Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tiểu luận cao cấp chính trị quan điểm của đảng về dân tộc, tôn giáo và mối quan hệ dân tộc tôn giáo trong nghị quyết đại hội XIII liên hệ thực tiễn công tác dân tộc, tôn giáo ở xã lộc thạnh, huyện lộc ninh, tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.92 KB, 25 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC

BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG

TÊN MƠN HỌC: LÝ LUẬN DÂN TỘC VÀ QUAN HỆ DÂN TỘC
Ở VIỆT NAM
TÊN BÀI THU HOẠCH: QUAN ĐIỂM VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO VÀ
MỐI QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG VĂN KIỆN ĐẠI

HỘI XIII CỦA ĐẢNG. LIÊN HỆ THỰC TIỄN CÔNG TÁC DÂN TỘC
VÀ TÔN GIÁO Ở XÃ LỘC THẠNH, HUYỆN LỘC NINH, TỈNH BÌNH
PHƯỚC HIỆN NAY

ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ

- NĂM 2022


2

MỤC LỤC

Trang

PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG



3
3

QUAN ĐIỂM VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO VÀ MỐI QUAN
Chương 1

HỆ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG VĂN KIỆN ĐẠI
HỘI XIII CỦA ĐẢNG

1.1
1.2
1.3

Vấn đề dân tộc trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Vấn đề tôn giáo trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo trong Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng

3
3
8
11

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN TỘC, TÔN
Chương 2

GIÁO Ở XÃ LỘC THẠNH, HUYỆN LỘC NINH, TỈNH

14


BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY
2.1
2.2

Những kết quả đạt được
Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế

14
16

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
Chương 3

HIỆN CÔNG TÁC DÂN TỘC, TƠN GIÁO Ở XÃ LỘC
THẠNH, HUYỆN LỘC NINH, TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN
NAY

3.1
Một số giải pháp
3.2
Liên hệ trách nhiệm bản thân
PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

18
18
23
24
25



3

Phần I. MỞ ĐẦU
Dân tộc và tôn giáo đều là những vấn đề lớn, cần phải quan tâm giải
quyết trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Đảng và Nhà
nước ta luôn đặc biệt quan tâm phát triển tồn diện chính sách pháp luật về
dân tộc, tôn giáo. Đặc biệt trong những năm gần đây do sự phát triển của nền
kinh tế cùng với sự du nhập, giao thoa của nền nhiều nền văn hóa đã tạo ra
những tác động lớn trong mối quan hệ dân tộc – tơn giáo. Điều này địi hỏi
cơng tác dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước phải sớm nắm bắt được những
tác động, những biến đổi này để có giải pháp khắc phục. Trong các Văn kiện
Đại hội đại biểu tồn quốc của Đảng, vấn đề này cũng ln được bàn đến, có
những đánh giá về thực trạng cũng như giải pháp. Trong đó, Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng đã có những điểm mới về vấn đề dân tộc và tôn giáo cần được
nghiên cứu, quán triệt sâu sắc trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Trong những năm qua, công tác lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết các vấn đề dân
tộc, tôn giáo và mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo đã được Đảng ủy, Ủy ban
nhân dân xã Lộc Thạnh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước quan tâm, chú trọng.
Tuy nhiên bên cạnh cạnh những kết quả đạt được, vẫn cịn tình những tồn tại
hạn chế cần phải khắc phục. Từ những lý do trên, học viên lựa chọn vấn đề:
“Quan điểm của Đảng về dân tộc, tôn giáo và mối quan hệ dân tộc tôn giáo
trong Nghị quyết Đại hội XIII. Liên hệ thực tiễn công tác dân tộc, tôn giáo ở
xã Lộc Thạnh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước hiện nay” làm đề tài viết thu
hoạch kết thúc môn Lý luận dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam.
Phần II. NỘI DUNG
1. QUAN ĐIỂM VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO VÀ MỐI QUAN HỆ DÂN
TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG


1.1. Vấn đề dân tộc trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Trước hết, Văn kiện Đại hội XIII vẫn tiếp tục khẳng định các nguyên
tắc trong quan hệ dân tộc ở Việt Nam, đó là “bảo đảm các dân tộc bình đẳng,

