Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động cơ quan Huyện ủy Đông Sơn, huyện Đông Sơn trong giai đoạn hiện nay theo phong cách Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.1 KB, 26 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đề cao vai trị của đội ngũ cán bộ.
Người coi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “cán bộ là cái dây chuyền của
bộ máy”, “cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể” và đi đến kết luận: “Công việc thành
công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Vai trò của người cán bộ lớn bao
nhiêu thì trách nhiệm của người cán bộ cũng nặng nề bấy nhiêu. Do đó, để làm
tốt chức trách, người cán bộ phải đủ đức, đủ tài. Và đức, tài của người cán bộ lại
được thể hiện sinh động qua phong cách làm việc. Với thực tiễn cách mạng, với
tầm nhìn của một nhà tư tưởng lớn, Hồ Chí Minh cho rằng, bồi dưỡng, rèn luyện
phong cách làm việc tốt là yêu cầu thường xuyên, cấp bách cho từng con người
trong bộ máy nhà nước phục vụ nhân dân.
Theo Người, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ có vai trị to lớn để
nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; thấm sâu vào “tâm lý
quốc dân” và đi vào cuộc sống; biến nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước
thành hành động của quần chúng, tạo ra đột phá trong các lĩnh vực cách mạng.
Phong cách làm việc là tổng hợp những phương pháp, cách thức, biện pháp, tác
phong, lề lối làm việc để vận dụng các kiến thức, tri thức khoa học vào thực tiễn
đem lại hiệu quả. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng cấu thành phẩm chất, năng
lực của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Thực tế cho thấy, đối với người cán bộ cơ sở,
khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ có những lúc, những cơng việc chưa hồn
thành tốt khơng phải do thiếu kiến thức và sự nhiệt tình, trách nhiệm hay
phương tiện, vật chất bảo đảm mà còn do phong cách làm việc chưa phù hợp.
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh là những bài học quý báu đối với cán
bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là khi toàn Đảng, toàn dân, tồn qn ta đang
tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương số 04-NQ/TW về “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ” gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ
1



Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh.
Để tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thời gian tới đạt hiệu quả thiết thực,
ngày 18 tháng 5 năm 2021 Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Kết luận số
01-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh” với yêu cần phải quán triệt, tập trung làm tốt ba nội dung:

Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên.
Những năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động cơ quan
Huyện ủy Đông Sơn đã thể hiện được vai trò và trách nhiệm trong thực hiện
công tác, không ngừng phấn đấu học tập, lao động, sáng tạo, phát huy khả năng,
trí tuệ để hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; đồng thời có ý thức, trách nhiệm
cao trong cơng tác. Tuy nhiên, vẫn cịn khơng ít cán bộ, cơng chức, chưa thấy
hết được tầm quan trọng của việc rèn luyện phong cách làm việc đúng đắn, nên
thực hiện nhiệm vụ còn thể hiện thái độ “quan cách mạng”, làm việc đối phó,
thiếu trách nhiệm, khơng nhiệt tình trong cơng việc, mối quan hệ giữa cán bộ,
cơng chức với nhân dân cịn chưa ‘‘gần dân’’, trong công tác phối hợp giữa cán
bộ, chuyên viên với nhau cịn chưa tốt … dẫn đến hiệu quả cơng tác chưa cao.
Những vấn đề này đặt ra nhu cầu phải bồi dưỡng, rèn luyện, học tập tác phong
làm việc cho đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan Huyện ủy, đây là nhiệm
vụ cơ bản, thường xuyên, cấp thiết, nhất là trong tình hình đất nước đổi mới, hội
nhập và phát triển hiện nay.
Để học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh một cách hiệu quả, có
chất lượng, cần phải hiểu cuộc đời, thân thế, sự nghiệp; hiểu được những giá trị
cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức, đặc biệt là những nét riêng đặc sắc trong phong
cách làm việc Hồ Chí Minh.
Từ những lý do trên, cùng với sự tâm đắc về nội dung phong cách Hồ Chí

Minh trong q trình học tập chương trình Trung cấp LLCT-HC, em lựa chọn
2


nội dung: “Xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, người
lao động cơ quan Huyện ủy Đông Sơn, huyện Đông Sơn trong giai đoạn hiện
nay theo phong cách Hồ Chí Minh” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phong cách làm việc
của người cán bộ, khóa luận tập trung đánh giá thực trạng tác phong làm việc
của đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động ở cơ quan Huyện ủy Đông Sơn
trong những năm vừa qua và đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng tác phong
làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan trong giai đoạn hiện nay theo
phong cách Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng tác phong làm việc của đội ngũ cán
bộ, công chức ở cơ quan Huyện ủy Đông Sơn, huyện Đông Sơn.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Cơ quan Huyện ủy Đông Sơn, Huyện Đông Sơn.
+ Về thời gian: Giai đoạn 2015-2021 và định hướng cho những năm tiếp
theo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp thống kê, mơ tả, phân tích, tổng hợp,
so sánh, phương pháp logic, lịch sử,…
5. Kết cấu khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; khóa luận
gồm 03 phần cơ bản sau:
I. Cơ sở lý luận
II. Thực trạng rèn luyện tác phong làm việc của cán bộ, công chức người
lao động ở cơ quan Huyện ủy Đơng Sơn theo phong cách Hồ Chí Minh

III. Một số giải pháp xây dựng tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ,
công chức, người lao đông ở cơ quan Huyện ủy Đông Sơn trong giai đoạn hiện
nay theo phong cách Hồ Chí Minh
3


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Một số khái niệm có liên quan
* Phong cách
Theo nghĩa hẹp, phong cách là những đặc điểm có tính chất hệ thống về
tư tưởng và nghệ thuật, những đặc trưng thẩm mỹ ổn định về nội dung và hình
thức thể hiện, tạo nên giá trị độc đáo của một nghệ sỹ.
Theo nghĩa rộng, phong cách là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái,
phong độ và phẩm cách đã trở thành nề nếp của một người hoặc một lớp người,
được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt,
ứng xử, diễn đạt (nói và viết)… tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của
chủ thể đó.
* Tác phong
Nếu hiểu tác phong là phong cách làm việc, phong cách cơng tác thì tác
phong là một bộ phận của phong cách. Đó là một bộ phận rất quan trọng nhưng
khơng phải là duy nhất, vì ngồi phong cách làm việc, phong cách cơng tác thì
hoạt động của con người còn được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác.
* Hệ thống phong cách Hồ Chí Minh
Nghiên cứu phong cách Hồ Chí Minh là nghiên cứu theo nghĩa rộng của
khái niệm phong cách.
Hệ thống phong cách Hồ Chí Minh là một chỉnh thể, bắt đầu từ suy nghĩ
(phong cách tư duy) đến hoạt động thực tiễn (phong cách làm việc, phong cách
diễn đạt, phong cách ứng xử) và cuối cùng là sinh hoạt thường ngày (phong cách
sinh hoạt).

