1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm, thiếu việc làm và thất nghiệp là những vấn đề kinh tế - xã hội
có tính tồn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại cũng như của mỗi
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, ở nước ta, vấn đề giải quyết việc
làm đang bị cản trở bởi tốc độ tăng dân số còn cao, mức tăng trưởng kinh tế
cịn hạn chế... Điều đó khơng chỉ gây nên tình trạng lãng phí do một bộ phận
lao động không được sử dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của việc sử
dụng cả các yếu tố sản xuất khác, mà cịn ảnh hưởng khơng nhỏ đến một bộ
phận dân cư có cuộc sống gắn liền với bộ phận lao động thiếu hoặc khơng có
việc làm này. Bởi vậy, tạo việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động
là vấn đề vừa lâu dài, vừa cấp bách, khơng chỉ có ý nghĩa về kinh tế rất quan
trọng mà còn mang ý nghĩa xã hội, nhân văn sâu sắc.
Ở nước ta trong những năm qua, vấn đề phát triển nguồn nhân lực và
giải quyết việc làm nói chung luôn gắn liền với việc chú trọng đến lao động
nữ, gắn liền với cơng cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ, với tiến trình phấn
đấu vì sự bình đẳng nam - nữ. Vì vậy, để thể hiện quan điểm và chủ trương
đó, để khẳng định vai trị to lớn của lực lượng lao động nữ trong công cuộc
phát triển kinh tế, xố đói giảm nghèo, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước… Đảng, Nhà nước các cấp đã quan tâm
nhiều đến việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nữ đạt được nhiều
thành tựu quan trọng. Hệ thống các chính sách về đào tạo nghề và giải quyết
việc làm cho lao động nữ - mà đặc biệt là lao động nữ nông thơn ngày càng
được hồn thiện; Tổng số lao động nữ được đào tạo nghề và có việc làm ngày
càng tăng, tính đến tháng 6 năm 2009 tỷ lệ lao động nữ được đào tào tạo và
đào tạo lại tăng từ 22% - 25% (so với năm 2005); Cơ cấu lao động nữ được
chuyển dịch theo hướng tích cực... Lao động nữ đang ngày càng khẳng định
2
vị trí của mình trong thị trường lao động và có nhiều đóng góp cho phát triển
kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, giải quyết việc làm cho lao động nữ hiện nay cũng cịn
nhiều khó khăn, bất cập … vấn đề này lại càng đặc biệt rõ nét và bức xúc đối
với lao động nữ ở nông thôn. Những bất cập đó khơng chỉ xuất phát từ những
hạn chế của chính nơng nghiệp - nơng thơn, của chính bản thân lao động nữ
nơng thơn… mà lại cịn phát sinh từ những thành công, những kỳ vọng đúng
đắn hiện nay của tổng thể nền kinh tế. Chẳng hạn - do những thành tựu của
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn và u cầu
đẩy nhanh tiến trình này mà phần lớn lao động nữ ở nơng thôn chưa kịp đáp
ứng những yêu cầu mới đặt ra của thị trường lao động, thêm vào đó diện tích
đất canh tác lại bị thu hẹp trực tiếp tác động đến việc làm và thu nhập…, đến
lượt nó lại gây khó khăn cho việc tạo và giải quyết việc làm cho chính bộ
phận lao động nữ dư thừa này.
Thêm vào đó, những hoạt động hỗ trợ khác để cải thiện tình hình này
cũng cịn nhiều bất cập, chưa hiệu quả. Công tác dạy nghề và giải quyết việc
làm mặc dù đã được các cấp, các ngành quan tâm giải quyết nhng chưa đáp
ứng nhu cầu học nghề của người lao động, cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa
phù hợp, chất lượng dạy nghề còn thấp, việc lồng ghép giới trong các hoạt
động chương trình, dự án cịn hạn chế, do vậy lao động nữ chưa thực sự được
bình đẳng trong lĩnh vực đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm, dẫn đến chất lượng
của lao động nữ ở nước ta chưa cao, trình độ tay nghề cịn thấp, ý thức tổ
chức kỷ luật và tác phong công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường
trong nước và xuất khẩu lao động nước ngoài.
Ở Hà Nam những năm gần đây, thực hiện chủ trương phát triển khu công
nghiệp, đô thị hoá và thực hiện nhiệm vụ xây dựng đường cao tốc quốc gia do
vậy nhiều diện tích đất canh tác bị chuyển đổi sang mục đích sử dụng khác đã
tác động lớn, trực tiếp đến việc làm của lao động nữ. Đặc biệt nhóm lao động
3
nữ nông thôn trong độ tuổi 35 - 39 phải chịu sức ép rất lớn trong việc tìm
kiếm việc làm tại địa phương, do vậy đã tác động trực tiếp đến sự thay đổi cơ
cấu lao động nữ ở nông thôn, một bộ phận lao động nữ chuyển đổi nghề sang
kinh doanh buôn bán nhỏ, một bộ phận làm nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề
truyền thống tại địa phương, một bộ phận phụ nữ ra thành phố kiếm sống…
việc làm khơng ổn định, tình trạng dư thừa lao động, thiếu việc làm ngày càng
gia tăng. Chỉ tính năm 2008, theo báo cáo khảo sát tình hình lao động nữ ở
nơng thơn của Hội phụ nữ các huyện, tồn tỉnh có khoảng 8.000 lao động nữ
thiếu việc làm thường xuyên, trên 3000 lao động nữ thất nghiệp…Vì vậy giải
quyết việc làm cho lao động nữ ở nông thôn tỉnh Hà Nam có ý nghĩa, vai trị
rất quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Nhằm đánh giá thực trạng tình hình việc làm và giải quyết việc làm cho
lao động nữ nông thôn Hà Nam giai đoạn 2005 - 2009, trên cơ sở đó nghiên
cứu, xây dựng những giải pháp tích cực nhằm giải quyết tốt việc làm tại chỗ,
việc làm thường xuyên cho lao động nữ nơng thơn những năm tới (20102020), góp phần xây dựng tỉnh Hà Nam trở thành một tỉnh công nghiệp …
vấn đề “Giải quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn tỉnh Hà Nam hiện
nay” được chọn làm đề tài Luận văn tốt nghiệp cao học kinh tế - chun
ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, từ những năm đầu thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước đã có nhiều cơng trình nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng - trong đó, đáng chú ý là
một số nghiên cứu sau:
1. Nguyễn Trịnh Kiểm “Tạo việc làm để phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà
Nam” - LAPTSKT - 1996 đã làm rõ vai trò con người trong phát triển kinh tế
xã hội; đã đưa ra các khái niệm: lao động, việc làm, lực lượng lao động; thực
trạng việc làm tác động đến phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Nam; những biện
4
pháp giải quyết việc làm cho người lao động trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội ở tỉnh Hà Nam.
2. Trần Thị Bích Hồng “ Vấn đề dân số, lao động, việc làm đồng bằng
Sông Hồng” - LATS, 2000 đã làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng của mối quan
hệ dân số - lao động - việc làm ở đồng bằng Sông Hồng và đề xuất một số
kinh nghiệm nhằm giải quyết mối quan hệ giữa dân số, lao động và việc làm
trong chiến lược phát triển.