3


4

đồn kết, tơn trọng, giúp nhau cùng phát triển” [1, tr.50]. Chúng ta cần thực
hiện nguyên tắc tôn trọng giữa các dân tộc ở Việt Nam vì 54 dân tộc ở Việt
Nam chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, mỗi dân tộc có bản sắc
văn hóa riêng nên cần phải tơn trọng lợi ích của nhau trong q trình phát
triển, tơn trọng bản sắc văn hóa riêng. Trước đây, văn kiện Đại hội Đảng nói
là các dân tộc đồn kết, bình đẳng, nhưng hiện nay đặt bình đẳng trước đồn
kết. Điều đó là do bình đẳng chính là cơ sở để thực hiện đồn kết dân tộc.
Bình đẳng dân tộc là thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân tộc ở Việt
Nam. Chỉ có thực hiện được điều này mới có đồn kết thực sự giữa các dân
tộc ở Việt Nam. Khi cịn có sự chênh lệch giữa các dân tộc (chưa thực hiện tốt
bình đẳng dân tộc) thì vẫn cịn kẽ hở cho các thế lực thù địch để lợi dụng
nhằm chia rẽ quan hệ giữa các dân tộc, giữa dân tộc Kinh với các dân tộc
thiểu số. Do đó, phải quan tâm thực hiện tốt bình đẳng dân tộc, mới có cơ sở
thực hiện tốt đoàn kết dân tộc. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII có nhiều đánh giá về thành tựu và hạn chế trong chính sách dân tộc.
Trong đánh giá thành tựu về xây dựng chính sách dân tộc ở Việt Nam
thời gian qua, Đảng ta khẳng định: “Hệ thống chính sách dân tộc được hồn
thiện, đầy đủ hơn, bao phủ toàn diện các lĩnh vực, phân cấp khá triệt để cho
các địa phương tổ chức thực hiện, đã tích hợp một số chính sách, khắc phục
một bước tình trạng dàn trải, chồng chéo về chính sách” [2, tr.45]. Theo thống
kê, ở Việt Nam có khoảng 118 chính sách dân tộc hiện cịn có hiệu lực đã bao

quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, như: đầu tư kết cấu
hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, định canh, định cư, văn hóa, xã hội, giáo dục, y
tế, pháp luật, chính trị…
Tuy nhiên, một hạn chế trong chính sách dân tộc được đề cập đến nhiều
trong những năm gần đây là chồng chéo, dàn trải thì chúng ta đang dần khắc
phục những hạn chế này. Trước đây, chính sách dân tộc chồng chéo về nội
dung (cùng một nội dung nhưng ở nhiều chương trình, dự án khác nhau), ví

4


5

dụ như có 17 chính sách về tín dụng, 6 chính sách về nước sạch…
Chính sách dân tộc cịn chồng chéo về địa bàn (ví dụ 80% số xã của
Chương trình 30a nằm trong Chương trình 135, 43% xã của Chương trình 135
nằm trong Chương trình 30a). Vì chồng chéo về nội dung, chồng chéo về địa
bàn nên sẽ chồng chéo về đối tượng thụ hưởng, đáng lẽ ra có thể tích hợp với
nhau nhưng lại khơng thể tích hợp với nhau vì chồng chéo về cơ chế quản lý
(những chương trình có cùng nội dung, địa bàn nhưng khơng tích hợp được
do những bộ, ngành khác nhau quản lý với những cơ chế quản lý khác nhau,
cơ chế thanh quyết tốn khác nhau).
Trước tình trạng đó, các bộ, ngành đã cùng trao đổi, thảo luận để thống
nhất đầu mối quản lý, tránh chồng chéo, tích hợp các chương trình có nội
dung giống nhau, gần nhau thành những chương trình, dự án lớn. Với những
thành tựu trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc thì đời sống
của đồng bào dân tộc thiểu số đã được nâng lên như Đảng ta khẳng định: Kết
cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng, từng bước hoàn thiện đã làm thay đổi cơ
bản diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đời sống vật chất
và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng khó

