Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch tại thành phố việt trì tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.57 KB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỖ THU HIỀN

NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH
DU LỊCH TẠI THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ TỈNH PHÚ THỌ
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Quản trị dịch vụ Du lịch& Lữ hành

PHÚ THỌ, NĂM 2018
1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN

ĐỖ THU HIỀN

NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH
DU LỊCH TẠI THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ TỈNH PHÚ THỌ
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Quản trị dịch vụ Du lịch& Lữ hành

Người hướng dẫn khoa học: Th.S. Phan Thị Hồng Giang

PHÚ THỌ, NĂM 2018
2


1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định: Con người ln ở
vị trí trung tâm trong tồn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững. Tri thức con người là một nguồn lực không bao giờ cạn và luôn được tái
sinh với chất lượng ngày càng cao hơn bất cứ một nguồn lực nào khác. Lịch sử
phát triển nhân loại đã kiểm nghiệm và đi đến kết luận: nguồn lực con người là
lâu bền nhất, chủ yếu nhất trong sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp tiến
bộ của nhân loại.
Trước đây, trong các nhân tố sản xuất truyền thống như: đất đai, lao động, vốn
thì đất đai được coi là nhân tố sản xuất quan trọng nhất. Song, ngày nay đã có sự
thay đổi thứ tự ưu tiên. Chính nguồn nhân lực có chất lượng cao mới là yếu tố cơ bản
nhất của mọi q trình. Vì vậy, để có được tốc độ phát triển cao các quốc gia trên thế
giới đều rất quan tâm tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ngày nay, sự
cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp, các công ty, các sản phẩm chủ yếu
là cạnh tranh về tỷ lệ hàm lượng chất xám kết tinh trong sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
nhờ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Do vậy, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đối với các quốc gia trên
thế giới đã và đang trỏ thành vấn đề cấp bách có tầm chiến lược, là vấn đề có
tính chất sống cịn trong điều kiện tồn cầu hóa kinh tế với trình độ khoa học –
công nghệ ngày càng cao và sự lan tỏa của kinh tế tri thức.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có
tính liên ngành liên vùng và xã hội hoá cao. Chất lượng của hoạt động du lịch
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tiềm năng tài nguyên du lịch, chất lượng của hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật ngành Du lịch và kết cấu hạ tầng, chính sách phát
triển ngành Du lịch của Nhà nước, tình hình an ninh chính trị của đất nước, mức
độ mở cửa và hội nhập của nền kinh tế. Ngoài ra, với đặc thù của hoạt động du
lịch là khách du lịch muốn thụ hưởng các sản phẩm và dịch vụ du lịch thì phải
thực hiện chuyến đi đến những điểm cung cấp dịch vụ; quá trình sản xuất và tiêu

thụ sản phẩm các dịch vụ du lịch diễn ra đồng thời, thông qua đội ngũ lao động
phục vụ trực tiếp, nên chất lượng của nguồn nhân lực ảnh hưởng trực tiếp, quyết
định đến chất lượng của sản phẩm và dịch vụ du lịch. Nâng cao chất lượng


2
nguồn nhân lực ngành Du lịch là vấn đề mang tính sống cịn đối với sự phát
triển du lịch của mỗi quốc gia, vùng miền.
Phát triển du lịch nhanh và bền vững, thu hẹp dần khoảng cách với những
quốc gia có ngành Du lịch phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu và toàn
diện là yêu cầu cấp bách đặt ra cho ngành Du lịch Việt Nam. Điều này chỉ có thể
thực hiện được nếu chúng ta có đội ngũ lao động chất lượng cao, số lượng đủ,
cơ cấu hợp lý gồm đông đảo những nhà quản lý, những nhân viên du lịch lành
nghề, những nhà khoa học công nghệ du lịch tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ,
tháo vát và có trách nhiệm cao. Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ vừa cấp bách,
vừa lâu dài quyết định tương lai phát triển của ngành du lịch.
Nhìn chung, nguồn nhân lực du lịch của thành phố chưa đáp ứng được nhu
cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa, chưa thục sự là động lực để
đưa du lịch trở thành nghành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận
và phân tích thực trạng nguồn nhân lực du lịch của thành phố để có những giải
pháp nhằm tạo ra một sự chuyển biến về chất, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực du lịch đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa của
thành phố trở thành nhiệm vụ cấp thiết.
Với ý nghĩa trên,tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu phát triển
nguồn nhân lực ngành du lịch tại thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ.”Làm
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2 .Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ở thành phố Việt Trì cũng như trong cả nước đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu khoa học, luận văn tốt nghiệp về vấn đề nguồn nhân lực, phát triển du lịch ở
nhiều góc độ và phạm vi rộng hẹp khác nhau như:

- Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay do GS. Phạm
Huy Lê và GS. TSKH Vũ Minh Giang (chủ biên), Chương trình KX07, Đề tài
KX07 - 02, Hà Nội, tập I - 1994, tập II – 1996
- Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH của GS, VS.
Phạm Minh Hạc (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001)
- Về phát triển toàn diện con người thời kỳ CNH, HĐH do GS, VS. Phạm
Minh Hạc chủ biên(NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001)
- Về phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ CNH, HĐH do GS,
VS. Phạm Minh Hạc và nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chủ biên (NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003)


3
- “Phân tích và đánh giá chất lượng đội ngũ lao động tại cac khách sạn trên
địa bàn thành phố Huế” của Đồn Cơng Thiện, năm 2007
- Nghiên cứu con người đối tượng và những hướng chủ yếu (NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2001)
- Phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước của TS. Nguyễn
Thanh (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002)
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất
nước của TS. Mai Quốc Chánh (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999)
- Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001 - Đổi mới và sự nghiệp phát
triển con người (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001)
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu xác nhận tầm quan trọng
của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới; phân tích thực trạng phát triển
con người, phát triển nguồn nhân lực và định hướng phát triển con người, phát
triển nguồn nhân lực trong thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, hay giải pháp để phát triển du lịch
nói chung, một số tác giả bàn đến hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong một số
doanh nghiệp, khách sạn cụ thể. Cho đến nay, việc đi sâu nghiên cứu phát triển

nguồn nhân lực trong nghành du lịch ở thành phố Việt Trì chưa có cơng trình
nghiên cứu riêng. Vì vậy, tơi chọn và nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu phát triển
nguồn nhân lựcngành du lịch thành phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ” là cách tiếp
cận cụ thể một lĩnh vực chưa được đề cập một cách hồn chỉnh, mong có những
đóng góp nhất định vào sự phát triển của ngành du lịch nói riêng và sự phát triển
kinh tế - xã hội nói chung của thành phố Việt Trì trong thời gian tới.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực trong ngành du lịch ở thành
phố Việt Trì, từ đó xây dựng hệ thống các giải pháp để thúc đẩy phát triển
nguồn nhân lực cho ngành du lịch trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân lực du
lịch tạo cơ sở khoa học cho việc phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực
trong ngành du lịch tại thành phố Việt Trì.
- Khảo sát thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch tại thành
phố Việt Trì.