2. Nội dung phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến phong cách làm việc của cán
bộ, đảng viên. Về mặt này, Người đã để lại cho chúng ta nhiều giáo huấn rất
quan trọng, đặc biệt trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, một trong những tác
phẩm quan trọng của Người sau Cách mạng Tháng Tám.
4


Trên cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước lãnh tụ tối cao của cả dân tộc,
Người đã có một phong cách làm việc mẫu mực để tiến hành công tác và thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng, giải quyết đúng đắn và thỏa đáng các mối quan hệ
với quần chúng, với cấp dưới, với những người bạn chiến đấu gần gũi, với các vị
phụ lão, nhân sĩ, trí thức, đại diện các tôn giáo, dân tộc… Người không dựa vào
quyền lực để buộc mọi người phục tùng, mà thuyết phục con người bằng một
phong cách làm việc vừa mang tính ngun tắc và khoa học cao, vừa có tình
nhân ái bao la của một tấm lòng nhân hậu. Phong cách làm việc của Hồ Chí
Minh khơng phải chỉ tác động đến nhận thức mà cịn cảm hóa cả trái tim con
người. Qua phong cách làm việc của Hồ Chí Minh, mọi người đến với Đảng,
tiếp nhận sự lãnh đạo của Đảng khơng phải chỉ bằng lý trí, mà cịn bằng tình
cảm sâu sắc của chính mình.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh bao gồm nhiều nội dung rất phong
phú, trong đó có 4 tác phong cơ bản sau:
2.1. Tác phong quần chúng
Phong cách quần chúng Hồ Chí Minh xuất phát từ những giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam. Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác Lê nin về vai
trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, Hồ Chí Minh là người sớm đánh giá
cao vị trí, vai trị của quần chúng nhân dân. Cả cuộc đời Người hành động tất cả
vì dân. Người từng nói và thực hiện suốt đời một ham muốn tột bậc là làm cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.

Cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện theo phong cách quần chúng của
Hồ Chí Minh là phải theo đúng đường lối nhân dân với các nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, phải đặt lợi ích của quần chúng nhân dân lên trên hết. Điều
này thể hiện ở chỗ việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy cũng hết sức làm; việc gì hại
cho dân dù nhỏ mấy cũng phải tránh.
Thứ hai, liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Hồ Chí Minh là lãnh tụ rất gần
gũi, sâu sát nhân dân. Học Hồ Chí Minh là cán bộ, đảng viên phải chịu khó đi về
cơ sở để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý. Xuống cơ sở không phải theo kiểu
5


“nhiệt liệt chào mừng đồng chí về thăm, làm việc” mà phải nắm tình hình, đưa
ra được các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho địa phương, cho các ngành. Phải
lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người “không quan
trọng”, cả những ý kiến “nghịch”.
Thứ ba, việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ.
Mỗi cán bộ khi gặp cơng việc phải biết tìm đủ cách giải thích cho dân hiểu, cả
những việc trực tiếp có lợi cho dân. Cán bộ không được làm theo cách hạ lệnh,
cưỡng bức, vì như vậy dân khơng hiểu, dân ốn. Theo Hồ Chí Minh, dân đã hiểu
thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ.
Thứ tư, có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan
nghênh nhân dân phê bình mình. Mỗi cán bộ phải hiểu rằng, con người khơng
phải thánh thần, có thiện có ác trong lịng. Đã làm việc thì khơng tránh khỏi
khuyết điểm. Chỉ những kẻ ăn khơng ngồi rồi thì mới khơng có khuyết điểm mà
thơi. Chúng ta khơng sợ có khuyết điểm, chỉ sợ có khuyết điểm khơng dám tự
phê bình. Dân độ lượng, vị tha và chúng ta làm việc vì dân. Vì vậy, có khuyết
điểm thì phải thật thà tự phê bình trước dân và hoan nghênh nhân dân phê bình
mình. Đó là một trong những cách tốt nhất để làm cho dân tin.
Thứ năm, sẵn sàng học hỏi nhân dân. Người lãnh đạo không nên kiêu
ngạo mà nên hiểu thấu. Mỗi người phải hiểu rằng, sự hiểu biết và kinh nghiệm

của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngồi kinh nghiệm
của mình, người lãnh đạo cịn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân
chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình. Nhân dân là những người trí tuệ,
thơng minh, tài giỏi. Dân chúng nhiều tai, nhiều mắt, việc gì họ cũng nghe, cũng
thấy. Làm theo cách quần chúng là việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng.
Thứ sáu, chống bệnh quan liêu. Tu dưỡng, rèn luyện theo phong cách
quần chúng Hồ Chí Minh, ở một góc tiếp cận khác chính là phải “từ trong quần
chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Thực hiện phong cách quần chúng đồng thời
chống cách quan liêu với các biểu hiện xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân
dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu biết nhân dân, không thương yêu nhân
6


dân. Quan liêu là gốc rễ, cội nguồn đẻ ra tham ơ, lãng phí. Làm theo cách quan
liêu là hỏng việc, là thất bại.
2.2. Tác phong tập thể - dân chủ
Điều có ý nghĩa lớn nhất từ thắng lợi của cách mạng do Đảng lãnh đạo là
đưa nhân dân từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ. Nước ta là nước dân chủ,
dân là chủ và dân làm chủ. Dân làm chủ thì chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy
viên này khác làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là
làm quan cách mạng. Đó chính là điểm xuất phát của việc rèn luyện, tu dưỡng
theo phong cách dân chủ Hồ Chí Minh.
Phong cách dân chủ có nội dung dân chủ trong Đảng và dân chủ với
nhân dân.
Về thực hành dân chủ trong Đảng, mỗi cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo chủ chốt, đứng đầu cần thực hiện những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh trí tuệ của tập thể. Học tập và làm theo tấm
gương Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ Đảng viên phải nhận thức đúng đắn rằng, một
người dù tài giỏi đến mấy cũng khơng thể nhìn khắp được sự vật, hiểu hết mọi
việc. “Khơn bầy hơn khơn độc”. Vì vậy, phải chú ý phát huy trí tuệ của tập thể,