3. Trần Thị Minh Đức “Nghiên cứu một vài đặc điểm tập lý xã hội của
lao động nữ ngoài tỉnh bán hàng rong trên đường phố Hà Nội” - Tạp chí tâm
lý học số 6/2002 đã đề cập, phân tích đặc điểm của lao động nữ; thực trạng
đời sống và việc làm của họ, nguyên nhân tác động đến việc người phụ nữ
phải ra thành phố bán hàng rong, trách nhiệm của nhà nước, chính quyền địa
phương cần có giải pháp gì giúp đỡ nhóm phụ nữ đang bị tổn thương.
4. Trần Thị Thu “Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ CNH,
HĐH” - NXB LĐXH Hà Nội - 2003, đã phân tích tình hình này tại Hà Nội,
đã làm rõ cơ sở khoa học của tạo việc làm cho lao động nữ Hà Nội trong thời
kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá; những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm
và thực trạng tạo việc làm cho lao động nữ Hà nội trong giai đoạn trước năm
2003, những quan điểm, giải pháp tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ
cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
5. Lao động việc làm trong thời kỳ hội nhập, Nhà XBLĐXH, Hà Nội
2009. Tác giả nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận về hội nhập kinh tế và
vấn đề lao động việc làm, phân tích thực trạng lao động việc làm và các vấn
đề xã hội, đồng thời đưa ra dự báo của tăng trưởng kinh tế, hội nhập đến lao
động, việc làm giai đoạn 2011 - 2020.
6. Văn kiện Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ X, văn kiện Đại hội phụ nữ
tỉnh Hà Nam lần thứ XIV.
5
7. Báo cáo giữa kỳ thực hiện Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ phụ nữ
tỉnh Hà Nam 2005 - 2010.
8. Báo cáo thực hiện Đề án đào tạo nghề, giải quyết việc làm giai đoạn
2005 - 2010 của sở Lao động Thương binh xã hội tỉnh.
9. Bài viết được VietnamForumCSR đưa ngày 27/7/2007 bàn về nỗi lo
sức khoẻ của phụ nữ nông thôn.
10. Mai Tâm: Báo phụ nữ ra ngày 21/8/2009 nghiên cứu thực trạng lao động
nữ nông thôn thất nghiệp, giải pháp tạo việc làm cho lao động nữ nông thôn.
11.Ngọc Bảo: Báo Lao động số 239 ngày 16/10/2009 viết về: giải pháp tạo
việc làm cho lao động nữ nông thôn.
12.Thu Hiền: Báo Lao động ra ngày 22/10/2009 nghiên cứu về giải pháp
làm tăng cơ hội việc làm cho lao động nữ nông thôn và giảm nghèo.
Bên cạnh những cơng trình đã được nêu trên, cịn có nhiều cơng trình
khoa học và bài viết đăng trên các báo Lao động, báo Phụ nữ và tạp chí khác
cũng đề cập đến vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nữ.
Nhưng đến nay chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề “Giải
quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn ở tỉnh Hà Nam hiện nay” trên
phương diện kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề việc làm và giải quyết việc
làm cho lao động nữ nơng thơn; phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp giải
quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn tỉnh Hà Nam giai đoạn từ năm
2005 đến năm 2015.
* Nhiệm vụ
Phân tích làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về việc làm, sự cần thiết phải giải
quyết việc làm cho lao động nữ nơng thơn; phân tích đặc điểm và các nhân tố
ảnh hưởng đến việc làm của lao động nữ nông thôn để làm cơ sở đề xuất giải
pháp giải quyết việc làm của lao động nữ nông thôn tỉnh Hà Nam.
6
Đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nữ
nông thôn ở tỉnh Hà Nam từ năm 2005 đến năm 2010.
Nghiên cứu những quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết hiệu
quả việc làm cho lao động nữ nông thôn tỉnh Hà Nam hiện nay
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc
làm cho lao động nữ nông thôn của tỉnh Hà Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian, luận văn chú trọng nghiên cứu tình hình giải quyết việc làm
cho lao động nữ khu vực nông thôn ở 6 huyện, thành phố của tỉnh Hà Nam.
Về thời gian từ năm 2005 - 2015, đây là những năm tỉnh Hà Nam tập
trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề, dịch vụ
nông thôn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chi Minh, những quan
điểm, đường lối, chính sách đổi mới của đảng, nhà nước về giải quyết việc
làm cho lao động nói chung và lao động nữ nơng thơn nói riêng thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá.
Phương pháp nghiên cứu. Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu đề ra,
luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu hệ thống, khảo sát, so sánh, phân
tích, tổng hợp ...
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về việc làm và giải quyết việc làm cho lao
động nữ nông thôn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao
động nữ nông thôn tỉnh Hà Nam hiện nay.
7
- Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm từng bước giải quyết
việc làm cho lao động nữ nông thôn trên địa bàn tỉnh Hà Nam hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
- Chương 1: Lý luận, thực tiễn giải quyết việc làm cho lao động nữ nông
thôn hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn
tỉnh Hà Nam giai đoạn 2005 - 2009.
- Chương 3: Phương hướng, giải pháp giải quyết việc làm cho lao động
nữ nông thôn tỉnh Hà Nam thời gian tới.
8
Chương 1
LÝ LUẬN, THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
CHO LAO ĐỘNG NỮ NÔNG THÔN HIỆN NAY
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LAO ĐỘNG NỮ NÔNG THÔN VÀ VIỆC
LÀM CỦA LAO ĐỘNG NỮ NƠNG THƠN
1.1.1. Về lao động nữ nơng thơn
Lao động nữ nông thôn là một bộ phận của lực lượng lao động quốc
gia. Về mặt lý thuyết, khái niệm này phản ánh một bộ phận dân cư, là nữ ở
nơng thơn trong độ tuổi lao động, có khả năng làm việc, mong muốn có việc
làm, đang có hoặc khơng có việc làm. Tuy nhiên trong kinh tế, khái niệm lao
động nữ nơng thơn cịn được hiểu đó là hoạt động lao động của bộ phận nữ ở
nông thôn. Do vậy để đơn giản, tránh nhầm lẫn về đối tượng, phạm vi nghiên
cứu có liên quan đến đề tài, luận văn chỉ đề cập đến lao động nữ nông thôn
theo cách thứ nhất - đó là một bộ phận của lực lượng lao động quốc gia…
Lực lượng lao động có tính lịch sử cụ thể. Trong những điều kiện, hồn
cảnh khác nhau nó khác nhau cả về quy mơ, cấu trúc, độ tuổi, trình độ v v…Ở
một nền nơng nghiệp lúa nước lạc hậu phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
như Việt Nam thì lực lượng lao động nữ - đặc biệt là lao động nữ nơng thơn
có vai trị khơng nhỏ. Tuy nhiên thực tiễn trong những năm đổi mới vừa qua
cho thấy việc giải quyết việc làm, chăm lo đời sống kinh tế cho bộ phận này
khá nan giải, cịn nhiều bất cập.