khăn được cải thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chính sách dân tộc ở
Việt Nam thời gian qua vẫn còn những hạn chế, việc tổ chức thực hiện cịn có
những bất cập cộng với điểm xuất phát của các dân tộc thiểu số thấp, nên đời
sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn cịn khó khăn. Về đời sống vật chất,
Đảng ta khẳng định “tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo của vùng dân tộc thiểu số
và miền núi vẫn còn rất cao, giảm nghèo thiếu bền vững” [2, tr.72,73]. Tỷ lệ
hộ nghèo và cận nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số năm 2019 là 35,5%, gấp
3,5 lần so với mức chung của cả nước là 10,2%, có 21 dân tộc thiểu số có tỷ
lệ hộ nghèo chiếm hơn 1/25. Bên cạnh đó, khả năng tiếp cận và hưởng thụ các
dịch vụ xã hội cơ bản ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số cịn rất khó khăn do

5


6

khoảng cách từ nhà đến trường, đến các cơ sở y tế còn xa. Do chất lượng của
các cơ sở giáo dục, y tế ở vùng sâu, vùng xa nơi đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống dù có nhiều cải thiện nhưng vẫn thấp hơn so với ở thành thị. Chất
lượng dịch vụ y tế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số còn nhiều khó khăn, có mặt cịn bất cập. Vì vậy, trong đời sống kinh tế - xã
hội của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều bất cập nổi cộm cần phải giải
quyết như tỷ lệ bỏ học, tái mù chữ còn cao, việc dạy tiếng dân tộc chưa được
chú trọng. Một số vấn đề bức xúc trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu
số như di cư tự do, thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt… chưa được giải
quyết hiệu quả. Cùng với đời sống vật chất thì đời sống văn hóa của đồng bào
vẫn cịn có những khó khăn.
Những định hướng về chính sách dân tộc ở Việt Nam trong Văn kiện
Đại hội XIII cũng đã khẳng định tính tồn diện của chính sách dân tộc. Từ

thực trạng đời sống vật chất của đồng bào dân tộc thiểu số cịn khó khăn hơn
mặt bằng chung, Đảng ta chủ trương thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm
nghèo đa chiều, bền vững, bao trùm nhất là khu vực đồng bào dân tộc thiểu
số, mà trước hết cần tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu
quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi giai đoạn 2021 -2030. Như vậy, chính sách dân tộc ở Việt Nam trước hết
là trong lĩnh vực kinh tế, nhằm nâng cao thu nhập cho đồng bào dân tộc thiểu
số, khắc phục căn bản tình trạng chênh lệch phát triển, thu nhập, tạo sự
chuyển biến rõ nét trong đời sống của đồng bào. Để nâng cao mức sống của
đồng bào dân tộc thiểu số thì phải thực hiện có hiệu quả công tác giảm nghèo.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thể hiện quan điểm mới về giảm nghèo đó là
giảm nghèo đa chiều, bền vững và bao trùm. Trước tình trạng tái nghèo cịn
cao thì việc giảm nghèo bền vững phải được đặt ra. Giảm nghèo đa chiều thì
tiêu chí khơng chỉ là thu nhập mà cịn có nhiều các tiêu chí khác. Giảm nghèo
bao trùm nghĩa là ở tất cả mọi người, mọi nơi. Để thực hiện được giảm nghèo

6


7

đa chiều, bền vững và bao trùm thì phải tăng cường nội lực, nếu chỉ trông chờ
vào sự hỗ trợ của Nhà nước thì hết hỗ trợ lại có thể tái nghèo. Chính sách dân
tộc ở Việt Nam khơng chỉ giải quyết vấn đề kinh tế mà còn hướng tới giải
quyết các vấn đề xã hội phát triển vì con người, tạo điều kiện cho mọi người,
nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người di cư hịa
nhập, tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng
các dịch vụ xã hội cơ bản. Để đồng bào được hưởng thụ cơng bằng các thành
quả của sự phát triển thì phải công bằng trong tiếp cận các nguồn lực (vốn, tài
nguyên, đất đai, giáo dục, y tế). Do đó, các chính sách dân tộc phải tạo điều