gắn bó với tập thể, tơn trọng tập thể, đặt mình trong tập thể. Có dân chủ, bàn bạc
tập thể mới cùng thơng suốt, nhất trí, mới cùng quyết tâm thực hiện, tránh được
“trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Thứ hai, mở rộng dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Người lãnh đạo phải
khuyên cán bộ, đảng viên mạnh bạo, cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến, phê bình.
Đó là cách tốt nhất để người lãnh đạo biết rõ ưu, khuyết điểm của mình và tỏ ra
thật thà dân chủ trong Đảng. Người lãnh đạo phải hiểu rằng trong sinh hoạt mà
cán bộ khơng nói năng, khơng đề ý kiến, khơng phê bình, thậm chí lại tâng bốc
mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì khơng phải vì họ khơng có gì nói, nhưng
vì họ khơng dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ
của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lịng uất ức, khơng dám nói
ra, do uất ức mà hóa ra ốn ghét, chán nản. Để khơng xảy ra tình trạng này,
7


người lãnh đạo khơng được chun quyền, độc đốn, áp đặt chủ quan, mà phải
thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình.
Thứ ba, nhận trách nhiệm cá nhân, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao và
tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách.
Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trên cơ sở nhận thức dân chủ
là giá trị lớn nhất, là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn, người
cán bộ, đảng viên phải làm cho nhân dân có năng lực làm chủ, biết hướng quyền
dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Dân là chủ là
nói đến địa vị, vị thế của người dân trong một nước dân chủ. Dân làm chủ là nói
đến năng lực, bổn phận làm chủ của người dân. Một điều quan trọng là phải coi
trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính
trị và tính tích cực của cơng dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào cơng việc
của Nhà nước, giám sát, phê bình Chính phủ, phê bình lãnh đạo, khắc phục mọi
thứ dân chủ hình thức.

2.3. Tác phong khoa học
Mỗi cán bộ phải ý thức được rằng, ở những mức độ đậm nhạt khác nhau,
người Việt Nam đều bị chi phối bởi tư duy tiểu nông, tác phong làm việc thiếu
khoa học. Noi theo tấm gương Hồ Chí Minh, chúng ta phải khắc phục thói quen
tự do, tùy tiện, gặp chăng hay chớ, thiếu kế hoạch, thiếu điều tra nghiên cứu,
chậm chạp, lề mề. Đồng thời phải xây dựng một tác phong khoa học trong công
tác, trong lãnh đạo.
Làm việc cần phải đi sâu, đi sát, điều tra nghiên cứu, nắm người, nắm
việc, nắm tình hình cụ thể. Phải nắm thơng tin và xử lý thông tin một cách khoa
học. Nếu sử dụng bộ máy những người giúp việc thì phải khách quan, tỉnh táo.
Làm việc phải có mục đích rõ ràng; chương trình, kế hoạch đặt ra phải sát
hợp theo phương châm: “Kế hoạch một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi”.
Nêu ra mục đích, đặt kế hoạch khơng phải cho kêu, cho oai mà để thực hiện.
Một kế hoạch nhỏ thực hiện tốt cịn hơn kế hoạch lớn mà khơng thực hiện được.
8


Theo tinh thần lời dạy của Lênin, “lãnh đạo mà khơng kiểm tra, có nghĩa
là khơng lãnh đạo”, cán bộ lãnh đạo phải kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới,
kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch đề ra. Việc kiểm tra có ý nghĩa lớn, giúp
người lãnh đạo biết những nghị quyết, chính sách thực hành đến đâu, có khó
khăn, trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Kiểm tra là một cách
để bổ sung, hoàn thiện chủ trương, nghị quyết cho đúng đắn hơn.
Theo lời dạy và tấm gương Hồ Chí Minh, tác phong khoa học đòi hỏi lãnh
đạo phải cụ thể, phải kịp thời, phải thiết thực, phải có trọng điểm và có điển
hình. Người cán bộ, nhất là lãnh đạo phải “óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi,
miệng nói, tay làm”, cần phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể; phải cẩn thận mà
nhanh nhẹn, kịp thời, làm đến nơi, đến chốn.
Phải thường xuyên chú ý rút kinh nghiệm. Theo lời dạy của Hồ Chí Minh,
mỗi cán bộ phải ý thức sâu sắc rằng, sau mỗi công việc cần phải rút kinh

nghiệm. Kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức; kinh nghiệm cá nhân, từng địa phương,
ngành. Kinh nghiệm thành công và thất bại. Những kinh nghiệm đó phải được
phổ biến rộng rãi cho tất cả các bộ, các địa phương để học những kinh nghiệm
hay và tránh những kinh nghiệm dở.
2.4. Tác phong nêu gương
Hồ Chí Minh cho rằng: “Nói chung thì các dân tộc phương Đơng đều giàu
tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn
văn tuyên truyền”. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu
trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đơi với làm để
quần chúng noi theo.
Nêu gương theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết địi hỏi người đứng đầu
cần phải tiên phong làm trước, thực hành trước.
Thứ hai, nêu gương, là phải làm “mực thước” - làm mẫu để cán bộ, đảng
viên và quần chúng noi theo. Người từng dạy: “Nói miệng, ai cũng nói được. Ta
cần phải thực hành. Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình
phải cần kiệm trước đã. Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương trong
anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt:
9


Tinh thần, vật chất và văn hóa. Khơng có gì là khó. Khó như cách mạng mà ta
đã làm được và đã thành công. Muốn làm được, ta phải: Quyết tâm, trí tâm và
đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất là các
đồng chí phải thành cơng”. “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước. Tự mình phải chính trước, mới giúp người khác
chính. Mình khơng chính, mà muốn người khác chính là vơ lý.
3. Quan điểm của Đảng ta về việc học tập, rèn luyện theo phong cách
Hồ Chí Minh
Vấn đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong Đảng và xã hội đã có q trình lịch sử liên tục, lâu dài. Tại Lễ truy điệu

Người, trong Điếu văn Chủ tịch Hồ Chí Minh do đồng chí Lê Duẩn đọc, đã
khẳng định “suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm
chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành
những chiến sĩ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng chí, là học trị
của Hồ Chủ tịch”; và những năm sau đó, khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động
và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” với yêu cầu học tập và làm theo gương
Bác đã được toàn Đảng, toàn dân nêu cao thực hiện.
Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX ban hành Chỉ thị
số 23-CT/TW về “Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh trong giai đoạn mới”, có xác định mục đích: “Tạo ra phong trào rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng theo gương Bác Hồ vĩ đại, đẩy lùi sự suy
thoái đạo đức, lối sống”.
Năm 2005, Bộ Chính trị khóa IX đã quyết định làm điểm việc tổ chức
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Trên cơ
sở kết quả việc làm điểm, ngày 7-11-2006, Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị
06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”.
Đại hội Đảng lần thứ XI yêu cầu đưa việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài của cán bộ,
đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Thực hiện
10