Lao động nữ nơng thôn là một bộ phận của lao động nữ - theo Luật Lao
động Việt Nam, đó là những phụ nữ từ 18 - 55 tuổi và có khả năng tham gia lao
động hiện đang có việc làm hoặc bị thất nghiệp. Do có một bộ phận phụ nữ
trong độ tuổi lao động nhưng khơng được tính vào lực lượng lao động, đó là bộ
phận nữ sinh ở các trường phổ thông trung học, trung học chuyên nghiệp, công
nhân kỹ thuật, cao đẳng, đại học, phụ nữ làm việc nội trợ, chăm sóc gia đình,
9
không tham gia hoạt động kinh tế, những phụ nữ ốm đau, dị tật bẩm sinh,
khơng có khả năng lao động hoặc bị mất khả năng lao động, những phụ nữ
khơng có nhu cầu làm việc... Như vậy, lực lượng lao động nữ chỉ bao gồm
những phụ nữ trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang làm việc trong
nền kinh tế quốc dân và những phụ nữ thất nghiệp nhưng đang có nhu cầu tìm
việc làm.
Sự biến đổi về số và chất lượng lao động nữ phụ thuộc vào sự thay đổi
tự nhiên của lực lượng lao động khi tốc độ phát triển kinh tế, xã hội ở mỗi
quốc gia thay đổi, chẳng hạn như: Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp, giảm tỷ trọng nông nghiệp sẽ làm thay đổi quy mô,
cơ cấu lao động trong nông nghiệp, công nghiệp dẫn đến lực lượng lao động
nữ trong hai lĩnh vực này sẽ thay đổi thích ứng.
Những năm gần đây, ở Việt Nam, lực lượng lao động nữ luôn chiếm
xấp xỉ 50% tổng lực lượng lao động. Đây là một tỷ lệ cao so với các nước
trong khu vực cũng như trên thế giới. Theo Báo cáo thống kê của Tổng cục
Thống kê (đầu năm 2008), dân số nước ta có khoảng 86,3 triệu người,
trong đó nữ chiếm 50,9%. Tính riêng lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên,
cả nước có khoảng 44,1 triệu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
quốc dân, trong đó có gần 21,1 triệu lao động là nữ (chiếm 47,8%). Lao
động nữ tham gia vào thị trường lao động sớm hơn nam giới, nhưng lao
động phổ thông, chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Phần lớn phụ nữ khi
tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thơng, thậm chí nhiều người chỉ
tốt nghiệp tiểu học, không tiếp tục học lên mà tham gia ngay vào thị trường
lao động. Nhìn chung, lao động nữ phổ thông chiếm tỷ lệ cao nhất trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi (62,9%), sau đó đến các doanh
nghiệp tư nhân (62,6%) và doanh nghiệp nhà nước là 49,1%. Tỷ lệ lao
động nữ đã chiếm trên 46% trong số người làm công, ăn lương từ các lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh; số chủ cơ sở sản xuất kinh doanh là nữ chiếm
10
41,12%; tỷ lệ lao động nữ làm kinh tế hộ gia đình chiếm 49,42%, tỷ lệ lao
động nữ nơng nghiệp chiếm trên 60 % [39].
Khái quát có thể nhận thấy lao động nữ nơng thơn có những đặc điểm
cơ bản sau:
+ Về trình độ chun mơn kỹ thuật, trình độ tay nghề của lao động nữ
trên các lĩnh vực sản xuất nhìn chung là thấp hơn so với nam giới. Tỷ lệ lao
động nữ có trình độ lao động phổ thông chiếm 55,59%; tỷ lệ nữ công nhân kỹ
thuật không có bằng chiếm 38,1% và có bằng đạt 30,1%, tỷ lệ lao động nữ có
trình độ trung cấp đạt 47,5%, trình độ cao đẳng đại học chiếm 41,2% [26].
+ Về chất lượng, lao động nữ so với nam giới vẫn cịn hạn chế. Tính từ
năm 2006 đến hết năm 2009, tỷ lệ lao động nữ có trình độ học vấn thấp xu
hướng giảm, tỷ lệ học vấn cao từ trung học phổ thông xu hướng tăng lên.
Hiện nay, trước tác động của cơng nghiệp hố, hiện đại hố, cơ cấu lao động
nữ có chuyển biến lớn theo sự dịch chuyển của cơ cấu lao động nói chung. Tỷ
lệ lao động nữ nông nghiệp giảm trên 10% (năm 2007), do kinh tế phát triển
khiến cầu về lao động tăng. Đặc biệt là các ngành dệt may, ngành chế biến
nông sản được mở rộng đã thu hút ngày càng đông lao động nữ từ nơng
nghiệp chuyển sang. Bên cạnh đó, mạng lưới dịch vụ vệ tinh các khu cơng
nghiệp đang hình thành, xu hướng phát triển. Kết quả sẽ cho thấy sự dịch
chuyển cơ cấu lao động nữ khi các doanh nghiệp hay chủ sử dụng lao động có
nhu cầu tuyển dụng lao động gia tăng. Theo kết quả nghiên cứu của Viện
Quản lý kinh tế TW năm (2006), các tỉnh đồng bằng Sông Hồng, Duyên Hải
miền Trung và Đông Nam Bộ là những vùng có tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao
động nữ nhanh nhất. Trong khi đó các vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc
Trung Bộ và cực Tây Nam Bộ... là nơi có tốc độ chuyển dịch chậm, thậm chí
có những vùng tốc độ dịch chuyển âm, nghĩa là tỷ lệ lao động nữ nông nghiệp
tăng cao trở lại. Nguyên nhân chính của sự chuyển dịch này là do trình độ tay
nghề của lao động nữ ở khu vực miền núi, vùng cao còn thấp chưa đáp ứng
11
nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp, của chủ sử dụng lao
động. Mặt khác xu hướng lao động nam đi làm ăn xa, chuyển sang làm các
nghề phi nông nghiệp ngày càng gia tăng nên phần lớn là lao động nữ ở nông
thôn phải đảm nhận mặt trận sản xuất nông nghiệp [26].
+ Thu nhập đối với lao động nói chung và lao động nữ nói riêng phụ
thuộc vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Do đó, tiền lương, tiền cơng
trả cho người lao động bảo đảm được tính cơng bằng, khơng có sự phân biệt
về giới. Tuy nhiên, trong thực tế, thu nhập bình qn của lao động nữ ln
thấp hơn mức thu nhập chung ở mọi cấp so sánh. Mức thu nhập bình quân
chung của lao động nam hiện nay khoảng 1,2 triệu đồng/tháng (trong khu vực
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi), mức thu nhập bình qn
chung của lao động nữ là khoảng 1,1 triệu đồng/ tháng. Như vậy, thu nhập
bình quân chung của lao động nữ chỉ bằng 89% thu nhập của nam giới [39].
Có thể nói, phụ nữ ngày càng có vai trị quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, tham gia ngày càng nhiều hơn trong khu vực phi nông nghiệp, càng
khẳng định vị thế của người phụ nữ trong đời sống xã hội hiện nay.