4
- Đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch nhằm đáp
ứng phát triển du lịch nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Việt Trì.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực trong các doanh
nghiệp kinh doanh du lịch ở thành phố Việt Trì, trong đó đề tài đi sâu nghiên
cứu phát triển nguồn nhân lực trong các đơn vị lưu trú, coi đó là nhân tố quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Việt Trì.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
4.2.1 Phạm vi không gian

Đề tài nghiên cứu nguồn nhân lực trong ngành du lịch trên địa bàn thành phố
Việt Trì.
4.2.2 Phạm vi nội dung
Do điều kiện và năng lực nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu đặc điểm, vai trò, các nhân tố tác động, thực trạng phát triển nguồn
nhân lực trong ngành du lịch, đưa ra các giải pháp và đề xuất một số kiến nghị
nhằm phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch đáp ứng u cầu cơng
nghiệp hóa- hiện đại hóa ở thành phố Việt Trì.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng một số biện pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp thu thập tài liệu (tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp).
- Phương pháp phân tích thống kê.
- Phương pháp tổng hợp số liệu.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, đề tài có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng nguồn nhân lực ngành du lịch tại thành phố Việt Trì
tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch thành
phố Việt Trì tỉnh Phú Thọ.


5
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số khái niệm cơ bản về nguồn nhân lực
1.1.1. Nguồn nhân lực
Thuật ngữ “nguồn nhân lực” được sử dụng rộng rãi ở các nước có nền kinh tế

phát triển từ những năm 80 của thế kỷ XX với ý nghĩa là nguồn lực con người, phản
ánh sự đánh giá lại vai trị yếu tố con người trong q trình phát triển. Sự xuất hiện
của thuật ngữ “nguồn nhân lực” thể hiện sự công nhận của phương thức quản lý mới
trong việc sử dụng nguồn lực con người.
Nguồn lực con người được hiểu là tổng hòa của các mối quan hệ thống nhất giữa
năng lực, thể lực, trí lực, văn hóa và tính năng động, nhạy bén của con người trong
một xã hội .
Khái niệm nguồn nhân lực có nguồn gốc từ bộ mơn kinh tế học và kinh tế
chính trị, được gọi một cách truyền thống là lao động - một trong bốn yếu tố của
sản xuất.
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về nguồn nhân lực. Có định nghĩa
tiếp cận theo hướng coi nguồn nhân lực là nguồn lực với yếu tố vật chất, tinh
thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ cho sự phát triển chung của các tổ
chức. Với cách tiếp cận này, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người
của các tổ chức có quy mơ, loại hình, chức năng khác nhau, có khả năng và tiềm
năng tham gia vào q trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế
xã hội của quốc gia, khu vực và thế giới.
Lí luận về vốn con người xem xét nhân tố con người với tư cách là một yếu
tố của quá trình sản xuất, một phương tiện để phát triển kinh tế xã hội và còn
xem xét con người từ quan điểm nhu cầu về các nguồn cho sự phát triển của nó.
Với cách tiếp cận này, ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn
bộ vốn con người gồm: thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp,…mà mỗi cá nhân
sở hữu và được xem là một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác như:
vốn tiền, vốn công nghệ, vốn tài nguyên thiên nhiên,…và họ cũng cho rằng việc
đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và được coi là cơ
sở vững chắc cho sự phát triển bền vững.


6
Theo từ điển thuật ngữ của Pháp (1915 – 1985) định nghĩa rằng: “nguồn nhân

lực xã hội bao gồm những người trong độ tuổi lao động, có khả nănglao độngnvà
muốn có việc làm”.
Các nhà khoa học ở Việt Nam cho rằng: “Con người Việt Nam – mục tiêu
và động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội”. Ở đây, nguồn nhân lực được hiểu
là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và
trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc .
Tuy có những định nghĩa khác nhau tuỳ theo góc độ tiếp cận, nhưng các
định nghĩa về nguồn nhân lực đều đề cập đến các đặc trưng chung là:
- Số lượng nguồn nhân lực: được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu về quy
mô và tốc độ tăng trưởngnguồn nhân lực. Sự phát triển về số lượng nguồn nhân
lực dựa trên hai nhóm yếu tố bên trong, bao gồm nhu cầu thực tế công việc đòi
hỏi phải tăng số lượng lao động; và các yếu tố bên ngoài của tổ chức như sự gia
tăng về dân số hay lực lượng lao động do di dân.
- Chất lượng nhân lực: là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu tố bộ phận như trí
tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, sức khoẻ, năng lực thẩm mỹ,... của
người lao động. Trong các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố quan
trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn lao động.
- Cơ cấu nguồn lao động: đây là yếu tố không thể thiếu khi xem xét đánh
giá về nguồn lao động. Cơ cấu nhân lực thể hiện trên các phương diện khác
nhau: cơ cấu về trình độ đào tạo, dân tộc, giới tính, độ tuổi,…
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai
khía cạnh. Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực.
Nguồn nhân lực nằm ngay trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ
bản giữa nguồn lực con người và các nguồn lực khác. Thứ hai, Nguồn nhân
lựcđược hiểu là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân. Với tư cách là một nguồn
lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng
sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, được biểu hiện ra là số lượng
và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định.
Với cách hiểu như vậy, nội hàm nguồn nhân lực không chỉ bao hàm những
người trong độ tuổi lao động, cũng không chỉ bao hàm về mặt chất lượng, mà

còn chứa đựng các hàm ý rộng hơn, gồm tồn bộ trình độ chun mơn mà con
người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai. Trong lý


7
thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được coi là phương tiện hữu hiệu cho
việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững.
Nguồn nhân lực cũng được nhìn nhận về khía cạnh số lượng, khơng chỉ
những người trong độ tuổi mà cả những người ngoài độ tuổi lao động. Nguồn
nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương
sẵn sàng tham gia một cơng việc lao động nào đó; nguồn lực con người được thể
hiện thông qua số lượng dân cư, chất lượng con người (bao gồm thể lực, trí lực
và năng lực phẩm chất), tức là không chỉ bao hàm số lượng, chất lượng, cơ cấu
nguồn nhân lực hiện tại, mà còn bao hàm của nguồn cung cấp nhân lực trong
tương lai của mỗi tổ chức, mỗi địa phương, mỗi quốc gia, khu vực và thế giới.
Nguồn nhân lực được hình thành trên cơ sở các cá nhân có vai trò khác
nhau và được liên kết với nhau theo những mục tiêu nhất định. Nguồn nhân lực
là toàn bộ vốn kiến thức, kỹ năng và sức người cần đầu tư vào công việc để đạt
được thành công.
Từ những phân tích trên, trong khóaluận này khái niệmnguồn nhân lựcđược
hiểu như sau: Nguồn nhân lựclà một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn
của dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất
và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và
khả năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số,
nhất là số lượng và chất lượng con người cơ sở đủ điều kiện tham gia vào nền
sản xuất xã hội.
1.1.2 Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là khái niệm động, do đó nội hàm của nó ln
ln phải thay đổi, bổ sung, hồn thiện cho phù hợp với điều kiện và yêu cầu
của từng thời kỳ phát triển. Trong điều kiệncơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, việc

đào tạo, bồi dưỡng, phân bổ và sử dụng nguồn nhân lực làm sao khai thác, phát
huy được tiềm năng vô tận của con người là một vấn đề cấp thiết.
Có quan niệm cho rằng: “Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định
của nguồn nhân lực thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất
bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực không những là chỉ
tiêu phản ánh trình độ kinh tế mà cịn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về
mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực
phát triển mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là một nguồn lực của sự phát
triển, mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định”.