Nghị quyết Đại hội XI, ngày 14-5-2011, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 03CT/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”. Sau 5 năm thực hiện, Chỉ thị số 03-CT/TW đã đạt được kết quả bước
đầu, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay”, có những đóng góp đáng khích lệ vào sự phát triển kinh tế
- xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Tuy nhiên, bên

cạnh kết quả đạt được, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh cịn có những hạn chế, chưa trở thành việc làm thường xuyên, chưa thành
ý thức tự giác của khơng ít tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị và một bộ
phận cán bộ, đảng viên.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định “đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là cơng việc thường
xun của các tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội,
địa phương, đơn vị gắn với chống suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Mục
đích, u cầu của việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh được xác định cao hơn, phạm vi rộng hơn so với
Chỉ thị 06-CT/TW và Chỉ thị 03-CT/TW. Trong đó, nhấn mạnh, chống suy thối
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nhất là về tư tưởng chính trị và các biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; góp phần xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh khơng chỉ về chính trị, tư tưởng, tổ chức, mà còn
nhấn mạnh xây dựng Đảng về đạo đức.
Đây cũng là lần đầu tiên “phong cách Hồ Chí Minh” được nhấn mạnh
chính thức trong văn kiện Đại hội Đảng. Ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị khóa XII
đã ban hành Chỉ thị 05 về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với trọng tâm là học tập và làm theo phong
11


cách, tác phong Hồ Chí Minh về: dân chủ, nêu gương, quần chúng, khoa học,
nói đi đơi với làm.., với mục tiêu tạo động lực mới trong việc đổi mới phong
cách, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu
các cấp, các ngành.
Kết luận số 01-KL/TW ngày 18 tháng 5 năm 2021 của Bộ Chính trị về

tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nêu rõ những mặt đạt được và hạn

chế trong 5 năm qua. Và cũng đưa ra những giải pháp để việc thực hiện Chỉ
thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh thời gian tới đạt hiệu quả thiết thực. Trong Kết luận 01 đã chỉ
ra: Các cấp uỷ, tổ chức đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Chỉ thị
05, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII) về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, khá toàn diện, với
nhiều cách làm mới, sáng tạo, thiết thực, tạo chuyển biến mạnh mẽ, tích cực,
có sức lan toả trong Đảng và toàn xã hội. Việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã từng bước đi vào nền nếp, trở thành
nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên, đóng góp quan trọng vào cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thúc
đẩy việc tự giác nêu gương của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, nhất là
vai trị tiên phong, gương mẫu của các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ
viên Ban Bí thư và Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương; góp phần kiềm chế,
ngăn chặn tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hố" trong nội bộ, tích cực bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch,
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Những kết quả nêu trên là nhân tố quan trọng, góp phần vào sự thành
cơng Đại hội XIII của Đảng, của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
12


Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc tổ chức triển khai
thực hiện Chỉ thị 05 còn bộc lộ một số hạn chế: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện có nơi, có lúc chưa quyết liệt, chưa kịp thời, chưa sát thực tế;

một số người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, đơn vị chưa thể hiện rõ vai trị, trách
nhiệm, cịn thụ động, trơng chờ, ỷ lại, thiếu sáng tạo trong triển khai thực hiện
Chỉ thị. Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Bác, nhất là trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt người đứng đầu chưa thường xuyên;
một số cán bộ, đảng viên suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật. Việc thực hiện Chỉ thị 05
gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính trị và
giải quyết các khâu đột phá, các vấn đề cấp bách, bức xúc còn lúng túng, hiệu
quả chưa cao. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc cịn
bị động, kết quả chưa cao. Việc phát hiện, biểu dương các tập thể, cá nhân
điển hình trong học tập và làm theo Bác chưa kịp thời, thiếu sức thuyết phục.
Công tác đấu tranh với các biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống chưa mạnh mẽ; tự phê bình và phê bình có nơi, có lúc cịn hình thức;
tình trạng thiếu tự giác nhận khuyết điểm, đổ lỗi, nể nang, né tránh, ngại va
chạm còn diễn ra ở nhiều nơi. Công tác kiểm tra, giám sát của nhiều cấp uỷ
đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên chưa
thường xuyên, thiếu quyết liệt, phạm vi, đối tượng còn hẹp, hiệu quả cảnh
báo, phòng ngừa vi phạm chưa đạt yêu cầu.
II. THỰC TRẠNG RÈN LUYỆN TÁC PHONG LÀM VIỆC CỦA
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CƠ QUAN HUYỆN ỦY ĐƠNG SƠN THEO
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
1. Khái quát đặc điểm về huyện Đông Sơn và cơ quan Hyện ủy
Đông Sơn
Đông Sơn là miền đất “Địa linh nhân kiệt”, xưa được gọi là huyện
Đông Dương; đời nhà Trần (1225 – 1400) đổi tên gọi là Đông Sơn. Qua nhiều
lần sáp nhập, chia tách, đến nay huyện có 14 xã, thị trấn với diện tích tự
13