Hơn nữa, xuất phát từ đặc điểm giới tính, lao động nữ nói chung và lao
động nữ nơng thơn nói riêng cịn có những đặc trưng khác như:
+ Đảm nhận thiên chức làm mẹ.
Chức năng thiên bẩm của phụ nữ là mang thai, sinh con và nuôi con
bằng sữa mẹ. Từ thiên chức này của lao động nữ nên đối với từng quốc gia đã
có chính sách riêng phù hợp với lao động nữ. Ở Việt Nam, trong Luật Lao
động quy định tại Điều 114 có ghi rõ: Trong thời kỳ mang thai và nuôi con
nhỏ, lao động nữ được nghỉ khám thai và nghỉ thai sản từ 4 - 6 tháng, tuỳ theo
điều kiện lao động, tính chất cơng việc nặng nhọc, độc hại và nơi xa xôi hẻo
lánh [30, tr.191]; tại điều 115 - Bộ Luật Lao động cịn quy định: Trong thời
gian ni con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ sớm mỗi ngày 60 phút trong thời
gian làm việc mà vẫn hưởng đủ lương [30, tr.192], các chủ sử dụng lao động
12
vẫn phải trả bảo hiểm xã hội cho lao động nữ khơng làm việc vì thai sản”.
Mặc dù Đảng, Nhà nước có nhiều chính sách quan tâm tạo điều kiện cho lao
động nữ thực hiện thiên chức này, song trong thực tế, chính từ thiên chức đặc
biệt này đã làm ảnh hưởng nhiều tới việc làm của lao động nữ (trong đó có lao
động nữ nơng thơn), nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay, một số doanh
nghiệp không muốn tuyển dụng lao động nữ với lý do lao động nữ phải mất
nhiều thời gian nghỉ sinh con và nuôi con, đồng thời phải thực hiện các chế độ
mà lao động nữ được hưởng do pháp luật quy định nên ảnh hưởng đến hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác trong thời gian nuôi con nhỏ, lao
động nữ ít có cơ hội phấn đấu học tập, nâng cao trình độ tay nghề, ảnh hưởng
đến chất lượng việc làm, mức thu nhập thấp hơn so với nam giới, nên đã tác
động đến cả chủ thể sử dụng lao động và đối tượng lao động nữ
+ Đặc điểm về sức khoẻ, tính cách, tâm lý xã hội
Do tạo hố, phụ nữ nhìn chung có thể hình nhỏ bé hơn, sức mạnh và độ
dẻo dai kém hơn lao động nam nên thường chọn những cơng việc nhẹ nhàng,
ít nặng nhọc, ít độc hại và nguy hiểm. Cũng chính từ đặc điểm này đã dẫn đến
sự lựa chọn nghề nghiệp của lao động nữ khác hơn so với nam giới. Do vậy tỷ
lệ lao động nữ làm việc ở trong các ngành công nghiệp nặng, trong lực lượng
vũ trang thường thấp hơn so với nam giới, phần lớn lao động nữ thích làm
việc trong lĩnh vực hành chính, sự nghiệp, lĩnh vực tiểu thủ cơng nghiệp,
thương mại, dịch vụ nhiều hơn.
Về tính cách, tâm lý và đặc điểm xã hội của lao động nữ cũng có
những nét riêng tác động đến việc làm của họ: Phụ nữ thường chăm chỉ,
chịu khó, kiên nhẫn, khéo léo, thận trọng, nhất là lao động nữ nơng thơn rất
cần cù, chịu đựng, bền bỉ, kiên trì, miệt mài với cơng việc nên có những
việc làm do lao động nữ đảm nhận thường hiệu quả hơn so với nam giới, ví
dụ như ngành tài chính, giáo dục, viễn thông, thương mại, may mặc, làm
nghề truyền thống … Tuy nhiên trong thực tế, cũng từ đặc điểm giới này đã
13
dẫn đến thu nhập của một bộ phận lao động nữ thấp hơn so với lao động
nam bởi lý do phụ nữ thường đảm nhận công việc nội trợ, chăm sóc gia
đình, những cơng việc này khơng được trả cơng, hao tổn thời gian và sức
lao động của phụ nữ. Hiện nay, ở Việt Nam, cơng việc gia đình đã được coi
là một hoạt động làm thuê có thu nhập quy định trong hệ thống ngành kinh
tế quốc dân, mà phần lớn là lao động nữ tham gia. Theo số liệu điều tra
chọn mẫu của Trường cán bộ phụ nữ TW, năm 2008, tỷ lệ phụ nữ đảm nhận
công việc nội trợ đạt 87%, số giờ trung bình lao động nữ từ 15 tuổi trở lên
là 2,06 giờ/ ngày, trong khi đó số giờ trung bình của dân số nói chung đảm
nhận công việc nội trợ là 1,46 giờ. Từ con số này đã nói lên một thực tế
rằng: Lao động nữ nông thôn Việt Nam chịu tác động của việc nhận thức về
đặc điểm, tâm lý giới tính nên dẫn đến trong phân cơng lao động gia đình
đã hướng các cơng việc nội trợ, chăm sóc trẻ em phần lớn đều giao cho phụ
nữ đảm nhận. Mặt khác chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, lạc hậu
quan niệm rằng: phụ nữ thì phải nội trợ, lo toan, chăm sóc các thành viên
trong gia đình. Vì vậy thu nhập cũng như chất lượng lao động của họ
thường thấp hơn so với nam... [39].
Đặc biệt đối với lao động nữ nông thôn, do điều kiện sống phần lớn chị
em gắn bó với đồng ruộng, gắn bó với gia đình, làng xã, nên tâm lý, quan
niệm xã hội về việc làm cũng khác nam giới và lao động nữ ở thành thị. Họ
chỉ nghĩ đến việc làm trước mắt, có nguồn thu đảm bảo cuộc sống hàng ngày,
không muốn học nghề dài hạn, không muốn đi làm ăn xa. Chỉ trừ một bộ phận
lao động nữ khó tìm được việc làm phù hợp ở nơng thơn hoặc hồn cảnh khó
khăn bắt buộc họ phải di dời lên đô thị kiếm sống. Mặt khác do nhận thức về
đặc điểm giới còn hạn chế nên trong phân công lao động, phụ nữ chưa thực sự
được bình đẳng với nam giới, một số chủ thể kinh tế vẫn xem nhẹ vai trò và
khả năng của phụ nữ, chưa mạnh dạn giao việc hoặc sử dụng lao động nữ một
cách bình đẳng như nam giới.
14
Xuất phát từ đặc điểm riêng về giới tính (sức khoẻ, tâm sinh lý) của lao
động nữ nói chung, lao động nữ nơng thơn nói riêng; Bộ Luật Lao động dành
hẳn chương X gồm 10 Điều (Điều 109 đến Điều 118) quy định riêng cho lao
động nữ nhằm đảm bảo quyền làm việc của phụ nữ được bình đẳng về mọi
mặt với nam giới. Người sử dụng lao động không được phân biệt đối xử trong
việc tuyển chọn, nâng bậc lương, xử lý kỷ luật…và đảm bảo những ưu đãi
nhất định cho lao động nữ để họ thực hiện tốt chức năng của mình.