kiện cho đồng bào tiếp cận với các nguồn lực, mà trước hết chính là các dịch
vụ xã hội như giáo dục, y tế. Như vậy, chính sách dân tộc cịn hướng đến giải
quyết các vấn đề xã hội. Chính sách dân tộc cịn hướng đến các vấn đề chính
trị như xây dựng đội ngũ cán bộ và người có uy tín trong đồng bào dân tộc
thiểu số.
Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta cịn chỉ ra những trọng tâm, lưu ý
trong chính sách dân tộc. Để phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, cần bố trí nguồn lực để thúc đẩy sự phát triển, huy động, phân bổ, sử
dụng, quản lý có hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến
căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu số.
Huy động được nhiều nguồn lực nhưng sử dụng, quản lý khơng hiệu quả thì
các nguồn lực đó cũng không phát huy tốt trên thực tế. Mặc dù nguồn lực huy
động từ Nhà nước, xã hội để phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, song
những nguồn lực đó cũng chỉ phát huy tốt tác dụng khi phát huy được nội lực,
vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII khẳng định một nội dung trọng tâm là: “Có cơ
chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc
thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”
[1, tr.170]. Ý chí tự lực tự cường vươn lên, khơng có tâm lý ỷ lại trơng chờ là
một điều kiện quan trọng để giảm nghèo bền vững. Muốn khơi dậy ý chí tự

7


8

lực, tự cường của người dân thì vấn đề hồn thiện cơ chế, chính sách cũng rất
quan trọng. Nếu chính sách mang tính hỗ trợ vật chất đơn thuần cho người
nghèo như hỗ trợ gạo, cho vay tiền, hỗ trợ tiền điện… thì nhiều người lại
khơng muốn thốt nghèo để được nhận những hỗ trợ này. Vì vậy, chính sách
giảm nghèo của chúng ta đã chuyển từ trợ cấp, cho khơng sang hỗ trợ có điều

kiện và hiện nay cần chuyển từ hỗ trợ vật chất sang có những hỗ trợ về cơ
chế, chính sách ưu đãi về cơ hội, điều kiện phát triển, như: hỗ trợ đi học, hỗ
trợ về đào tạo nghề, giới thiệu việc làm hay hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm làm ra.
Điều này sẽ góp phần khơi dậy ý chí tự lực tự cường của đồng bào dân tộc
thiểu số, phát huy nội lực để sử dụng có hiệu quả nguồn ngoại lực.
Trong chính sách dân tộc, Đảng ta cịn rất chú ý đến tính đặc thù, chú
trọng tính đặc thù trong từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định
và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Đặc thù trong chính sách dân tộc
khơng chỉ trong khâu xây dựng chính sách và trong cả q trình tổ chức thực
hiện chính sách. Đặc thù không chỉ là khác biệt giữa dân tộc đa số và thiểu số,
mà ngay giữa các dân tộc thiểu số cũng có những đặc thù riêng. Đồng bào dân
tộc thiểu số ở đồng bằng, trung du hay ở miền núi cao, miền biển thì chính
sách cũng cần có tính đặc thù riêng. Việc đảm bảo tính đặc thù sẽ làm cho
chính sách phù hợp với đồng bào dân tộc thiểu số và được tổ chức thực thi có
hiệu quả.
1.2. Vấn đề tôn giáo trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Chủ nghĩa Mác - Lê nin về tôn giáo và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về tôn giáo đều khẳng định tôn giáo vẫn tồn tại lâu dài trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần
chúng nhân dân. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta cũng khẳng định vai
trị quan trọng của tơn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, vì vậy cần được vận dụng vào để chứng minh cho luận điểm này.
Khẳng định của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trị của tơn giáo trong Văn

8


9

kiện Đại hội XIII có những điểm mới trong các văn kiện trước.