8
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua một hệ thống các chỉ tiêu,
trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Tình trạng sức khỏe của dân cư:
Sức khỏe là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần. Sức khỏe là tổng hòa
nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần.
Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái về sức khỏe chia thành: thể lực tốt, loại khơng
có bệnh tật gì, thể lực trung bình, thể lực yếu, khơng có khả năng lao động.
Bên cạnh các chỉ tiêu về trạng thái sức khỏe của người lao động cịn có chỉ
tiêu đánh giá tình trạng sức khỏe của một quốc gia như: tỷ lệ sinh thô, tỷ lệ chết
thô, tỷ lệ tăng tự nhiên, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới tính, tuổi tác,…
- Trình độ văn hóa của người lao động:
Trình độ văn hóa của người lao động là sự hiểu biết của người lao động đối
với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội, biểu hiện thông qua: số
lượng người biết chữ và chưa biết chữ; số người có trình độ tiểu học; số người
có trình độ phổ thơng cơ sở; số người có trình độ phổ thơng trung học; số người
có trình độ Đại học – Cao đẳng;…
- Trình độ chun mơn kỹ thuật của người lao động:
Trình độ chun mơn kỹ thuật của ngườilao động là sự hiểu biết, khả năng

thực hành về chuyên môn nào đó. Trình độ chun mơn của người lao động
được đo bằng: tỷ lệ cán bộ trung cấp, tỷ lệ cán bộ Cao đẳng, Đại học, trên Đại
học.
Trình độ kỹ thuật của người lao động thường được dùng để chỉ trình độ của
người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định,
những khả năng thực hành về cơng việc nhất định, trình độ kỹ thuật được biểu
hiện thông qua các chỉ tiêu: số lượng đào tạo và đào tạophổ thơng; số người có
bằng kỹ thuật và khơng có bằng; trình độ tay nghề theo bậc thợ;…
- Chỉ số phát triển con người (HDI):
Chỉ số này được tính bằng 3 chỉ tiêu chủ yếu: tuổi thọ bình quân; thu nhập
bình quân đầu người và trình độ học vấn. Như vậy, chỉ số HDI không chỉ đánh
giá sự phát triển của con người về mặt kinh tế, còn nhấn mạnh đến chất lượng
cuộc sống và sự cơng bằng, tiến bộ xã hội.
Ngồi những chỉ tiêu có thể lượng hóa được, người ta cịn xem xét chỉ tiêu
năng lực phẩm chất của lao động phản ánh mặt định tính của nguồn nhân lực.


9
Ngồi ra, cịn có cách tiếp cận khác về chất lượng nguồn nhân lực. Chất
lượng nguồn nhân lựcđược đánh giá thông qua các tiêu thức:
- Sức khỏe: thể lực và trí lực.
- Trình độ học vấn; trình độ chun mơn; trình độ lành nghề.
- Các năng lực phẩm chất cá nhân như: ý thức kỷ luật, tính hợp tác, ý thức
trách nhiệm, sự chuyên tâm,…
Tóm lại, chất lượng nguồn nhân lực hiểu một cách tồn diện dựa trên những
khía cạnh sau: có lịng tự trọng và tự tơn dân tộc; có tinh thần trách nhiệm và ý
thức cộng đồng; có trình độ chun mơn vững vàng; có phương pháp và kỹ năng
thực hành; sự năng động sáng tạo trong công việc; có ý thức tự giác học hỏi
nâng cao trình độ, biết tận dụng mọi cơ hội để mở rộng sự hiểu biết; có sức khỏe
tốt để hồn thành các công việc được giao.

1.1.3 Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn lực con người, hoặc phát triển nguồn nhân lực, hoặc phát
triển nguồn tài nguyên con người cùng với phát triển người là những khái niệm
hình thành và phát triển trên thế giới, chủ yếu trong thập niên 70, dựa trên quan
điểm mới về phát triển và về vị trí con người trong sự phát triển.
Phát triển nguồn nhân lựctheo nghĩa rộng là tổng thể các hoạt động học tập
có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để tạo ra sự
thay đổi về hành vi nghề nghiệp cho người lao động được thực hiện bởi doanh
nghiệp .
Phát triển nguồn nhân lực được hiểu cơ bản là gia tăng giá trị cho con
người trên các mặt đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực,...làm cho con
người trở thành những người lao động có những năng lực mới và cao, đáp ứng
được những yêu cầu to lớn của sự phát triểnkinh tế - xã hội, của sự nghiệp cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế đã có những bước tiến đáng kể: đạt
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bình quân 7,5% / năm, nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, chiến lược cơng nghiệp
hóa – hiện đại hóa đã bắt đầu được đẩy mạnh; quan hệ đối ngoại, vị thế nước ta
trên trường quốc tế được nâng cao; chính trị - xã hội ổn định,…Đạt được nhiều
thành tựu trên là nhờ sức mạnh tổng hợp từ nhiều yếu tố: đường lối đúng đắn
của Đảng, sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, sự điều hành
năng động của Chính phủ,… Đại hội Đảng lần thứ X đã khảng định: “Tăng


10
cường phát huy nội lực bằng cách phát triển nguồn nhân lực chủ yếu cho giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” …”
1.2. Nguồn nhân lựcdu lịch
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm du lịch
●Khái niệm về du lịch

Du lịch là một ngành kinh tế có tốc độ phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ
trên phạm vi toàn cầu. Từ chỗ ban đầu là hoạt động mang tính tâm linh của giới
quý tộc, tầng lớp thượng lưu, đến nay du lịch đã trở thành một hiện tượng phổ
biến và là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của mọi người dân.
Ngày nay, du lịch đã thực sự trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ
biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong đó
có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay khơng chỉ ở nước ta nhận thức về nội
dung du lịch vẫn chưa thống nhất. Do hoàn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau,
dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau mỗi người có một cách hiểu về du lịch
khác nhau.
Giáo sư, tiến sĩ Hunziker và giáo sư, tiến sĩ Krapf – Hai người được coi là
đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra định nghĩa như sau: “Du lịch
là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành
trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó khơng
thành cư trú thường xun và khơng dính dáng đến hoạt động kiếm lời”.
Trước khi Luật du lịch được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam thông qua năm 2005, ở nước ta khái niệm “Du lịch” cũng được hiểu theo nhiều
cách khác nhau, tuỳ thuộc cách tiếp cận mỗi tác giả. Từ khi có luật du lịch, khái niệm
du lịch ở nước ta được sử dụng tương đối thống nhất theo cách giải thích thuật ngữ
của luật. Luật du lịch giải thích khái niệm du lịch như sau: “Du lịch là các hoạt động
có liên quan đến chuyến đi của con người ngồi nơi cư trú thường xuyên của mình
nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng
thời gian nhất định” .
Đây là một định nghĩa súc tích, mang tính khái quát, bao hàm được cả 2 khía
cạnh cơ bản của du lịch là chuyến đi ngồi nơi cư trú với mục đích tham quan nghỉ
dưỡng và các hoạt động liên quan đến chuyến đi đó.
● Khái niệm nguồn nhân lực du lịch
Trong hoạt động du lịch, từ phía “cung du lịch” có nhiều thành phần tham
gia vào hoạt động phục vụ khách du lịch là:



11
+ Tại các đầu mối giao thông: Các hoạt động phục vụ khách du lịch đi qua
bằng phương tiện giao thông đường hàng không, đường bộ, đường sắt, đường
biển để đến điểm du lịch của họ được tổ chức tại hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật đặc thù như: sân bay, nhà ga, mạng lưới đường xá, cảng, các kho nhiên
liệu, các phương tiện máy móc và sửa chữa,… Các dịch vụ và phương tiện phục
vụ khách du lịch bao gồm: nhà hàng, quầy bar, cơ sở lưu trú, ngân hàng, viễn
thông, các cửa hàng bán lẻ, của hàng sách…, và hoạt động của một số cơ quan
quản lí nhà nước liên quan đến phục vụ khách du lịch như: biên phòng, xuất
nhập cảnh, hải quan cũng được tổ chức tại đây.
+ Tại điểm đến du lịch:
- Hoạt động của các doanh nghiệp phục vụ du lịch tuyến trước hay các
doanh nghiệp có giao dịch trực tiếp với du khách bao gồm: Dịch vụ lưu trú –
khách sạn , nhà nghỉ, khu nghỉ mát; dịch vụ ăn uống - nhà hàng, quán Bar; dịch
vụ vui chơi giải trí - các phương tiện thể thao, rạp hát, sịng bạc, cơng viên giải
trí, viện bảo tàng, các sự kiện và hoạt động lễ hội; dịch vụ lữ hành, vận chuyểncác hãng lữ hành, phịng bán vé hàng khơng, xe tuyến, tàu hỏa, tàu thủy, taxi, xe
cho thuê.
- Hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước chun ngành có liên quan
đến hoạch định chính sách, điều hành, kiểm sốt, quản lý các dịch vụ phục vụ du
lịch như: cơ quan cấp phép, đăng ký kinh doanh, cơ quan bảo đảm an ninh, trật
tự an toàn xã hội, cơ quan quản lý rừng quốc gia, bảo tồn thiên nhiên, cơ quan
quản lý văn hóa…
- Hoạt động của cộng đồng dân cư liên quan đến phục vụ du lịch, như: các
gia đình, cá nhân, các tổ chức cộng đồng của dân tộc ít người tham gia quá trình
phục vụ khách du lịch một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Hoạt động của các đơn vị đào tạo cung cấp nguồn nhân lực cho các doanh
nghiệp du lịch tuyến trước và tuyến sau.
Tóm lại,nguồn nhân lực ngành du lịch được hiểu là lực lượng lao động
tham gia vào quá trình phát triển du lịch, bao gồm lao động trực tiếp và lao

động gián tiếp. Lao độngtrực tiếp bao gồm những công việc trực tiếp phục vụ
khách du lịch như trong khách sạn, nhà hàng, lữ hành, các cửa hàng bán lẻ phục
vụ khách du lịch, cơ quan quản lý du lịch,… Lao động gián tiếp bao gồm những
công việc cung ứng, hỗ trợ cho các hoạt động trực tiếp phục vụ khách du
lịchnhư: cung ứng thực phẩm cho khách sạn nhà hàng, cung ứng hàng hoá cho


12
các cửa hàng bán lẻ phục vụ khách du lịch, các dịch vụ của Chính phủ hỗ trợ
phát triển du lịch, đào tạo nhân lực du lịch, xây dựng khách sạn , sản xuất máy
bay, các trang thiết bị phục vụ khách du lịch.
●Đặc điểm của nguồn nhân lực trong ngành du lịch
Lực lượng lao động trong ngành du lịch được chia thành 3 nhóm với những
đặc điểm khác nhau:
+ Nhóm lao động chức năng quản lí nhà nước về du lịch: Nhóm này có vai
trị quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của quốc gia và
từng địa phương, tham mưu hoạch định chính sách phát triển du lịch. Họ đại diện
cho Nhà nước để hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp du lịch
kinh doanh có hiệu quả; kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh.
+ Nhóm lao động chức năng sự nghiệp ngành du lịch: Đây là bộ phận có
trình độ học vấn cao, có kiến thức chun sâu về ngành du lịch, có chức năng
đào tạo, nghiên cứu khoa học về du lịch và có vai trị to lớn trong việc phát triển
nguồn nhân lựcngành du lịch, tác động lớn đến chất lượng và số lượng của
nguồn nhân lực ngành du lich hiện tại và trong tương lai.
+ Nhóm lao động chức năng kinh doanh: Nhóm lao động này chiếm số
lượng đông đảo nhất trong hoạt động của ngành du lịch và cần được nghiên cứu
kỹ lưỡng nhất.
Nhóm lao động chức năng kinh doanh có một số đặc điểm riêng là:
- Cơ cấu độ tuổi trẻ, tỷ lệ lao động nữ cao hơn so với lao động nam: xuất
phát từ tính đặc thù của ngành du lịch địi hỏi phải có lực lượng lao động có sức

khoẻ, trẻ trung và nhanh nhẹn, nên hình thành lực lượng lao độngcó cơ cấu độ
tuổi trẻ. Nhiều lĩnh vực phục vụ khách du lịch như lễ tân, bàn, bar, buồng đòi
hỏi có sự duyên dáng, cẩn thận và khéo léo của người phụ nữ. Vì vậy, tỷ lệ lao
động nữ thường cao hơn lao động nam.
- Không đồng đều về chất lượng và cơ cấu: Có sự phân bố khơng đồng đều
theo lãnh thổ và các nghiệp vụ du lịch. Xuất phát từ tính định hướng tài nguyên
rõ nét của ngành du lịch, các hoạt động du lịch thường diễn ra tại các khu, điểm
du lịch, những nơi có nhiều tài nguyên du lịch và được đầu tư đồng bộ về hạ
tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật ngành. Vì vậy, phần lớn lao động đã qua đào tạo
đều làm việc tại những khu du lịch, trung tâm du lịch lớn, ở những khu vực còn
lại thường thiếu lao động.


13
Trong ngành du lịch có nhiều cơng việc với u cầu lao động giản đơn,
khơng địi hỏi phải đào tạo ở trình độ cao mới thể hiện được, dẫn đến tình trạng
tỷ lệ lao động chưa tốt nghiệp phổ thơng trung học khá cao. Ngược lại, ở những
bộ phận tiếp xúc trực tiếp với khách du lịch, đội ngũ lao động thường được trang
bị đầy đủ các kỹ năng về chuyên môn nghiệp vụ, giao tiếp và tỷ lệ thông thạo
ngoại ngữ tương đối cao.
- Có sự biến động mạnh về số lượng theo thời gian trong năm: Do ảnh
hưởng của tính thời vụ du lịch các hoạt động du lịch thường diễn ra sôi động
trong một thời gian nhất định của năm (còn gọi là mùa cao điểm), vào thời điểm
cao điểm của mùa du lịch, các doanh nghiệp du lịch thường phải tuyển dụng
thêm các lao động thời vụ để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, phục vụ khách của
mình. Đến mùa thấp điểm, doanh nghiệp du lịch chấm dứt hợp đồng lao động
với những lao động thời vụ.
Lực lượng lao động làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp du lịch lại
được chia thành 4 nhóm cơ bản với vai trò và đặc trưng khác nhau trong q
trình hoạt động kinh doanh du lịch:

+ Nhóm lao động chức năng quản lý chung: Nhóm này gồm những người đứng
đầu các đơn vị kinh tế cơ sở (doanh nghiệp kinh doanh khách sạn , hãng lữ hành du
lịch, vận chuyển du lịch, là tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc hoặc các chức
danh tương đương). Lao động của người lãnh đạo trong lĩnh vực kinh doanh du lịch
có những điểm riêng biệt, bởi đối tượng, công cụ và sản phẩm lao động của họ có
tính đặc thù, thể hiện:
- Là loại lao động trí óc đặc biệt: Trong quá trình ra quyết định và tổ chức
thực hiện quyết định thể hiện rõ nét nhất đặc điểmlao động trí óc của người lãnh
đạo trong lĩnh vực kinh doanh du lịch.
- Là loại lao động tổng hợp: Với tư cách là một nhà chuyên môn, lao động
của lãnh đạo là lao động của người tìm kiếm nhân tài, sử dụng người giỏi, tổ
chức và điều hành công việc một cách trơi chảy cho mục đích kinh doanh có
hiệu quả cao. Với tư cách là nhà hoạt động xã hội, người lãnh đạo trong kinh
doanh du lịch còn tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội khác trong đơn vị và
theo yêu cầu của địa phương, ngành và đất nước (các tổ chức đoàn thể quần
chúng, các hiệp hội khoa học, kinh tế, kinh doanh, chính trị, thể thao, văn
hoá...).


14
Những đặc điểm trên đòi hỏi người lãnh đạo phải được đào tạo chu đáo, bài
bản, có bằng cấp quản lý và quản lý du lịch.
+ Nhóm lao động chức năng quản lý theo các nghiệp vụ kinh tế: bao gồm
lao động thuộc phòng kế hoạch đầu tư và phát triển; lao độngthuộc phịng tài
chính - kế tốn (hoặc phịng kinh tế); lao động thuộc phòng vật tư thiết bị, phòng
tổng hợp; lao độngthuộc phòng quản lý nhân sự... Nhiệm vụ chính của lao
độngthuộc các bộ phận này là tổ chức hạch toán kinh doanh, tổ chức bộ máy
quản lý doanh nghiệp, tổ chức lao động, tổ chức các hoạt động kinh doanh,
hoạch định quy mô và tốc độ phát triển doanh nghiệp. Lao độngthuộc nhóm này
có khả năng phân tích các vấn đề, đang hoặc sắp xảy ra trong doanh nghiệp của

mình, các tác động của các biến số vĩ mô của nền kinh tế, ảnh hưởng tới nhiệm
vụ của mình hoặc doanh nghiệp.
+ Nhóm lao động trực tiếp cung cấp dịch vụ cho khách: Đây là những lao
độngtrực tiếp tham gia vào quá trình kinh doanh du lịch, trực tiếp cung cấp dịch vụ
và phục vụ cho du khách. Nhóm lao độngnày rất đơng đảo, thuộc nhiều ngành nghề
khác nhau và địi hỏi phải tinh thơng nghề nghiệp. Trong khách sạn có lao
độngthuộc nghề lễ tân; nghề buồng; nghề chế biến món ăn; nghề bàn và pha chế đồ
uống; Trong kinh doanh lữ hành có lao động làm cơng tác điều hành chương trình
du lịch, marketing du lịch và đặc biệt có lao độngthuộc nghề hướng dẫn du lịch...
Trong ngành vận chuyển khách du lịch có lao động thuộc nghề điều khiển phương
tiện vận chuyển du lịch...
1.2.2. Vai trò và xu hướng phát triển nguồn nhân lực du lịch
1.2.2.1 Vai trò của phát triển nguồn nhân lực đối với ngành du lịch ở
Việt Nam
Phát triển nguồn nhân lực du lịch là những hoạt động nhằm tăng cường số
lượng và nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc của lực lượng lao động đang và
sẽ làm việc trực tiếp trong ngành du lịch, bao gồm: Lao động thuộc các cơ quan
quản lí nhà nước về du lịch và các đơn vị sự nghiệp trong ngành từ trung ương
đến địa phương, lao động trong các doanh nghiệp du lịch gồm đội ngũ cán bộ
quản trị kinh doanh, đội ngũ lao động nghiệp vụ trong các khách sạn- nhà hàng,
công ty lữ hành, vận chuyển du lịch..., Lao độnglàm công tác đào tạo du lịch
trong các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học .


15
Nguồn nhân lựclà nguồn lực đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và đối với ngành du lịch nói riêng. Vai trị
đó được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất: phát triển nguồn nhân lực quyết định đến sự phát triển của các
nguồn lực khác. Trong ngành kinh tế nói chung và trong ngành du lịch nói riêng,

so với các nguồn lực khác, nguồn nhân lựccó vai trị nổi bật ở chỗ: nó khơng bị
cạn kiệt đi trong quá trình khai thác và sử dụng. Ngược lại, nguồn nhân lựccó
khả năng tái sính và phát triển nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý.
Xét trong ngành du lịch, có thể thấy rằng: du lịch là một ngành địi hỏi nguồn
nhân lựclớn với nhiều loại trình độ khác nhau do tính chất, đặc điểm của ngành
có mức độ cơ giới hóa thấp và đối tượng phục vụ là khách hàng với nhu cầu rất
đa dạng. Chất lượng dịch vụ được cung cấp cho khách hàng không chỉ phụ
thuộc vào trình độ, kỹ năng, tay nghề của người lao động mà còn phụ thuộc vào
thái độ làm việc của họ. Chính điều này đã làm cho yếu tố con người trở thành
nguồn lực cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của ngành. Do đó, ở hầu
hết các quốc gia hiện nay, đều đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát
triển và đề ra các chính sách, biện pháp nhằm phát triển có hiệu quả nguồn nhân
lực quan trọng này.
Thứ hai:nguồn nhân lựcquyết định lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Trong ngành du lịch, sự đánh giá chất lượng dịch vụ của
khách hàng thường chịu ảnh hưởng rất lớn của quá trình giao tiếp giữa khách
hàng với nhân viên phục vụ. Mỗi cử chỉ, hành động, lời nói của nhân viên tạo ra
cho khách hàng một cảm nhận, một đánh giá về chất lượng phục vụ. Thái độ, kỹ
năng phục vụ của nhân viên nhà hàng chỉ bộc lộ rõ trong q trình khách tiêu
dùng sản phẩm, khó ngăn ngừa trước được các “khuyết tật” của sản phẩm. Đặc
trưng này chứng tỏ rằng, chất lượng nguồn nhân lực tác động trực tiếp tới hiệu
quả kinh doanh của mỗ doanh nghiệp nói riêng và chất lượng dịch vụ của ngành
du lịch nói chung. Điều này càng nhấn mạnh vai trò của việc phát triển nguồn
nhân lực, đặc biệt là nguồn lao động trực tiếp trong ngành du lịch.
Thứ ba: Con người là mục tiêu của sự phát triển, là nguồn lực góp phần
đáng kể vào việc làm tăng tổng GDP của xã hội. Phát triển kinh tế - xã hội suy
cho cùng là đạt được những mục tiêu phục vụ con người, làm cho cuộc sống con
người ngày càng tốt hơn, xa hội ngày càng văn minh. Nói cách khác, trong
ngành du lịch khách hàng chính là người tiêu dùng sản phẩm du lịch, song nhu