1.1.2. Việc làm của lao động nữ nông thôn
1.1.2.1. Một số khái niệm
Vấn đề việc làm đã được Các Mác tiếp cận khi nghiên cứu quá trình sản
xuất tư bản chủ nghĩa nhưng chỉ đề cập khi xem xét vấn đề thất nghiệp, chứ chưa
đưa ra một khái niệm cụ thể nào về việc làm; Ông cho rằng “…sự tăng lên của bộ
phận khả biến của tư bản và do đó sự tăng thêm số cơng nhân đã có việc làm, bao
giờ cũng gắn liền với những biến động mạnh mẽ và với việc sản xuất ra số nhân
khẩu thừa tạm thời, không kể là việc này mang hình thức nổi bật là gạt bỏ những
cơng nhân đã có việc làm hay là mang hình thức ít rõ rệt hơn nhưng không kém
phần hiệu lực là thu nạp một cách khó khăn số nhân khẩu cơng nhân phụ thêm
vào những rãnh thốt thơng thường của nó” [29, tr.519].
Nhà kinh tế học nổi tiếng J.M.Keynes (1883-1946) đã đề cập đến việc làm
trong tác phẩm "Lý thuyết chung về việc làm", ơng cho rằng việc làm có vai trị
rất quan trọng đối với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Khi việc làm
tăng, thì thu nhập thực tế tăng, cầu tiêu dùng tăng, làm tăng tổng cầu và đây là
nhân tố thúc đẩy tăng trưởng tổng cung cũng như tăng trưởng của nền kinh tế.
Để tăng quy mô việc làm, cần mở rộng đầu tư. Khối lượng đầu tư quyết định
quy mơ việc làm. Ơng chỉ ra: "Việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm,
tăng thu nhập địi hỏi phải khuyến khích tăng đầu tư và giảm tiết kiệm. Có như
vậy mới giải quyết được tình trạng khủng hoảng và thất nghiệp" [27, tr.203].
15
Đến thập kỷ 90, tiếp thu có chọn lọc các khái niệm về việc làm, tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm về người có việc làm tại
Hội nghị quốc tế lần thứ XIII năm 1983 như sau: “Người có việc làm là
những người làm một việc gì đó, có được trả tiền cơng, lợi nhuận hoặc
được thành tóan bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt
động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình,
khơng nhận được tiền công hay hiện vật”. Đây là khái niệm khá toàn diện,
phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng.
Đối với Việt Nam trong thời kỳ bao cấp, người lao động được coi là có
việc làm khi họ tiến hành những cơng việc địi hỏi một chun mơn nào đó
theo sự phân cơng của Nhà nước và có thu nhập nhất định. Người có việc làm
phải thuộc thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực nhà nước và kinh tế tập
thể... Theo cách hiểu này, khái niệm việc làm khơng tính đến những người lao
động đang làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân, cá thể, hay làm việc tại nhà.
Quan niệm này đã hạn chế rất lớn hoạt động lao động sản xuất của con người,
triệt tiêu nhiều tiềm năng sáng tạo, tính chủ động của họ trong q trình hoạt
động thực tiễn. Những năm gần đây, vận dụng khái niệm của tổ chức Lao
động quốc tế (ILO) và một số nước lân cận, nước ta đã có những thay đổi
trong quan niệm về việc làm; Điều 13 Luật Lao động được Quốc hội thông qua
ngày 23 tháng 6 năm 1994 ghi rõ: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" [30].
Như vậy việc làm được thể hiện dưới các dạng sau:
- Những hoạt động mà đem lại thu nhập cho người lao động dưới dạng
tiền lương, tiền công bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật.
- Những hoạt động làm cho người lao động thu được lợi nhuận (người
lao động có quyền sử dụng quản lý hoặc sở hữu tư liệu sản xuất và sức lao
động của bản thân để sản xuất ra sản phẩm).
16
- Những hoạt động hỗ trợ đem lại thu nhập trực tiếp cho chủ thể sử
dụng lao động.
Như vậy việc làm được nhận thức là những hoạt động lao động có ích
cho bản thân, gia đình hoặc cộng đồng. Việc đổi mới nhận thức về việc làm
đã dẫn đến sự đổi mới nhận thức, quan niệm về chính sách, biện pháp giải
quyết việc làm theo hướng khơi dậy mọi nguồn lực và khả năng to lớn nhằm
giải phóng sức lao động; giải quyết việc làm cho người lao động ở mọi thành
phần kinh tế, ở mọi khu vực; trong đó đặc biệt chú ý đến khả năng tự tạo
việc làm của chính bản thân người lao động. Hơn nữa, quan niệm mới hiện
nay khơng chỉ chú ý đảm bảo có đủ việc làm cho người lao động, mà còn coi
trọng nâng cao chất lượng việc làm, tiến tới việc làm có năng suất, có thu
nhập cao và được tự do lựa chọn việc làm, tức là đảm bảo tính nhân văn của
việc làm.
Việc làm đầy đủ theo nghĩa tuyệt đối là khái niệm phản ánh toàn bộ lực
lượng lao động có việc làm, theo nghĩa tương đối (Kinh tế học) đó là tình
trạng tồn dụng nhân cơng, cịn theo cách hiểu thị trường thì đó là sự thoả
mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm của các thành viên có khả năng lao động, nói
cách khác là mỗi người có khả năng lao động, muốn làm viêc đều có thể tìm
được việc làm trong thời gian ngắn. Việc làm đầy đủ mới chỉ đề cập về mặt số
lượng, chưa tính đến yếu tố nguyện vọng, năng khiếu, sở trường, tức là chưa
tính đến yếu tố hợp lý của việc làm. Để đạt được mức độ đảm bảo việc làm
đầy đủ thì phải trải qua một quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhất định.
Quá trình này ngắn hay dài phụ thuộc vào xuất phát điểm, trình độ, hồn cảnh
chủ quan, khách quan của một quốc gia.
Việc làm hợp lý là sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các
yếu tố con người và vật chất của sản xuất, là bước phát triển cao hơn của việc
làm đầy đủ. Việc làm hợp lý có năng suất lao dộng và hiệu quả kinh tế xã hội
cao hơn.
17
Thiếu việc làm là tình trạng một bộ phận lao động khơng có việc làm
hoặc có việc làm nhưng thời gian làm việc thấp hơn thời gian quy định và có
nhu cầu làm thêm. Thiếu việc làm cịn thể hiện dưới dạng làm việc có năng
suất và thu nhập dưới mức thu nhập tối thiểu. Như vậy, thiếu việc làm có
nghĩa là việc làm khơng tạo điều kiện cho người lao động phát huy hết khả
năng năng lực hoặc và không tạo điều kiện cho họ mang lại thu nhập phù hợp
với năng lực của họ.
Thiếu việc làm gồm có thiếu việc làm hữu hình và thiếu việc làm vơ
hình. Thiếu việc làm hữu hình là khi thời gian làm việc thấp hơn mức trung
bình. Mức trung bình ở đây có thể xem là mức quy định của Nhà nước và
phải có nhu cầu tìm việc làm thêm, tình trạng này rất phổ biến.