Trong các văn kiện trước, Đảng ta chỉ nói là phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn giáo thì trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta
khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn
lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước” [1, tr.171]. Nguồn lực
ở đây bao gồm nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần. Nguồn lực tinh thần
của các tơn giáo chính là các giá trị đạo đức, văn hóa của các tơn giáo và
nguồn lực vật chất của tơn giáo chính là nguồn lực vật chất của các tín đồ,
chức sắc tơn giáo được thể hiện trong hoạt động của họ. Nguồn lực vật chất
của các tơn giáo thể hiện ở việc các tín đồ và chức sắc tơn giáo thực hiện tốt
các đường lối, chính sách, pháp luật, các phong trào hoạt động của Đảng và
Nhà nước, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển. Đường lối, chính sách, pháp
luật, các phong trào hoạt động mà Đảng và Nhà nước ta đưa ra là để thực hiện
các mục tiêu của cách mạng, góp phần phát triển đất nước. Để thực hiện được
các chính sách, phong trào hoạt động đó phải có sự tích cực, tham gia của tất
cả mọi người dân. Các tín đồ và chức sắc tôn giáo là một lực lượng đông đảo
trong xã hội và khi các tín đồ và chức sắc tơn giáo thực hiện nghiêm đường
lối, chính sách, các phong trào hoạt động mà Đảng và Nhà nước ta phát động
chính là đang đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Các tôn giáo đã huy
động một nguồn lực rất lớn cả tài chính, nhân lực từ các tín đồ, chức sắc và xã
hội vào giải quyết những vấn đề xã hội của đất nước.
Ngoài ra, việc các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam tổ chức các sự kiện tơn
giáo quốc tế mà các tín đồ, chức sắc tôn giáo đến tham dự vừa thúc đẩy kinh
tế phát triển vừa góp phần giới thiệu về một Việt Nam hịa bình, hữu nghị.
Nguồn lực vật chất của tơn giáo đóng góp vào sự phát triển đất nước là rất
lớn, bên cạnh đó nguồn lực tinh thần là các giá trị văn hóa, đạo đức của tơn
giáo cũng tác động tích cực đến sự phát triển bền vững đất nước như Đảng ta
khẳng định: Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tơn giáo vào giữ gìn

9



10

và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội. Giáo lý của các tôn giáo
khuyên con người phải biết yêu thương những người xung quanh, làm việc
thiện,… vừa góp phần củng cố đạo đức truyền thống của dân tộc như nhân ái,
đoàn kết, vừa góp phần ngăn chặn những tệ nạn xã hội.
Nội dung của chính sách tơn giáo ở Việt Nam chính là chính sách vận
động, tuyên truyền trong đồng bào tơn giáo. Nội dung của cơng tác vận động
đó đã được Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII “Vận động, đồn
kết, tập hợp các tổ chức tơn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng
góp tích cực cho cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [1, tr.171]. Như vậy,
chính sách tơn giáo chính là vận động các chức sắc, tín đồ tơn giáo sống tốt
đời, đẹp đạo. Các chức sắc, tín đồ trước hết cần tham gia các hoạt động lễ
nghi tôn giáo (đẹp Đạo) thỏa mãn nhu cầu tinh thần của mình, nhưng họ cũng
là cơng dân Việt Nam nên cần tích cực tham gia, thực hiện tốt trách nhiệm
cơng dân của mình (tốt Đời). Việc thực hiện các hoạt động tơn giáo của các
chức sắc, tín đồ tơn giáo khơng được trái ngược, đi ngược lại với lợi ích của
đất nước và vẫn đảm bảo trách nhiệm công dân của mình. Đồng thời, họ thực
hiện tốt trách nhiệm cơng dân góp phần thuận lợi để thực hiện các lễ nghi tôn
giáo. Muốn vậy, chúng ta cần phải tuyên truyền cho đồng bào hiểu rằng mục
tiêu của cách mạng, của dân tộc cũng thống nhất với lợi ích của các tơn giáo
là mang lại hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền tự do theo hoặc không theo tôn giáo
của mọi người, song cũng kiên quyết chống lại các hành vi lợi dụng quyền tự
do tín ngưỡng, tơn giáo vì những mục đích chính trị xấu, tinh thần đó cũng
được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII. Tạo điều kiện cho các tổ chức
tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật, chủ động giúp đỡ, giải quyết
các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng

thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng

10


11

tín ngưỡng, tơn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng
ta đã chỉ rõ những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù
địch là tìm cách xuyên tạc, vu khống tình hình tơn giáo ở nước ta để nói là
chúng ta vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo. Tình hình tơn giáo ổn
định, đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu
tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính sách vi phạm nhân quyền,
tự do tôn giáo. Đảng ta khẳng định, kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm
minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ
xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tơn giáo và khối đại đồn kết tồn
dân tộc. Vì vậy, đấu tranh chống lại âm mưu này bằng cách thực hiện tốt
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của người dân, quan tâm chăm lo đời sống
vật chất và tinh thần cho đồng bào có Đạo, tạo sự tin tưởng của đồng bào đối
với Đảng và Nhà nước. Đây là cách đấu tranh bằng thực tiễn rất hiệu quả.
Ngồi ra, chúng ta cịn đấu tranh trên mặt trận tư tưởng để vạch rõ những âm
mưu, thủ đoạn của chúng. Và khơng chỉ đấu tranh, mà Đảng ta cịn khẳng
định cần phải “xử lý nghiêm minh” trên cơ sở pháp luật. Pháp luật đã ghi
nhận quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, đồng thời có những chế tài xử lý đối
với những kẻ vi phạm quyền tự do đó.
1.3 Quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo trong Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng
Tơn giáo và dân tộc có mối quan hệ khăng khít. Để phát huy sức mạnh
đại đồn kết dân tộc thì phải đồn kết được tồn dân, trong đó có vai trị rất

quan trọng của đồng bào tôn giáo. Giải quyết tốt vấn đề tôn giáo sẽ tạo tiền đề
quan trọng để thực hiện mục tiêu đại đồn kết dân tộc.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định mối quan hệ giữa dân
tộc và tôn giáo là một nội dung quan trọng. Bởi lẽ, đối với Người, mục tiêu
cao nhất, xuyên suốt cuộc đời cách mạng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

11


12

hội. Và, theo Người, đây là cơ sở vững chắc nhất để thực hiện các quyền cơ
bản của con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo. Theo tư
tưởng của Người về mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo được thể hiện ở hai
nội dung cơ bản: một là, độc lập dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo. Hai là, tương đồng giữa lý tưởng xã hội chủ nghĩa và đạo
đức tôn giáo. Người chỉ rõ, muốn thực hiện quyền tự do tín ngưỡng cho nhân
dân, trước hết phải có độc lập cho dân tộc; tơn giáo khơng thể nằm ngồi mối
quan hệ với dân tộc, khơng thể tách rời vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước
đấu tranh cho độc lập dân tộc chính là đấu tranh cho quyền độc lập của các
tôn giáo, của các giáo dân và kêu gọi mọi người Việt Nam yêu nước, dù có tín
ngưỡng hay khơng, đều phải góp sức mình để giành lại nền độc lập cho nước
nhà. Đồng thời, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi
người, không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng bác ái,
đồn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm
vui hồ bình, hạnh phúc. Rõ ràng, dưới bình diện chung và ở một mức độ nhất
định, giữa lý tưởng cộng sản và đạo đức tôn giáo có những điểm tương đồng.
Bởi, cả lý tưởng cộng sản và học thuyết tơn giáo chân chính đều muốn xố bỏ
tình trạng áp bức, bóc lột, bất cơng và đều mong muốn cho tất thảy mọi người
được sống trong hồ bình, hữu nghị và bình đẳng - một thế giới đại đồng,

khơng có chế độ người bóc lột người.
Có thể khẳng định rằng, với việc xem xét và giải quyết vấn đề tôn giáo
trong mối quan hệ với vấn đề dân tộc cũng như gắn quyền độc lập dân tộc với
quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, và việc lý giải tính "đồng" giữa lý
tưởng cộng sản và mục tiêu của tơn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh biểu hiện sự
vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về lĩnh vực này vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam.
Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta
trong quá trình lãnh đạo ln quam tâm giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn

12


13

giáo. Từ Nghị quyết 24, Chỉ thị 37, Nghị quyết 25 cho đến Nghị quyết Đại hội
IX, Đại hội X, Đại hội XI, Đảng ta luôn rất coi trọng việc giải quyết vấn đề
tôn giáo, củng cố sức mạnh đại đồn kết dân tộc, coi đó là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược trong thời kỳ mới.Trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội
XII của Đảng, việc giải quyết vấn đề tơn giáo trong sức mạnh đại đồn kết
dân tộc tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, phát triển, nhằm tạo điều kiện cho
tôn giáo phát triển lành mạnh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp chung của
đất nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong Văn kiện Đại hội
XIII, vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo được đề cập ở 4 nội dung, quan
điểm cơ bản sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng tơn giáo.
Hai là, sự gắn kết giữa tôn giáo và dân tộc tạo bản sắc văn hóa trước xu
thế tồn cầu.
Ba là, quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo
hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo

quy định của pháp luật.
Bốn là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi
lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc
hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo trái quy định của pháp luật.
Các nội dung trên cho thấy, Đại hội lần này Đảng ta tiếp tục khẳng định
những quan điểm từng được nêu trong các kỳ đại hội trước, đồng thời có sự
kế thừa, phát triển, bổ sung một số điểm cho phù hợp với tình hình mới.
Nhờ quán triệt và kế thừa, phát triển những quan điểm về tơn giáo, tín
ngưỡng trong các Văn kiện trước đó của Đảng, nên những nội dung về tơn
giáo, tín ngưỡng trong Dự thảo lần này càng cho thấy quan điểm thống nhất,
xuyên suốt của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới để đồn kết đơng đảo đồng bào
và chức sắc tơn giáo vào khối đại đồn kết dân tộc. Đó chính là cách giải
quyết vấn đề tơn giáo trong sức mạnh đại đoàn kết dân tộc mà Đảng ta đã

13


14

quán triệt và hoàn thiện dần từng bước trong quá trình đổi mới. Dự thảo lần
này có thêm một bước tiến quan trọng trong nhận thức và hành động của
Đảng, Nhà nước ta về tơn giáo, tín ngưỡng, góp phần quan trọng tăng cường,
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ
TÔN GIÁO Ở XÃ LỘC THẠNH, HUYỆN LỘC NINH, TỈNH BÌNH
PHƯỚC HIỆN NAY
2.1. Những kết quả đạt được
Xã Lộc Thạnh được thành lập theo Nghị định số 60/2005/NĐ - CP ngày
16/05/2005 của Chính phủ, là xã biên giới ở phía Tây Bắc của huyện Lộc
Ninh, có đường biên giới với Campuchia dài khoảng 21,5km; xã có 1.025 hộ

với 4.095 nhân khẩu; Vị trí địa lý tương đối thuận lợi, về giao thơng có quốc
lộ 13, có Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Hoa Lư, có 07 dân tộc cùng sinh sống
gồm: Kinh, Xtiêng, Hoa, Châu Ro, Khmer, Tày, Nùng với 100 hộ, 412 khẩu.
Diện tích tự nhiên là 7.549,02 ha có điều kiện tự nhiên và đất đai thích hợp
cho sản xuất các loại cây cơng nghiệp như: cao su, hồ tiêu, điều, cà phê, cây
ăn trái và các loại cây ngắn ngày khác. Tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội
hàng năm phát triển khá, đời sống nhân dân ổn định, tình hình quốc phịng an ninh được giữ vững.
Là địa phương mang nét đặc thù của xã miền núi vùng sâu biên giới với
đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, lại có các tơn giáo hoạt động với
khá nhiều tín đồ. Do đó công tác dân tộc và tôn giáo là một trong những vấn
đề được Đảng ủy, UBND xã Lộc Thạnh luôn chú trọng quan tâm. Trong
những năm qua, đã đạt được những kết quả cụ thể như sau:
Tình hình Dân tộc: xã Lộc Thạnh Có 5 dân tộc với 102 hộ - 410 khẩu.
Cụ thể:Khmer: 4 hộ - 14 khẩu, Mường: 6 h ộ- 24 khẩu, S Tiêng: 90 hộ - 360
khẩu, Châu Ro: 1 hộ - 7 khẩu, Cao Lan: 1 hộ - 4 khẩu. Các dân tộc sinh sống
tại các khu dân cư. Riêng dân tộc Stieng sinh sống tập trung chủ yếu tại khu

14


15

vực ấp Thạnh Phú. Trong năm 2021, tại khu vực ấp Thạnh Phú có 51 người
thuộc dân tộc Stieng đã chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 (Các ca này đã
được điều trij xong). Trong thời gian tình hình dịch bệnh căng thẳng các hộ
dân trong khu vực này luôn được tiếp nhận sự hỗ trợ từ chính quyền địa
phương cùng các mạnh thường quân được 200 Phần quà với tổng trị giá 89
triệu đồng. Đã vận động di dời chuồng trại ra xa nhà nhằm tránh tình trạng ơ
nhiễm mơi trường được 37 hộ. Các hộ đều thực hiện tốt.
Tình hình Tơn giáo: Trên địa bàn xã có 02 tơn giáo chính là Phật Giáo