16
cầu tiêu dùng của khách hàng lại tác động mạnh mẽ tới việc cung ứng sản phẩm
đó, định hướng phát triển thông qua quan hệ cung cầu trên thị trường. Nếu thị
trường nhu cầu của một loại hàng hóa dịch vụ nào đó tăng lên, lập tức thu hút
lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa dịch vụ đó và ngược lại. Như chính
nhu cầu tiêu dùng của khách hàng đã tác động gián tiếp đến thị trường lao động,
tức là tác động tới nguồn lực con người. Nhu cầu du lịch ngày càng phát triển đã
thu hút một lượng lớn lao động trực tiếp phục vụ trong ngành, tạo ra nhiều công
ăn việc làm cho người lao động, đồng thời chính lực lượng đó cũng tạo ra nhiều
của cải vật chất cho xã hội, điều đó lại tác động tới phát triểnkinh tế - xã hội.
Thứ tư:nguồn nhân lựctiếp tục đưa ngành du lịch phát triển trong thời đại
khoa học cơng nghệ và tồn cầu hóa. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo
ra sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng trong tất cả các lĩnh vực của đời
sốngkinh tế - xã hội, cùng với đó là q trình tồn cầu hóa đã tạo điều kiện thuận
lợi và cơ hội cho các nước phát triển được nhiều ngành, trong đó du lịch được coi
là ngành “cơng nghiệp khơng khói” giàu tiềm năng nhất. Cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại đã đem đến sự thỏa mãn về nhu cầu tiêu dùng của khách
hàng như tiêu chuẩn về phòng ngủ, dịch vụ vận chuyển, tiện nghi…
Một trong những điểm khác biệt tạo nên đặc điểm riêng có của ngành du
lịch ở mỗi quốc gia trong q trình tồn cầu hóa đó là thái độ phục vụ của nhân
viên trong các đơn vị kinh doanh du lịch, khả năng đáp ứng sự thỏa mãn trong
việc tiêu dùng các sản phẩm du lịch của khách hàng bởi vì nhu cầu của con
người vơ cùng phong phú, đa dạng và khơng ngừng tăng lên. Có thể nói, để đảm
bảo khả năng cạnh tranh hiệu quả trong ngành du lịch và đảm bảo cho sự phát
triển bền vững, các nước phải nhanh chóng giải quyết một cách có hiệu quả việc
phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tóm lại, việc nhận thức đủ tầm quan trọng của người lao động trong hoạt
động thực tiễn của ngành du lịch, sự đầu tư, quan tâm đúng mức tới cơng tác
nhân sự có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vấn đề đặt ra đối với ngành du lịch là thu

hút và duy trì được những người lao động có năng lực, trình độ, thái độ làm việc
phù hợp, lựa chọn đúng người đúng việc để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
Các doanh nghiệp du lịch muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh
ngày càng gay gắt, cần phải nhận thức rõ hơn vai trò của việc phát triển nguồn
nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lựctrực tiếp, đồng thời cần phải làm tốt công
tác quản trị nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch nhằm


17
tạo ra những chính sách, chiến lược kịp thời và phù hợp. Trong bất kỳ lĩnh vực
nào thì yếu tố con người ln đóng vai trị quyết định tới sự thành cơng. Một địa
danh du lịch đẹp nhưng ở đó con người không thân thiện, thiếu ý thức bảo vệ
cộng đồng,…thì nơi đó khơng thể nào có sự phát triển bền vững. Do đó, cách
ứng xử có văn hóa là điều tối cần thiết trong việc phát triển du lịch và văn hóa
du lịch, củng cố và nâng cao giá trị văn hóa và hình ảnh của đất nước, con người
Việt Nam
1.2.2.2. Xu hướng phát triển nguồn nhân lựcdu lịch
Ngày nay, nguồn nhân lực trong ngành du lịch đang phát triển theo những
hướng khác nhau dựa trên những xu hướng phát triển của ngành du lịch.
Du lịch thế giới hiện nay đang phát triển theo những hướng sau:
- Xu hướng thứ nhất: Du lịch quốc tế trên toàn thế giới tiếp tục phát triển
với tốc độ khá cao. Theo số liệu thống kê công bố đầu tháng 4 năm 2005 của
UNESCO thì 11% đầu tư của thế giới là cho du lịch, 10,9% sản phẩm được tạo
ra bởi ngành du lịch, 10,8% lao động thuộc ngành này, 20% giao dịch thương
mại thế giới phục vụ du lịch.
Theo đánh giá của tổ chức du lịch thế giới, trong những năm tới, viễn cảnh
của ngành kinh tế du lịch tồn cầu nhìn chung rất khả quan. WTO đã dự báo:
đến năm 2020, lượng khách du lịch thế giới sẽ đạt 1.602 triệu lượt khách, thu
nhập xã hội từ du lịch đạt khoảng 2000 tỷ USD. Riêng ở Việt Nam ước đạt 10 –
11 triệu lượt khách vào năm 2020; doanh thu du lịch sẽ đạt khoảng 9,9 tỷ USD;

giá trị GDP du lịch so với GDP cả nước chiếm 6,4 % vào năm 2020.
- Xu hướng thứ hai: có sự thay đổi hướng đi của luồng khách du lịch quốc tế.
Trước đây, khách chủ yếu đến nghỉ dưỡng tại các vùng biển nổi tiếng của thế
giới. Ngày nay, nguồn khách này được phân tỏa tới những vùng, những nước mới
phát triển du lịch như vùng Châu Á – Thái Bình Dương, vùng Caribe,…Các nước
Đơng Nam Châu Á đang có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân của khu
vực cả về số khách và thu nhập .
- Xu hướng thứ ba: mức chi tiêu của một khách du lịch ngày càng tăng và
cơ cấu chi tiêu của khách du lịch thay đổi. Tỷ trọng chi tiêu của khách cho các
dịch vụ cơ bản (ở, vận chuyển, ăn uống,…) giảm dần. Tỷ trọng chi tiêu của
khách cho các dịch vụ bổ sung (mua sắm, tham quan, giải trí,…) tăng lên. Kết
quả điều tra về chi tiêu của khách du lịch tại nhiều quốc gia cho thấy: nếu trước
đây, khách du lịch chi tiêu 60 – 70% cho ăn, ở, đi lại và 30 – 40% chi cho mua