Thiếu việc làm vơ hình là do sản xuất kinh doanh khơng có hiệu quả dẫn
đến thu nhập thấp, khơng đủ sống, người lao động muốn tìm việc bổ sung.
Người chưa có việc làm là người có nhu cầu làm việc, hiện tại chưa tìm
được việc làm, hoặc trước đây đã từng có việc làm, đã có nghề nghiệp nhất
định nhưng do điều kiện, hoàn cảnh nào đó chưa tìm lại được việc làm.
Thực chất “người thất nghiệp” và “người chưa có việc làm” có cùng
một bản chất, chỉ khác nhau về cách phân chia có tính chất chi tiết của cùng
một chỉ tiêu, do đó có thể gọi chung “người thất nghiệp” là người có nhu cầu
làm việc nhưng chưa có việc làm, đang đi tìm việc làm.
Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao
động muốn làm việc, nhưng chưa tìm được việc làm ở mức tiền cơng đang
thịnh hành. Thất nghiệp là hiện tượng phổ biến ở cả các nước phát triển và
nước đang phát triển. Có các dạng thất nghiệp đang được xem xét dưới các
góc độ như sau:
Xét theo nguồn gốc, bao gồm: Thất nghiệp tạm thời - xảy ra do thay đổi
việc làm hoặc do cung, cầu lao động không phù hợp; thất nghiệp do cơ cấu -
18
xuất hiện do khơng có sự đồng bộ giữa tay nghề và cơ hội có việc làm khi động
thái của nhu cầu và sản xuất thay đổi; thất nghiệp do thời vụ - xuất hiện như là
kết quả của những biến động thời vụ trong các cơ hội việc làm; thất nghiệp chu
kỳ - là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản lượng của nền kinh
tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị sản xuất giảm
dần, dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất giảm lượng cầu đối với các đầu vào, trong
đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, chính sách nhằm khuyến khích để
tăng tổng cầu thường mang lại kết quả tích cực.v.v…
Xét tính chủ động của người lao động thất nghiệp, bao gồm: Thất
nghiệp tự nguyện là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ việc để tìm
cơng việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với nguyện
vọng; thất nghiệp không tự nguyện là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao
động chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền cơng phổ biến nhưng vẫn
khơng tìm được việc làm.
Hiện nay, ở Việt Nam khơng chỉ có thất nghiệp tạm thời do thay đổi cơ
cấu, mà cịn có thất nghiệp tiềm ẩn, thất nghiệp khơng hồn tồn (do hiệu suất
sử dụng thời gian lao động còn thấp, nhất là ở nông thôn) chiếm tỷ trọng lớn
cùng với tỷ lệ tăng cao hàng năm của nguồn lao động càng làm cho tình hình
thất nghiệp thêm gay gắt. Thực tế đang địi hỏi phải có chính sách, giải pháp
đồng bộ để hạn chế tỷ lệ người thất nghiệp.
1.1.2.2. Đặc điểm việc làm của Lao động nữ nông thôn
Việc làm của lao động nữ nói chung, lao động nữ nơng thơn nói riêng
đã được Các Mác đề cập đến trong nghiên cứu q trình sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Ơng cho rằng: Khi sản xuất cơng nghiệp hình thành, máy móc có khả
năng thay thế một số cơng việc nặng nhọc và lao động nữ có thể tham gia vào
q trình sản xuất tư bản với những công việc mà họ có thể đảm đương được,
phù hợp với sức khoẻ của họ. C.Mác viết : “Vì máy móc làm cho lao động sức
bắp thịt trở thành thừa, cho nên nó trở thành một công cụ để sử dụng những
19
người lao động khơng có sức bắp thịt hoặc cơ thể chưa phát triển đầy đủ
nhưng chân tay lại mềm mại hơn. Vì vậy, khi tư bản sử dụng máy móc thì
tiếng nói đầu tiên của nó là Lao động phụ nữ và trẻ em” [28, tr.499].
Hội nghị toàn thể của tổ chức Lao động quốc tế năm 1988, ban hành
Cơng ước xúc tiến việc làm có quy định tại điều 8: Tuỳ theo thực tiễn và pháp
luật hoặc quy định quốc gia mỗi nước thành viên sẽ cố gắng thiết lập Chương
trình đặc biệt để khuyến khích những cơ hội có việc làm thêm và sự trợ giúp
việc làm, khuyến khích tự do lựa chọn việc làm có hiệu quả những loại người
bị bất lợi đã được xác định có thể bị khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm
lâu dài như phụ nữ, thiếu niên, người bị khuyết tật, người già,… và những
người lao động dôi ra do thay đổi cơ cấu.
Đối với Việt Nam, việc làm của lao động nữ nơng thơn cũng đựơc Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề cập đến trong tư tưởng giải phóng phụ nữ, Người nhấn
mạnh: Giải phóng phụ nữ là phải giải phóng tồn diện về chính trị, tư tưởng, xã
hội, giải phóng sức lao động nữ, giúp cho chị em làm việc có hiệu quả nhưng đơi
vai khơng phải gánh nặng và giảm thiểu cường độ lao động chân tay. Người chủ
trương đào tạo phụ nữ trẻ trở thành những công dân mới xã hội chủ nghĩa, vừa
biết lao động chân tay vừa biết lao động trí óc, tạo mọi điều kiện cho phụ nữ
nâng cao trí thức, tự vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ đất nước.
Vận dụng tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, Đảng ta đã và đang nhất
quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đảm bảo việc làm và đời sống của người lao động, trong đó có lực
lượng lao động nữ nơng thơn .
Lao động nữ nơng thơn ở nước ta chiếm tỷ trọng lớn, có nhiều đóng
góp cho cơng cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Họ tham gia vào tất cả các
lĩnh vực ngành nghề kinh tế ở nông thôn như: sản xuất công nghiệp; tiểu thủ
công nghiệp; nông, lâm nghiệp và thuỷ sản; bn bán dịch vụ, y tế chăm sóc
sức khoẻ, giáo dục, quản lý chính quyền, các hoạt động cộng đồng… Tuy
20
nhiên họ lại là nhóm đối tượng phải chịu nhiều thiệt thòi nhất. Trong thời kỳ
thực hiện nền kinh tế tập trung bao cấp và giai đoạn đầu chuyển đổi nền kinh
tế vận hành theo cơ chế thị trường của nước ta, việc làm của lao động nữ nông
thôn thường rơi vào hai nhóm chủ đạo là lao động tự làm trong lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, làm nghề truyền thống và lao động
gia đình khơng hưởng lương, riêng nhóm lao động nữ làm cơng ăn lương
chưa được quan tâm nhiều nên chiếm tỷ lệ thấp hơn so với nam giới. Những
năm gần đây do tác động của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế, tỷ lệ lao động nữ nông thôn có việc làm thuộc nhóm lao động làm cơng
tăng đột biến, thay thế vị trí của nhóm lao động tự làm và lao động gia đình
khơng hưởng lương. Sự thay đổi đột biến này dẫn đến thay đổi cơ cấu việc
làm của lao động nữ ở nông thôn. Năm 2005, tổng số lao động nữ nơng thơn
có việc làm từ đủ 15 tuổi trở lên là 16.175/32.930 người, đạt 49,1 %, đến năm
2008 có 18.126/ 35.360 người đạt 52,8% [8], [9].
