thế
phát triển của nó, tác động mạnh mẽ đến tình hình nước ta.
Trong những năm qua, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường. Đất
nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động. Nhân dân ta có nhiều
phẩm chất cao quý. Tình hình chính trị - xã hội ổn định. Mơi trường hịa bình,
sự hợp tác, liên kết, chủ động HNKTQT ngày càng phát triển tạo điều kiện để

chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực,
nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, phục vụ
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đó là cơ hội để tạo ra bước phát triển mới.
Đồng thời, chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức. Thách thức lớn nhất là
tình trạng thấp kém của nền kinh tế, khoảng cách về trình độ phát triển giữa
nước ta với nhiều nước trên thế giới cịn rất lớn, trong khi đó đất nước đi lên
trong điều kiện cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt.
Chủ động HNKTQT là một nội dung quan trọng trong đường lối đối
ngoại của Đảng, phản ánh sự nhận thức đúng đắn xu thế tồn cầu hố kinh tế
hiện nay. Để hoàn thiện, phát triển đường lối chiến lược về HNKTQT trong
bối cảnh những năm đầu thế kỷ XXI, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã
nhấn mạnh chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ môi trường” [28, tr.664].
Mục tiêu hội nhập là để tạo thêm nguồn lực nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH, đáp
ứng yêu cầu và lợi ích của đất nước, đồng thời qua đó phát huy vị thế và vai
trị của Việt Nam trên trường quốc tế. Nội dung hội nhập là từng bước mở cửa
thị trường về thương mại - đầu tư dịch vụ. Hình thức hội nhập bao gồm cả


25
song phương và đa phương. Tuy nhiên, độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng
vật chất cơ bản để củng cố và duy trì độc lập, tự chủ về chính trị. Khơng thể
có độc lập, tự chủ về chính trị khi bị lệ thuộc về kinh tế. Trong thế giới hiện
nay, mặc dù sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng với xu thế toàn
cầu hoá kinh tế và hội nhập quốc tế, các nước càng coi trọng chủ quyền quốc
gia và lợi ích dân tộc, càng quan tâm hơn đến khả năng độc lập tự chủ về kinh
tế đảm bảo cho lợi ích của mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để
có một vị thế chính trị nhất định trên trường quốc tế.

Khác với trước đây khi nói đến độc lập tự chủ người ta thường hình
dung là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp. Trong điều kiện ngày nay,
độc lập tự chủ về kinh tế là phải độc lập tự chủ trong phát triển nền kinh tế thị
trường mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới, chủ động, tích cực tham gia vào
sự giao lưu hợp tác, phân công lao động quốc tế và trên cơ sở phát huy tốt
nhất nội lực và lợi thế so sánh của các quốc gia để hợp tác và cạnh tranh quốc
tế có hiệu quả. Độc lập tự chủ về kinh tế trước hết là không bị lệ thuộc, phụ
thuộc vào nước khác, vào một tổ chức quốc tế nào đó về đường lối, chính
sách phát triển kinh tế, vào những điều kiện kinh tế, chính trị mà người khác
áp đặt cho mình trong hợp tác song phương, đa phương trong việc tiếp nhận
viện trợ mà những điều kiện ấy gây tổn hại cho chủ quyền quốc gia và lợi ích
cơ bản của dân tộc. Sự tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là trước những chấn
động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế, tài chính ở bên ngoài, về cơ
bản vẫn giữ được sự ổn định của nền kinh tế quốc gia và định hướng phát
triển. Sự tự chủ đó cịn là trước sự bao vây, cơ lập, chống phá về kinh tế,
chính trị của các thế lực thù địch bên ngoài, đất nước vẫn trụ vững, khơng bị
sụp đổ về kinh tế và chính trị. Như vậy, độc lập tự chủ về kinh tế nước ta
đồng thời cũng là sự bảo đảm vững chắc cho định hướng XHCN theo đường
lối, chủ trương của Đảng đề ra, khơng có bất kỳ sự áp đặt nào từ bên ngoài.
Đây là một cơ sở quan trọng cho HNKTQT ngày càng sâu rộng. Thực tế phát


×