nhiên: 8286,74ha, trong đó đất nơng nghiệp là 5279,59ha, chiếm 63,7%. Cả

huyện có gần 80.000 nhân khẩu. Đảng bộ huyện có 34 TCCS Đảng với 5607
đảng viên.
Từ một đơn vị gặp nhiều khó khăn, đến nay Đơng Sơn đã có nền kinh
tế tăng trưởng cao, ổn định, kết cấu hạ tầng cho sản xuất và đời sống của
Nhân dân được đầu tư khá đồng bộ, bộ mặt nông thôn, đô thị có nhiều đổi
mới, văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ; quốc phòng - an ninh
được giữ vững… Đặc biệt, một số lĩnh vực đã vươn lên tốp đầu của tỉnh như:
100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc
gia đạt 95,8%; có 14/14 xã, thị trấn được UBND tỉnh công nhận xã đạt chuẩn
vệ sinh ATTP; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 0,64%; năm 2021, xã Đông Văn là
đơn vị đầu tiên trong tỉnh đạt xã Nơng thơn mới kiểu mẫu; Đảng bộ huyện
nhiều năm hồn thành xuất sắc nhiệm vụ. Năm 2017, Ban Thường vụ Huyện
ủy được Tỉnh ủy đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; năm 2018, 2019,
2020, Đảng bộ huyện được Tỉnh ủy đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Đặc biệt, năm 2019 là huyện thứ ba trong tỉnh được Chính phủ công nhận
huyện đạt chuẩn NTM, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao
động hạng Ba về xây dựng nơng thơn mới, giai đoạn 2015 - 2019. Có 2 tập
thể và 2 cá nhân được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen trong dịp sơ kết
04 năm thực hiện Chỉ thị 05; Nhân dân và cán bộ huyện Đông Sơn là đơn vị
duy nhất trong tỉnh được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen về thực hiện
Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị giai đoạn 2016 – 2018, được TW biểu
dương nhân dịp kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng.
Cơ quan Huyện ủy Đơng Sơn hiện có 30 cán bộ, công chức, người lao
động. Hiện đang công tác tại các Ban Xây dựng Đảng (Ban tổ chức, Ban Dân
vận, Ban Tuyên giáo), Ủy ban kiểm tra Huyện ủy và Văn phịng Huyện ủy.
Trong đó: Cán bộ, lãnh đạo là 15; Chuyên viên là: 06; người lao động
theo hợp đồng 68 là: 07; lao động hợp đồng công việc là 02.
Các Ban Xây dựng Đảng là các cơ quan tham mưu, giúp việc Huyện
uỷ, trực tiếp, thường xuyên là Ban Thường vụ và Thường trực Huyện uỷ trong
14



tổ chức, điều hành công việc lãnh đạo, chỉ đạo; công tác tổ chức xây dựng
Đảng; công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng; công tác xây dựng
Đảng thuộc các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tun truyền, lý luận chính trị,
văn hố, văn nghệ, khoa giáo, biên soạn lịch sử đảng bộ địa phương; công tác
dân vận (bao gồm cả công tác tôn giáo). Đồng thời là các cơ quan thực hiện
nhiệm vụ về công tác chuyên môn, nghiệp vụ. Phối hợp với nhau, với các cấp
ủy, tổ chức đảng trực thuộc trong thực hiện các nhiệm vụ.
1.2. Thuận lợi và khó khăn
- Về thuận lợi:
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan hiện nay cơ bản đáp ứng
với yêu cầu nhiệm vụ chính trị .
Bộ máy cơ quan được bố trí đủ các chức danh, đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ, đa số cán bộ, công chức được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có ý
thức học hỏi, đổi mới trong cơng tác lãnh đạo, quản lý, đã và đang phát huy
được vai trị trách nhiệm, có đóng góp tích cực, củng cố hệ thống chính trị vững
mạnh.
- Về khó khăn:
Thời gian vừa qua tình trạng luân chuyển cán bộ, cắt giảm biên chế, gây
nên xáo trộn, tâm lí áp lực trong công việc.
2. Thực trạng việc rèn luyện tác phong làm việc của cán bộ, công
chức, người lao động ở cơ quan Huyện ủy Đơng Sơn theo phong cách Hồ
Chí Minh
Thực hiện Chỉ thị 05-CT/BCT về việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” đã tạo được sự chuyển biến rõ nét từ nhận thức
đến hành động trong cán bộ, công chức và đông đảo các tầng lớp nhân dân, trở
thành đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, có sức lan tỏa, thấm sâu và từng bước

phát huy tác dụng tích cực trong hệ thống chính trị và tồn xã hội.
2.1. Ưu điểm
15


- Tác phong quần chúng
Trong những năm qua, việc rèn luyện tác phong quần chúng trong công
việc của cán bộ, công chức trong cơ quan đã đạt được nhiều kết quả rõ rệt. T inh
thần trách nhiệm, ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong của
cán bộ, đảng viên đã tự giác và thường xuyên hơn với những kết quả cụ thể
trong việc khắc phục khó khăn, năng động, sáng tạo trong lãnh đạo; giải quyết
các vấn đề giáo dục, các vấn đề bức xúc của quần chúng nhân dân.
Thực hiện làm việc gần dân, lắng nghe ý kiến của dân, tôn trọng ý kiến
của dân, thấu hiểu nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Khi tiếp xúc, xử lý
công việc với nhân dân, luôn giữ thái độ lịch sự, tôn trọng, lắng nghe ý kiến và
giải thích cặn kẽ; ngơn ngữ giao tiếp rõ ràng, dễ hiểu. Khơng có các hành vi gây
phiền hà, nhũng nhiễu, tiêu cực, thiếu trách nhiệm.
- Việc rèn luyện tác phong tập thể - dân chủ
Việc thực hiện tác phong tập thể - dân chủ được thể hiện rõ ở việc thực
hiện nghiêm nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tất cả những công
việc quan trọng đều được đưa ra bàn bạc, lấy ý kiến công khai.
Hàng năm, các hội nghị được tổ chức tại đơn vị, cơng tác tự phê bình và
phê bình được cán bộ, đảng viên thực hiện thường xuyên, cụ thể trên từng lĩnh
vực của cá nhân phụ trách, chỉ rõ nguyên nhân tồn tại, hạn chế, nêu lên những
giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới. Việc xây dựng kế hoạch triển khai
học tập Chỉ thị, Nghị quyết được thực hiện thường xuyên.
- Việc rèn luyện tác phong khoa học
Những năm qua, trên cơ sở quán triệt các chỉ thị của Bộ Chính trị, đặc biệt
là Chỉ thị 05-CT/TW, Kết luận số 01 – KL/TW ngày 18/5/2021 về tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị "Về đẩy mạnh học tập và làm theo

tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"đội ngũ cán bộ, cơng chức đã có ý
thức xây dựng và rèn luyện phong cách làm việc khoa học. Trong q trình cơng
tác, đồng chí Thủ trưởng cơ quan luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình,
cẩn trọng trong lời phát biểu chỉ đạo tại các cuộc họp
16