Việc tăng tỷ lệ lao động nữ tự làm trong khu vực nông thôn là thể hiện
bước tiến bộ, đặc biệt là vai trị của cơng việc đối với gia tăng thu nhập của lao
động nữ nông thôn. Hiện nay lao động nữ nơng thơn có xu hướng chuyển nhanh
sang lao động tự làm phi nông nghiệp, nguyên nhân do chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, diện tích đất nơng nghiệp bị thu hẹp, một bộ phận lao động nữ chuyển đổi
nghề, làm việc trong các tổ chức doanh nghiệp, phát triển dịch vụ, sản xuất kinh
doanh, một bộ phận lao động nữ di cư ra thành phố làm thuê, bán hàng rong,
giúp việc gia đình…Do vậy tỷ lệ lao động nữ nông thôn tham gia làm công ăn
lương tăng mạnh [48].
Về cơ cấu việc làm của lao động nữ nông thôn giữa các lĩnh vực chênh
lệch khá lớn, trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao. Theo số liệu nghiên cứu
điều tra của Trường Cán bộ phụ nữ Trung ương (tháng 9/2008), trong tổng số
4200 lao động nữ được khảo sát trên phạm vi cả nước, đã có 70,5% lao động
nữ làm nông nghiệp, 10,2% phụ nữ làm kinh doanh, buôn bán, 12,9 lao động
21
nữ làm việc trong các lĩnh vực khác: Công chức, viên chức, công nhân, lâm
nghiệp, ngư nghiệp và tiểu thủ cơng nghiệp. Ngồi ra cũng có 24,8% lao động
nữ nơng thôn đã kết hợp làm thêm nghề phụ khác; 3,8% lao động nữ nông
thôn đã đi làm ăn xa để tạo thu nhập cho hộ gia đình. Qua kết quả nghiên cứu
cho thấy: Hiện nay thực trạng phát triển kinh tế của Việt Nam vẫn xuất phát từ
nền kinh tế nơng nghiệp, q trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta diễn
ra chậm nên tỷ lệ lao động nữ nông thôn làm việc trong nông nghiệp vẫn
chiếm ưu thế.
Bên cạnh đó, do tác động của phát triển khu cơng nghiệp, đơ thị hố,
tình trạng lao động nữ nơng thôn di cư, ra làm việc ở thành phố ngày càng gia
tăng. Nguyên nhân có sự gia tăng này là ruộng đất canh tác bị thu hẹp, lao
động nữ nông thơn phần lớn trình độ tay nghề thấp, khó có cơ hội tìm được
việc làm; mặt khác do giá trị lao động nơng nghiệp thấp, đặc biệt có sự chênh
lệch cao giữa lao động và thu nhập của thành phố với nơng thơn; việc xố bỏ
quản lý hộ khẩu ở thành phố nên đã gây ra hiện tượng lao động nữ di cư ra
thành phố theo mùa vụ ngày càng đơng. Những nghề có tính thời vụ như: Bán
hàng rong, giúp việc gia đình, phục vụ dịch vụ ăn uống, làm may mặc với
mức thu nhập thấp, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn.
Những vấn đề biến động về việc làm của lao động nữ nông thôn đã đặt
ra đối với các nhà hoạch định chính sách cần nghiên cứu các giải pháp tạo
việc làm cho lao động nữ nông thôn thời kỳ hội nhập hiện nay.
1.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động
nữ nông thôn
+ Những nhân tố về điều kiện tự nhiên:
Tài nguyên thiên nhiên ở mỗi quốc gia vừa là đối tượng lao động, vừa
là tư liệu lao động, vì vậy nó là một trong những u tố cơ bản của quá trình
sản xuất và là cơ sở quan trọng đầu tiên để tạo việc làm cho người lao động.
22
Tài nguyên thiên nhiên bao gồm tất cả các nguồn khống sản, đất đai năng
lượng có trên mặt đất, dưới lịng đất, trong rừng, dưới biển… ngay cả vị trí
địa lý, khí hậu, thời tiết thuận lợi cũng là tài nguyên quý thúc đẩy kinh tế xã
hội phát triển, đất nước phát triển.
Tuy nhiên trong thực tế, sự giàu có về tài nguyên không tỷ lệ thuận với
khả năng phát triển ở mức cao trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính
trị. Một số quốc gia tài nguyên thiên nhiên rất nghèo như Singapo, Nhật
Bản… nhưng với công nghệ hiện đại, máy móc tiên tiến và phương pháp quản
lý khoa học đã tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, trong đó có lao động nữ nơng
thơn. Vì vậy điều kiện tự nhiên của mỗi quốc gia chỉ là cơ sở quan trọng ban
đầu cho sự phát triển sản xuất. Việc tiếp theo của mỗi nước là phát huy mặt
thuận, hạn chế mặt không thuận của điều kiện tự nhiên chi phối nền sản xuất,
trên cơ sở đó hoạch định chính sách phát triển đúng đằn, bền vững, nhằm mục
tiêu quan trọng là phát triển con người - chủ thể là động lực chủ yếu của nền
sản xuất và mọi hoạt động xã hội.
Mỗi quốc gia, mỗi địa phương nằm trên những vị tri địa lý nhất định,
có thể thuận lợi hoặc khó khăn về mặt khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, lượng gió,
mưa bão, lũ, hạn hán… Những yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất đặc
biệt là trong lĩnh vực sx nông nghiệp, lâm nghiệp… Đối với những quốc gia
có nền nơng nghiệp phát triển, chẳng hạn như Việt Nam thì những nhân tố về
điều kiện tự nhiên giữ vai trò rất quan trọng, có khả năng tạo thuận lợi hoặc
gây khó khăn cản trở đối với hoạt động sản xuất. Cụ thể là: độ màu mỡ tự
nhiên của đất đai, diện tích canh tác bình qn đầu người ; điều kiện khí hậu,
thuỷ văn thuận lợi hoặc bất lợi cho phát triển các loại cây trồng và con vật
nuôi; trữ lượng của hầm mỏ, tài nguyên của rừng và biển…
Ở nước ta, do đặc điểm địa lý và điều kiện tự nhiên nhiều khi diễn biến
phức tạp, những hiện tượng lũ lụt, hạn hán kèo dài thường xuyên xảy ra. Với
lực lượng đông đảo lao động nữ nông thôn (chiếm trên 70%) là trực tiếp sản
23
xuất nông nghiệp, do vậy điều kiện tự nhiên sẽ có tác động rất lớn đến tạo
việc làm của họ. Tình trạng ngập úng, khơ hạn đã có ảnh hưởng trực tiếp đến
sản xuất nông nghiệp, gây thất thu, giảm năng suất cây trồng, giảm việc làm
của lao động nữ nông thôn.