18
sắm hàng hóa, tham quan và giải trí thì ngày nay là ngược lại, chi 40 – 50% cho
ăn, ở, đi lại và 50 – 60% cho mua sắm hàng hóa, tham quan, giải trí và dịch vụ
khác.
- Xu hướng thứ tư: Với sự phát triển của khoa học công nghệ và thông tin
ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch nắm bắt thông tin các điểm
đến, đặc biệt là sự phát triển của hệ thống đặt chỗ qua mạng internet ngày càng
được du khách sử dụng phổ biến.
- Xu hướng thứ năm: sự hợp tác song phương, đa phương về xúc tiến phát
triển du lịch giữa các nước ngày càng mở rộng. Hiện nay, trên thế giới ngoài tổ
chức du lịch thế giới (Word Tourism Organization, WTO) , cịn có nhiều tổ chức
du lịch khu vực, liên khu vực đã ra đời: Hiệp hội du lịch khu vực Thái Bình
Dương; Hiệp hội du lịch vùng Caribe; Hiệp hội du lịch vùng Đông Nam Á;…
- Xu hướng thứ sáu: xu hướng ngày càng tăng của khách du lịch tới nhiều
điểm du lịch của các nước khác nhau trên một chuyến đi nhờ sự thuận lợi của

giao thông và sự liên kết giữa các nước, các điểm du lịch,…
- Xu hướng thứ bảy: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn
gắn với phát triển du lịch bền vững.
Với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng và
xã hội hóa cao, du lịch phát triển sẽ tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động
nông thôn mà không cần phải đào tạo cơng phu, từ đó góp phần từng bước nâng
cao tích lũy và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng thơn. Tiếp tục khuyến khích
phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp cho nông thôn giải quyết hàng loạt vấn đề:
tạo cơng ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát triển kết cấu hạ tầng nơng thơn, từ
đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong nông thôn theo hướng tăng tỷ
trọng dịch vụ, phát triển nông thôn văn minh, hiện đại phù hợp với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Xu hướng thứ tám:Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ nông
nghiệp sang nền kinh tế dịch vụ. Hơn một phần ba của tổng sản phẩm trong
nước được tạo ra bởi các dịch vụ, trong đó bao gồm khách sạn và phục vụ công
nghiệp và giao thông vận tải. Nhà sản xuất và xây dựng (28 %) nông nghiệp, và thuỷ
sản (20 %) và khai thác mỏ (10 %) [38].
Trong khi đó, du lịch đóng góp 4,5% trong tổng sản phẩm quốc nội (thời
điểm 2007). Ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào ngành


19
du lịch. Sau các ngành công nghiệp nặng và phát triển đơ thị, đầu tư nước ngồi
hầu hết đã được tập trung vào du lịch, đặc biệt là trong các dự án khách sạn.
Những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, thành phố Việt Trì đã
có sự phát triển vượt bậc vềkinh tế - xã hội; cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch
theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp. Để cấu trúc nền kinh tế tiếp
tục chuyển dịch theo đúng hướng: dịch vụ - cơng nghiệp – nơng nghiệp, hay nói
cách khác để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, một đòi hỏi cấp bách là
phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcnói chung và nguồn nhân lựctrong

ngành du lịch nói riêng.
- Xu hướng thứ chín: Đặt du lịch trong tổng thể phát triển của nền kinh tế
và tiến tới phát triển du lịch bền vững, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Xu hướng hội nhập, hợp tác, cạnh tranh toàn cầu, giao lưu mở rộng và tăng
cường ứng dụng khoa học công nghệ trong nền kinh tế tri thức trên thế giới và
khu vực đã và đang tạo những cơ hội đồng thời cũng là thách thức đối với phát
triển du lịch Việt Nam nói chung và du lịch thành phố Vệt Trì nói riêng. Trước
bối cảnh và xu hướng đó, định hướng phát triển du lịch Việt Nam phải đáp ứng
được những yêu cầu mới của thời đại về tính chuyên nghiệp, tính hiện đại, hội
nhập và hiệu quả đồng thời bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, yếu tố truyền
thống để phát triển bền vững, tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước và
đáp ứng yêu cầu cạnh tranh quốc tế.
Xu hướng phát triển ngành du lịch đặt ra yêu cầu và tác động trực tiếp tới cơ
cấu số lượng và chất lượng nguồn nhân lực du lịch. Xu hướng nhân lực du lịch ngày
càng địi hỏi cao về trình độ, kỹ năng quản lý; kỹ năng nghề nghiệp hướng tới đạt
chuẩn nhưng cần có mức độ tinh tế và nhạy cảm trong phục vụ và giao tiếp; lao động
phổ thông du lịch dần trở nên kém hấp dẫn thay thế bởi lao động thời vụ ngày càng
phổ biến; lao động tự chủ (self employment) ngày càng tăng ứng với mơ hình du lịch
cộng đồng, kinh tế hộ gia đình.
 Nhu cầu về số lượng nhân lực
Hiện tại, cả nước có trên 1,3 triệu lao động du lịch và liên quan, chiếm
khoảng 2,5% tổng lao động cả nước, trong đó có khoảng 420.000 lao động trực
tiếp làm việc trong các cơ sở dịch vụ du lịch. Cơ cấu lao động ngành với 42%
được đào tạo về du lịch, 38% được đào tạo từ các ngành khác chuyển sang và
khoảng 20% chưa qua đào tạo chính quy mà chỉ qua huấn luyện tại chỗ. Sự phân
bố lao động giữa các lĩnh vực, vùng miền cũng chưa phù hợp. Số lao động cần


20
có chun mơn, kỹ năng cao vừa thiếu, vừa yếu; số lao động chưa đáp ứng yêu

cầu lại dư thừa; đặc biệt các vùng du lịch mới thì nhân lực đã qua đào tạo rất
thiếu.
Bảng 1.1: Dự báo nhu cầu nhân lực trực tiếp của du lịch đến năm 2020
Đơn vị: Nghìn người