Để thực hiện công việc một cách khoa học, Cơ quan luôn xây dựng kế
hoạch làm việc theo từng tuần, từng tháng, từng quý. Đặc biệt, yêu cầu các cán
bộ, công chức xây dựng kế hoạch làm việc theo từng tuần trên cơ sở bám sát
nhiệm vụ trọng tâm trong tháng. Cuối tháng, họp hội đồng để nhận xét, đánh giá
kết quả những việc hoàn thành, những việc chưa hoàn thành, tiến độ công
việc… để lãnh đạo nắm bắt, đôn đốc công việc.
Cán bộ, công chức cơ quan là những người có trình độ, có năng lực và
kinh nghiệm cơng tác. Hàng năm, được học tập nâng cao trình độ chun mơn,
trình độ lý luận chính trị và tập huấn nâng cao nghiệp vụ nên trong công tác
không để xảy ra trường hợp người dân bức xúc, khơng có đơn thư, khiếu nại
vượt cấp. Mọi cán bộ, công chức luôn gương mẫu, thực hiện theo nội quy cơ
quan, chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước. Làm việc
khoa học, áp dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu suất công việc; không
ngừng nỗ lực, phấn đấu trong công tác...
d. Việc rèn luyện tác phong nêu gương
Cán bộ lãnh đạo cơ quan luôn gương mẫu về thực hiện tác phong, chấp
hành giờ giấc, lề lối làm việc để cấp dưới làm theo; nêu gương tự phê bình và
phê bình về đổi mới phương pháp, tác phong làm việc khoa học, thiết thực,
hiệu quả.
Cán bộ, công chức, người lao động luôn ý thức đúng đắn về trách nhiệm
của mình trên mọi vị trí cơng tác và tự giác thực hiệm nhiệm vụ. Tất cả mọi
người, ở mọi cương vị, vị trí cơng tác ln nêu cao tinh thần trách nhiệm trong
cơng việc. Khi được giao việc gì, dù to hay nhỏ, khó hay dễ cũng phải đem cả

tinh thần, sức lực ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ, dám nghĩ, dám làm, chủ động, sáng tạo để có kết quả cao nhất. Mỗi cán bộ,
cơng chức ln làm trịn trách nhiệm của mình với cơ quan, một cách tự giác,
xây dựng và nêu gương tốt về tinh thần, thái độ làm việc.
Cán bộ, công chức, người lao động luôn nắm vững chính sách, pháp luật để
thực hiện và tuyên truyền trong phạm vi cơng việc của mình; nghiên cứu để hiểu
17


rõ những quy định của nhà nước, từ đó thực hiện đúng và giải thích, tuyên
truyền vận động nhân dân cùng thực hiện.
Trong mọi hoạt động, mỗi cán bộ, công chức ln phát huy vai trị độc
lập, tự chủ, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, lấy lợi ích của tập thể làm cơ sở cho
hoạt động của mình; gương mẫu trong mọi việc, mọi lĩnh vực, trong công tác
cũng như trong đời sống sinh hoạt hàng ngày; luôn cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng, vơ tư, nói đi đơi với làm, trong đó chủ yếu trên ba mối quan hệ đối với
mình, đối với người, đối với cơng việc.
2.2. Hạn chế
- Tinh thần, thái độ với cấp trên, đồng nghiệp và nhân dân có lúc chưa
đúng, chưa gần dân, sát dân, chưa tận tình hướng dẫn cụ thể chi tiết cho nhân
dân.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, trong việc tiếp thu ý kiến của
nhân dân chưa đi sâu sát, chưa nắm bắt hết được tâm tư nguyện vọng. Từ đó
việc làm và hiệu quả cơng việc chưa cao, lề lối tác phong làm việc chưa thực sự
chuyển biến.
- Trong một số việc, chưa thực sự phát huy phong cách tập thể - dân chủ,
nói thật, ngại va chạm, nể nang.
Tại một số hội nghị, phong cách làm việc tập thể chưa được thể hiện rõ ở
một số nhiệm vụ, một số đồng chí cịn đưa ra ý kiến chung chung, ý kiến thiếu
tính xây dựng; một số cán bộ cơng chức cịn mang nặng tính trình bày, chưa tóm

gọn các vấn đề; khi làm việc cịn chưa đảm bảo thời gian, thực hiện công việc
chồng chéo với nhau, nhất là công việc cá nhân và công việc chuyên môn.
Một số cán bộ, công chức là người trẻ tuổi, kinh nghiệm thực tế không
nhiều, chưa chú ý học hỏi cách làm đúng, hiệu quả trong công tác chưa cao;
chưa thực sự quan tâm nhiều hiệu quả công tác nên trách nhiệm cơng việc chưa
cao, chưa có tính sáng tạo trong cơng việc, vẫn cịn tư tưởng làm việc “tối ngày
đầy công”.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
18


Những tồn tại, hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, trong đó, ngun nhân
chủ yếu là do trình độ chun môn, nhận thức của một số cán bộ , công chức
cịn hạn chế; cán bộ, cơng chức trong q trình làm việc đơi khi cịn mang tính
chủ nghĩa cá nhân, theo kinh nghiệm, cảm tính, nói chưa đi đơi với làm; có cơng
chức nhiệt tình nhưng chưa xây dựng được kế hoạch công tác cụ thể nên hoạt
động cũng chưa thật sự hiệu quả. Một số công chức làm công việc kiêm nhiệm,
ảnh hưởng tâm lý, phụ cấp thấp nên chưa thực sự “tồn tâm tồn ý” cho cơng
việc.
Do sự áp đặt ý chí của lãnh đạo; sự tham gia đóng góp của một số cán bộ,
cơng chức cịn hình thức, ngại nói thẳng, nói thật, ngại va chạm, nể nang.
Bên cạnh đó, một số cán bộ, cơng chức, người lao động chưa ý thức đầy
đủ về vai trò, trách nhiệm của mình trong cơng việc, năng lực làm việc cịn hạn
chế, khơng có tính sáng tạo, chưa dám đổi mới; tác phong làm việc chưa dân
chủ, khoa học, …
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG PHONG CÁCH LÀM VIỆC
CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở CƠ QUAN
HUYỆN ỦY ĐÔNG SƠN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY THEO
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Để phát huy những ưu điểm và khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong

việc rèn luyện phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, người lao
động theo phong cách Hồ Chí Minh, cần thực hiện các giải pháp như sau:
1. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức về sự cần thiết
phải xây dựng phong cách làm việc theo phong cách Hồ Chí Minh
Nhằm làm cho đội ngũ cán bộ, công chức thấm nhuần về quan điểm của
Đảng ta lấy Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ
nam cho mọi hành động; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Để nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức về học tập, rèn
luyện theo phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần làm tốt một số
nội dung như:
19