+ Nhân tố thuộc về sức lao động của lao động nữ nông thôn:
Số lượng và chất lượng sức lao động của lao động nói chung và lao
động nữ nơng thơn nói riêng có ảnh hưởng rất quan trọng tới quá trình tạo
việc làm. Đối với mỗi quốc gia, khi số lượng lao động khơng ngừng tăng,
trong khi đó chất lượng sức lao động chưa tương xứng với yêu cầu của việc
làm thì quá trình tạo việc làm hết sức khó khăn. Hiện nay, lực lượng lao động
nữ nơng thơn của nước ta đang trong tình trạng thừa về số lượng nhưng thiếu
về chất lượng sức lao động. Do vậy sức lao động nữ là một yêu tố quan trọng,
cấu thành nên việc làm của lao động nữ.
Trong nền kinh tế thi trường, sức lao động của lao động nữ nông thôn
cũng là một nhân tố hết sức quan trọng , có tác động trực tiếp đến tạo việc làm
của chính họ. Nhân tố này bao gồm những địi hỏi mà lao động nữ nơng thơn
cần có để đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động và hoạt động tự tạo
việc làm. Nói rộng hơn, chỉ có từ việc nghiên cứu và hiểu thấu những đặc
điểm của lao động nữ nói chung và lao động nữ nơng thơn nói riêng thì các
nhà hoạch định chính sách mới có thể đề xuất các biện pháp thích ứng tạo
việc làm phù hợp cho họ.
Đối với nước ta hiện nay, trong điều kiện cung về số lượng lao động nữ
nông thôn đang dư nên vấn đề này trở nên đơn giản. Nhưng điều rất quan trọng
ở đây là những yêu cầu về chất lượng sức lao động. Do đó, lao động nữ muốn
tìm được việc làm, nhất là việc làm có thu nhập cao, phù hợp với năng lực, trình
độ thì đặc biệt phải đầu tư cho sức lao động của mình cả về thể lực và trí lực.
Bên cạnh đó, một vấn đề quan trọng là phải có các thông tin về thị trường lao
động, biết các cơ hội, việc làm. Việc thông tin về thị trường lao động giúp cho
phụ nữ lựa chọn ngành nghề mà thị trường lao động đang cần và sẽ cần trong
24
tương lai để thực hiện sự đầu tư có hiệu quả. Chủ động tìm kiếm việc làm và
nắm bắt các cơ hội về việc làm trở lên hết sức cần thiết. Mỗi phụ nữ tùy thuộc
vào điều kiện và khả năng cụ thể của mình, tranh thủ các nguồn tài trợ (từ gia
đình và tổ chức xã hội) để tự định hướng kỹ năng, phát triển sức lao động nhằm
nâng cao nhận thức, kiến thức và kinh nghiệm. Đây cũng là điều kiện rất cần
thiết để họ duy trì việc làm, tạo cơ hội tìm được việc làm phù hợp,có thu nhập
cao, qua đó nâng cao vị thế của mình trong gia đình và ngồi xã hội.
Xét về phương diện giới, do thực hiện thiên chức của mình mà lao động
nữ lại bị hạn chế khi đi tìm việc làm. Trong thực tế, do nhiều vấn đề khác chi
phối, làm cho các chủ sử dụng lao động phải cân nhắc, lựa chọn. Do vậy nếu
không quán triệt tốt quan điểm bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc
làm thì hầu hết các chủ sử dụng lao động không muốn tuyển dụng lao động
nữ nông thôn.
Mặt khác về đặc điểm sức khoẻ, sinh lý, phụ nữ nông thôn thường kém
hơn so với thể lực của nam giới, nên khơng thích hợp với công việc nặng
nhọc, độc hại ảnh hưởng đến sức khoẻ như: những công việc trên độ cao lớn,
những nghề làm việc dưới nước, những công việc tiếp xúc với hố chất, hay
những cơng việc địi hỏi cường đạơ lao động cao. Như vậy đương nhiên
những đặc điểm về sức khoẻ, sinh lý của phụ nữ đã thu hẹp phạm vi lựa chọn
việc làm của họ so với nam giới.
+ Tác động của cơ chế, chính sách kinh tế - xã hội:
Bước chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần... đã
làm thay đổi cơ cấu kinh tế. Do đó, cơ cấu lao động trong từng ngành kinh tế,
từng lĩnh vực cũng như các vùng sẽ có sự thay đổi khơng chỉ về số lượng, mà
đặc biệt là về chất lượng lao động. Quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang
tạo ra những cơ sở pháp lý tương ứng cho thị trường lao động Việt Nam phát
triển, tạo điều kiện cho lao động nữ nơng thơn tìm được việc làm. Tiếp tục
25
phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó chú trọng thích
đáng các thành phần kinh tế ngồi quốc doanh vì chúng đã và đang thu hút
một số lượng lớn lao động, chủ yếu là lao động nữ nông thôn. Đặc biệt, không
ngừng phát triển các khu vực và thành phần kinh tế khác, nhiều ngành nghề từ
sản xuất, kinh doanh đến dịch vụ, để thu hút số lượng lao động nữ lớn hơn
nữa do họ bị mất việc từ các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình đổi mới
cơ chế quản lý, sắp xếp lại doanh nghiệp, cổ phần hóa doanh nghiệp... Nhà
nước tiếp tục ban hành các chính sách kinh tế, xã hội khác, nhất là hướng
mạnh vào việc phát triển khu vực ngoài quốc doanh . Thực tế từ các nước
trong khu vực cho thấy, các loại hình này đã và đang hỗ trợ lớn, tạo điều kiện
thuận lợi cho lao động nữ có việc làm, đóng góp sức lực của mình vào tăng
thu nhập cho gia đình, cải thiện đời sống và trong chừng mực nhất định, tạo
cơ hội cho lao động nữ nâng cao vị thế của mình trong gia đình, ngồi xã hội
và vươn lên bình đẳng với nam giới. Đẩy nhanh tốc độ thực hiện Chương
trình quốc gia về việc làm. Thời gian qua, Chương trình này đã và đang thực
sự mở ra triển vọng lớn cho lao động nữ nơng thơn trong việc tìm cơ hội kiếm
việc làm, tham gia xuất khẩu lao động; vay tín dụng để sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy, để cho các chính sách trên thực sự đi vào cuộc sống, có hiệu quả
trong tạo dựng, duy trì và mở rộng việc làm cho lao động nữ nông thôn; Nhà
nước cần chủ động hơn nữa trong việc điều chỉnh, tăng cường kiểm tra, giám
sát việc thực hiện các chính sách của người sử dụng lao động đối với lao động
nữ nói chung và lao động nữ ở nơng thơn nói riêng.
Với Chính sách về bình đẳng giới đã và đang được các nhà khoa học,
Chính phủ các nước nghiên cứu và lồng ghép trong các chương trình phát
triển. Bình đẳng giới khơng có nghĩa là sự chia nhau bình quân về việc làm,
sự hưởng thụ, địa vị theo kiểu số học giữa nam và nữ. Vì có sự khác biệt về
thể chất và thiên chức cho nên nam và nữ đóng vai trị khác nhau trong xã hội
và có những nhu cầu khác nhau. Vấn đề là những sự khác biệt này cần được