TT

Chỉ tiêu

Tổng số
1
1.1

Năm
2010

Năm
2015

418.25
0

620.10
0

207.60
0

312.10
0


10,1
8,2

Năm
2020

% tăng
TB cả
giai
đoạn

870.300
9,6

8,1

Theo lĩnh vực
Khách sạn, nhà hàng

1.2

Lữ hành, vận chuyển

65.800

92.700

1.3


Dịch vụ khác

146.20
0

215.30
0

2

% tăng
TB cả
giai
đoạn

440.300
8,2
128.000

7,6

302.000
9,4

8,1

Theo trình độ đào tạo

2.1


Trên đại học

1.450

2.400

13,1

3.500

9,2

2.2

Đại học, cao đẳng

53.800

82.400

10,6

113.500

7,5

2.3

Trung cấp và tương đương


78.200

115.30
0

2.4
2.5
3

Sơ cấp

98.700

Dưới sơ cấp (học nghề tại 187.45
chỗ)
0

151.80
0

174.000
9,5

10,2
231.000

10,7

268.20
0


8,6
14,5

10,4
348.300
5,9

Theo loại lao động

3.1

Lao động quản lý

32.500

56.100

83.300

9,7

3.2

Lao động nghiệp vụ

387.10
0

564.00

0

9,2

1) Lễ tân

37.200

51.000

7,4

69.500

7,2

2) Phục vụ buồng

48.800

71.500

9,3

98.000

7,4

3) Phục vụ bàn, bar


68.400

102.40

9,9

153.000

9,8

787.000
7,9


21
0
4) Chế biến món ăn

35.700

49.300

7,6

73.400

9,7

5) Hướng dẫn


20.600

30.800

9,9

45.000

9,2

6) VPDL, ĐL lữ hành

31.100

52.600

13,8

81.400

10,9

7) Nhân viên khác

145.30
0

206.40
0


266.700
8,4

6,0

(Nguồn: Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch)
Theo dự báo của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, đến năm 2015 ngành du
lịch cần tới 620.000 lao động trực tiếp trong tổng số 2,2 triệu việc làm do du lịch tạo
ra và đến 2020 tương ứng sẽ cần 870.000 lao động trực tiếp trong tổng số 3 triệu việc
làm do du lịch tạo ra. Nhu cầu nhân lực theo cơ cấu trình độ đào tạo, lĩnh vực ngành
nghề từng loại lao động ở từng giai đoạn rất khác nhau tùy thuộc vào yêu cầu tăng
trưởng ở từng lĩnh vực.
Cũng theo dự báo trên, nửa đầu thập kỷ sẽ cần nhiều nhân lực được đào tạo
theo các ngành nghề với tỷ lệ tăng thêm hàng năm 9,6% và tăng nhẹ với tỷ lệ
8,1% vào nửa thập kỷ tiếp. Có thể thấy quy mơ dịch vụ tiếp tục mở rộng lên lao
động lĩnh vực dịch vụ khách sạn, nhà hàng sẽ tăng nhanh hơn. Lao động cần đào
tạo ở trình độ đại học, trên đại học, lao động quản lý tăng nhanh hơn mặt bằng
chung do nhu cầu quản lý; lao động nghiệp vụ cần nhiều trong thời gian tới như
văn phòng du lịch, đại lý lữ hành, hướng dẫn do mở rộng nhiều loại hình du lịch
phong phú; nghiệp vụ buồng, bàn, bar cũng tăng cao hơn mặt bằng chung do đây là
lĩnh vực cần nhiều lao động dịch vụ. Hầu hết các loại lao động tăng nhẹ trong giai
đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, nhu cầu nhân lực được đào tạo cơ bản vẫn chiếm tỷ
trọng lớn; lao động phổ thông sẽ giảm tương đối và dựa chủ yếu vào số lao động
thời vụ.
Như vậy, nhu cầu lao động du lịch ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, loại
lao động đều tăng trong thời gian tới. Bức tranh tổng thể về nhu cầu nhân lực
cho thấy hàng năm cần đào tạo bổ sung ở tất cả các ngành nghề du lịch để đáp
ứng yêu cầu phát triển. Tuy nhiên, để đáp ứng đúng u cầu đó địi hỏi nhân lực
du lịch không chỉ được đào tạo đủ về số lượng mà phải đáp ứng yêu cầu về chất
lượng, tức cần có trình độ kiến thức, kỹ năng quản lý điều hành, kỹ năng nghiệp

vụ chuyên môn, ngoại ngữ cũng như phẩm chất, thái độ nghề nghiệp phù hợp
 Nhu cầu về chất lượng nhân lực


22
Trước hết có thể thấy rõ nhu cầu lớn về kiến thức quản lý, kỹ năng điều
hành cần đào tạo ở trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học để đáp ứng nhu cầu
lao động quản lý từ bậc trung (giám sát) trở lên cho tới quản lý bậc cao ở doanh
nghiệp và quản lý vĩ mô, hoạch định chính sách tại địa phương và trung ương.
Khi chuyển dịch theo xu hướng phát triển bền vững coi trọng chất lượng dịch vụ
với hàm lượng giá trị gia tăng cao thì địi hỏi đội ngũ lao động quản lý và lao
động nghiệp vụ phải thực sự chuyên nghiệp. Do vậy, nhu cầu nhân lực được đào
tạo cơ bản, đào tạo chuyên sâu kỹ năng bậc cao sẽ rất lớn. Số liệu dự báo trên bảng
cho thấy nhu cầu đào tạo ở trình độ trên đại học tăng 13,1% giai đoạn 2011-2015 và 9,
2% giai đoạn 2016-2020, tăng cao hơn mức tăng trưởng chung; tương tự nhu cầu cần
đạo tạo trình độ trung cấp tăng 9,5%/năm giai đoạn 2011-2015 sau đó tăng mạnh hơn
ở mức 10,2%/năm giai đoạn 2016-2020 do mức độ chuẩn hóa đã đạt được nhất định.
Nhu cầu đào tạo trình độ cao đẳng và đại học tăng cao 10,6%/năm giai đoạn 2011-201
song sẽ tăng nhẹ hơn ở mức 7,5%/năm giai đoạn tiếp theo khi lao động ở trình độ
trung cấp được chuẩn hóa và dần thay thế các vị trí quản lý và kỹ năng nghiệp vụ bậc
cao.
1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực du lịch
Trong quá trình phát triển nguồn nhân lực nói chung và phát triển nguồn
nhân lực ngành du lịch nói riêng chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau.
Có thể kể đến các yếu tố chính như sau:
- Trình độ phát triển cơ sở hạ tầngvà trình độ, khả năng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành:Sự phát triển về cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế. Nước ta đang tiến hành cơng nghiệp óa – hiện đại hóa với nội dung
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và
lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao

động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch và phát
triển nông thôn, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây
dựng nông thôn dân chủ, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa của nơng dân nơng thơn”, theo đó là q trình phân cơng lại lao động xã
hội, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lựcnói chung và chất lượng
nguồn nhân lựcdu lịch nói riêng.
Trình độ phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển du
lịch và đến lượt mình, trình độ phát triển du lịch sẽ quyết định đến số lượng,
chất lượng và xu thế phát triển của nguồn nhân lực ngành du lịch.


23
- Trình độ phát triển của giáo dục đào tạo: Giáo dục đào tạo là yếu tố cấu
thành quan trọng của phát triển nguồn nhân lực. Chất lượng của giáo dục đào tạo
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực, thông qua giáo dục đào tạo
các quốc gia hình thành nguồn nhân lựccủa mình với trình độđào tạo, cơ cấu
ngành nghề phù hợp với yêu cầu phát triển. Trình độ phát triển của đào tạo du
lịch ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của nguồn nhân lựcngành du lịch.
- Tốc độ gia tăng dân số: Ở những nước đang phát triển, quy mô dân số
lớn, tốc độ gia tăng cao chính là lực cản đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế và
phát triển nguồn nhân lực. Tốc độ gia tăng dân số cao gây sức ép lên các cơ sở
hạ tầng xã hội, ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách xã hội của nhà
nước, trong đó có chính sách về giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lựccần hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số ở mức
hợp lý.
- Các chính sách kinh tế - xã hội, kế hoạch, qui hoạch, liên kết trong phát
triển của tỉnh: Các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước như: chính sách
giáo dục đào tạo; chính sách tuyển dụng, sử dụng lao động, lao độngtiền lương,
bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động... đều có tác động trực tiếp đến nguồn nhân
lực.

Chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước không chỉ tạo điều kiện phát triển
nguồn nhân lực mà còn hạn chế các tác động tiêu cực đến sự phát triển của
nguồn nhân lựcthông qua những cơng cụ điều tiết vĩ mơ. Chính sách phát triển
du lịch của Nhà nước tác động đến sự phát triển du lịch, trong đó chính sách đào
tạo phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển nguồn nhân lực du lịch.
- Các nhân tố tác động từ bên ngồi:
+ Tồn cầu hố
Q trình tồn cầu hố đã thúc đẩy cuộc chạy đua phát triển nguồn nhân lực
tại các quốc gia, khu vực trên thế giới. Tồn cầu hóa đã làm cho các nền kinh tế
phát triển nhanh chóng hơn và trở thành một thị trường toàn cầu, tương tác và
phụ thuộc lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt với nhau. Khả năng cạnh tranh được
quyết định bởi năng lực tạo ra giá trị tăng thêm của các sản phẩm, dịch vụ và các
quá trình hoạt động của mỗi quốc gia và của từng doanh nghiệp. Đóng góp chủ
yếu vào điều này phụ thuộc vào kiến thức và các kỹ năng của lực lượng lao


×