Cán bộ, công chức, người lao động ở cơ quan Huyện ủy phải tăng cường
việc, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường
lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; các tri thức khoa học và kỹ
thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý. Thông qua việc giáo
dục, học tập nâng cao ý chí, nghị lực để giải quyết những vấn đề, những khó
khăn, thử thách trong thực tế cơng tác; có khả năng chống lại những cái xấu, tiêu
cực, tránh được sự cám dỗ quyền lực, đặc quyền, đặc lợi,..
Tổ chức đảng cần thường xuyên coi trọng việc giáo dục, nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của tập thể cấp ủy và đội ngũ cán bộ, đảng viên về nguyên tắc
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nâng cao chất lượng hội nghị của cấp uỷ và
mở rộng sinh hoạt dân chủ trong nội bộ đảng; lãnh đạo các tổ chức trong nhà
trường xây dựng cơ chế, quy chế, quy định cụ thể để có sự ràng buộc thực hiện
nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách có hiệu quả; phát huy vai trị tiền
phong gương mẫu, tinh thần dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm của cán
bộ, đảng viên đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị.
Khắc phục tình trạng dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể hoặc độc đốn, chun quyền;
tăng cường cơng tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng đối với việc xây dựng,

thực hiện phong cách làm việc của cán bộ, biểu dương, khen thưởng những
người có phong cách làm việc tốt, có hiệu quả, ngăn chặn, uốn nắn kịp thời
những người có phong cách làm việc chưa phù hợp, kém hiệu quả.
Cán bộ, công chức cơ quan huyện ủy Đông Sơn phải tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc; tuyệt đối chấp hành sự phân công, điều động của tổ chức, cơ quan,
đơn vị; có ý thức kỷ luật, giữ vững kỷ cương hành chính; chấp hành nghiêm kỷ
luật phát ngơn; khơng được dùng đơn thư nặc danh, nói và viết sai sự thật. Tiếp
tục phổ biến, quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các văn bản chỉ đạo
về kỷ luật kỷ cương đối với cán bộ, công chức. Xây dựng và tổ chức thực hiện
chương trình, kế hoạch công tác cụ thể trên cơ sở nhiệm vụ được giao và nhiệm
vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được phân
công, chủ động xử lý công việc thuộc thẩm quyền; tăng cường trách nhiệm trong
thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo, thực hiện quy chế phối hợp xử lý các nội
20


dung có liên quan theo Quy chế cung cấp thơng tin tại cơ quan, đơn vị và địa
phương. Khẩn trương khắc phục ngay những tồn tại, hạn chế để tạo sự chuyển
biến tích cực trong chỉ đạo, điều hành.
2. Lựa chọn và xây dựng tiêu chí đánh giá đội ngũ cán bộ, cơng chức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Như chúng ta đã biết, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí,
vai trị của cán bộ, mọi công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém. Để xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài thì trước hết phải lựa chọn và
xây dựng được đội ngũ cán bộ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lựa chọn người cán
bộ, phải có 5 tiêu chí, đó là:
Thứ nhất, những người tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc,
trong lúc đấu tranh.
Thứ hai, những người có mối liên hệ mật thiết với nhân dân, hiểu nhân
dân, luôn quan tâm chú ý đến lợi ích của nhân dân, được dân chúng tin cậy và

nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ.
Thứ ba, những người có thể phụ trách, giải quyết các vấn đề, có sáng
kiến, kiên quyết, gan góc khơng sợ khó khăn, khi thất bại khơng hoang mang và
khi thắng lợi không kiêu ngạo.
Thứ tư, những người luôn giữ kỷ luật, kỷ cương.
Thứ năm, những người có trình độ văn hóa, ham nghiên cứu lý luận chính
trị và nghề nghiệp, gắn kinh nghiệm với thực tế, lý luận thiết thực và bổ ích.
Trên cơ sở các tiêu chí nêu trên, cần quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, bản lĩnh, nhiệt tình với cơng
tác, có tâm huyết; đào tạo gắn với quy hoạch, bố trí, sắp xếp cán bộ phù hợp với
khả năng, năng lực và sở trường của từng người. Muốn vậy, ngay từ khâu tuyển
chọn, quy hoạch đến khâu tuyển dụng, bố trí, sắp xếp, đào tạo, bồi dưỡng, khen
thưởng, kỷ luật phải được tiến hành một cách cơng bằng, khách quan, cơng tâm;
đồng thời ngồi các quy định của Đảng và nhà nước về công tác đánh giá cán
bộ, cơng chức thì mỗi cơ quan, đơn vị phải cần phải đưa nội dung về tác phong
làm việc theo phong cách Hồ Chí Minh để làm tiêu chí đánh giá cán bộ, cơng
21


chức; cần quan tâm đến lực lượng sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học có
khả năng, trình độ để thu hút về địa phương.
Trong công tác chuyên môn, cần có sự đầu tư chun sâu với sự chính xác
tối đa về kiến thức và đảm bảo thường xuyên cập nhật văn bản mới, kiến thức
thực tiễn mới. Việc giải quyết các công việc, nhất là đối với công tác tuyên
truyền, vận động, thuyết phục, giải quyết các vấn đề phát sinh cần nắm rõ tình
hình, phân tích, đánh giá để có tác phong phù hợp.
3. Xây dựng mơi trường làm việc tích cực
Cấp ủy, cơ quan cần phải xây dựng được môi trường làm việc đồng bộ
giữa thể chế, các điều kiện thuận lợi và các giá trị chuẩn mực đạo đức, đó là:
kiên định, kỷ cương, đồn kết, sáng tạo, cần tôn vinh sự cống hiến... nhằm tạo

động lực phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, người lao
động. Tránh phát ngôn tùy tiện, bừa bãi, gặp đâu nói đấy làm ảnh hưởng đến
danh dự, uy tín của Đảng, nhà nước và của cá nhân khác.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đòi hỏi cấp ủy, cơ quan cần xây dựng và
ban hành các quy định, quy chế như quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế phát ngôn,
ứng xử, tác phong, lề lối làm việc, xây dựng mối quan hệ trong công việc giữa
các cán bộ, công chức trong việc phối hợp, tạo điều kiện giúp đỡ nhau để hoàn
thành tốt nhiệm vụ chung... Từ đó, tạo ra mơi trường làm việc, nét văn hóa cơng
sở, văn hóa ứng xử văn minh, lịch sự, tôn trọng, cấp ủy,cơ quan cấp trên cần có
sự quan tâm, hỗ trợ, đầu tư về cơ sở vật chất và tinh thần nhằm tạo môi trường
làm việc tốt nhất.
Nếu cao ý thức nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế làm việc của cơ
quan, đơn vị; phải tận tuỵ, hết lòng phục vụ nhân dân; chấn chỉnh kỷ luật, kỷ
cương, nâng cao hiệu quả thời gian làm việc: chấp hành và sử dụng có hiệu quả
thời giờ làm việc theo quy định của pháp luật, nội quy, quy định của cơ quan, tổ
chức, đơn vị; không sử dụng thời gian làm việc vào việc riêng; không đi muộn,
về sớm, không chơi games trong giờ làm việc; phải có mặt đúng giờ tại cơng sở
theo giờ hành chính hoặc theo quy định cụ thể của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
22


tham gia hội họp đúng thành phần và thời gian quy định. Thường xuyên kiểm
tra, giám sát, nhắc nhở khi có vi phạm, khơng né tránh, nể nang.
4. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đề cao vai trị tiền phong,
gương mẫu của người đứng đầu
Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta.
Thông qua việc làm này, cơ thể Đảng như được gột sạch những vết nhơ; cán bộ,
đảng viên nhận rõ ưu, khuyết điểm của mình để phấn đấu và rèn luyện; những
biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ được nhận diện và khắc
phục. Bởi thế, cần đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong hoạt động và sinh

hoạt Đảng với tinh thần xây dựng, trung thực, chỉ rõ những biểu hiện của sự suy
thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xây dựng
quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại
va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh. Cùng với đó, cần đề cao vai
trị gương mẫu của người đứng đầu trong rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”; đổi mới phong cách làm việc, sâu sát trong công việc. Đẩy mạnh cơng tác
kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường “sức đề kháng” nhằm vô
hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động phá hoại tư tưởng, thâm nhập, chuyển hóa,
lũng đoạn nội bộ, tha hóa cán bộ Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch. Vận
dụng linh hoạt các biện pháp xử lý đối với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”; “xây” đi liền với “chống”, nói đi đơi với làm, tạo mơi trường thuận
lợi phịng, chống có hiểu quả biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ.
Cán bộ cơng chức, người lao động phải chịu trách nhiệm trước pháp luật,
trước người phụ trách trực tiếp và trước người đứng đầu trong cơ quan, đơn vị
về việc thi hành nhiệm vụ của mình. Trong khi thi hành cơng vụ, cán bộ, cơng
chức được trình bày ý kiến, đề xuất việc giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi
trách nhiệm của mình khác với ý kiến của người phụ trách trực tiếp, nhưng vẫn

23


phải chấp hành sự chỉ đạo và hướng dẫn của người phụ trách trực tiếp, đồng thời
có quyền bảo lưu ý kiến và báo cáo lên cấp có thẩm quyền.
Thực hiện phê bình và tự phê bình nghiêm túc, phát huy ưu điểm, có giải
pháp sửa chữa khuyết điểm; thẳng thắn đóng góp ý kiến để xây dựng nội bộ cơ
quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh. Đóng góp ý kiến vào việc xây dựng các
văn bản, đề án của cơ quan, đơn vị khi được u cầu.
Tích cực phịng, chống tiêu cực trong công tác quản lý cán bộ, cơng chức,

trong đó thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 10/CT-TTg, ngày 22 tháng 4 năm 2019,
của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình
trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết
công việc; kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, tham ô, tham nhũng.
Cần chú trọng tinh thần rèn luyện phẩm hạnh, lòng tự trọng; phải coi việc rèn
luyện đạo đức của cán bộ, cơng chức theo hướng trong sạch, liêm chính là biện
pháp quan trọng đầu tiên để hạn chế tham nhũng. Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí và bảo đảm thơng tin chính xác, kịp thời; thực hiện các quy định về
nghĩa vụ, đạo đức, văn hóa giao tiếp, quy tắc ứng xử, nguyên tắc trong hoạt
động nghề nghiệp và những việc không được làm theo quy định của pháp luật
5. Đề cao trách nhiệm tự thân rèn luyện phong cách làm việc của đội
ngũ cán bộ, công chức
Phong cách không phải là cái có sẵn, khơng phải là bẩm sinh. Phong cách
là nét đặc sắc, đặc trưng riêng và là sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Nét đặc sắc đó,
sự sáng tạo đó, chỉ có được thơng qua q trình học tập và rèn luyện thực sự
nghiêm túc và trách nhiệm của mỗi cá nhân. Người cán bộ, giáo viên chỉ có
phong cách làm việc quần chúng, dân chủ, khoa học trên cơ sở thái độ cầu thị,
trách nhiệm cao đối với bản thân, với Đảng với nhân dân; trên cơ sở sự chuyển
hóa từ nhận thức đến hành động, thấm sâu giữa lời nói với việc làm, sự thống
nhất giữa cách nghĩ, cách làm và cách sống của cán bộ, công chức.

24


Đội ngũ cán bộ, công chức cần tăng cường học tập, rèn luyện từ thực tiễn.
Chính thực tiễn sơi động giúp cho cán bộ, giáo viên tự ý thức được sự hạn chế,
thiếu hụt của bản thân để có kế hoạch học tập và rèn luyện. Đồng thời, giúp cán
bộ, công chức bổ sung, bồi đắp thêm những thiếu hụt về kiến thức, năng lực,
kinh nghiệm và kỹ năng công tác đáp ứng với sự vận động, phát triển của cách
mạng trong giai đoạn mới.

Mỗi cán bộ, công chức, người lao động thường xuyên rút kinh nghiệm, tự
học hỏi xây dựng cho mình khả năng làm việc chuyên nghiệp, khoa học trong
thực thi nhiệm vụ thơng qua việc hình thành cách làm việc có kế hoạch, chương
trình cụ thể; được thực hiện theo một quy trình đã được xác định chặt chẽ, thông
suốt, thành thạo và đạt hiệu quả cao.
Mỗi cán bộ, công chức, người lao động cần nắm được mục tiêu, nhiệm vụ
của bản thân gắn với mục tiêu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và của huyện; nắm
được các quy định về chuẩn mực của người cán bộ, cơng chức, viên chức. Có
tinh thần trách nhiệm cao với cơng việc; có tinh thần cầu thị, lắng nghe; tâm
huyết, tận tụy, nghiêm túc trong công việc; thực hiện “nói đi đơi với làm”, tận
tâm, tận lực phục vụ Nhân dân; năng động, sáng tạo, mạnh dạn, dám nghĩ, dám
làm, vượt khó để hồn thành tốt nhiệm vụ được giao.

C. KẾT LUẬN
Phong cách làm việc của người cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh có
nhiều nội dung nhưng tất cả đều gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và
25


×