(với số lượng phật tự là 153 phật tử) và Thiên Chúa Giáo (Bao gồm Giáo xứ
Lộc Thạnh với số lượng tín đồ là 237 tín đồ và 02 nhóm đạo tin lành tại ấp
Thạnh Phú với số lượng tín đồ của 02 nhóm này là 121 tín đồ). Các tơn giáo
ln hoạt động theo đúng chương trình hoạt động đã được đăng kí đầu năm
với UBND xã. Trong năm 2021, do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nên các tôn
giáo không tổ chức sinh hoạt tập trung đông người và luôn tuân thủ theo các
quy định do địa phương đề ra. Giáo xứ Lộc Thạnh đã thực hiện tốt công tác
tuyên truyền vận động các hộ dân trong địa bàn khu vực ấp Thạnh Phú trong
công tác di dời chuồng trại. Đã vận động các mạnh thường quân trao tặng 01
mảnh đất nhỏ và xây dựng 01 căn nhà tình thương cho 01 hộ khó khăn về nhà
ở trên địa bàn ấp Thạnh Phú.
Trong thời gian, Đảng ủy, UBND xã đã làm tốt công tác tuyên tuyền,
triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước đến với đồng
bào các dân tộc, tôn giáo nhất là tuyên truyền về cuộc bầu cử Quốc hội và
HĐND các cấp; quản lý chặt chẽ đất tôn giáo và các khu vực họ giáo, nhà
thờ; thường xuyên chủ động nắm tình hình tư tưởng, nguyện vọng của đồng
bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo; tăng cường cơng tác quản lý hoạt
động tín ngưỡng, tơn giáo; đấu tranh phịng ngừa các hoạt động tơn giáo trái
pháp luật; công tác an sinh xã hội được triển khai sâu rộng, đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên.

15


16

Theo báo cáo, trong năm 2020, 2021 triển khai thực hiện công tác dân
tộc, tôn giáo ở xã Lộc Thạnh đã tổ chức hơn 90 cuộc tuyên truyền cho gần
1.000 đại biểu là đồng bào dân tộc thiểu số, và các tín đồ tơn giáo, người có
uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các chủ trì tôn giáo về các văn

bản của Trung ương, của tỉnh, huyện liên quan đến các chính sách dân tộc; tơn
giáo. Hỗ trợ con giống, vật tư nông nghiệp cho hơn 45 hộ có hồn cảnh khó
khăn với số tiền hơn 500 triệu đồng; triển khai xây dựng mới 6 tuyến đường
với hơn 9km, sửa chữa 05 cơng trình tuyến đường, bị hư hỏng với kinh phí
hơn 7,8 tỷ đồng. Các chính sách đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội ln được
triển khai thực hiện kịp thời; rà sốt xác định thơn đặc biệt khó khăn, rà sốt
hộ gia đình các DTTS cịn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù; triển
khai các biện pháp quản lý, ngăn chặn tình trạng bán điều non, cầm cố đất,
bán đất, vay tiền lãi suất cao ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tổ chức 07 đợt
thăm, tặng quà nhân dịp lễ, tết truyền thống của đồng bào DTTS; 05 đợt khảo
sát, nắm tình hình đời sống kinh tế - xã hội của đồng bào DTTS.
Đối với công tác tuyên truyền, phịng, chống dịch bệnh Covid-19, Ban
văn hóa xã đăng tải hơn 100 tin, bài tuyên truyền về công tác dân tộc, tơn
giáo, cơng tác phịng, chống dịch bệnh Covid-19... Về cơ bản, cơng tác phịng
dịch bệnh Covid-19 trong vùng dân tộc thiểu số thực hiện tốt; các tổ chức, lực
lượng trong xã thực hiện tốt chính sách an sinh đối với người dân nói chung,
đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng, khơng để ai bị thiếu đói. Người có uy tín,
già làng tiêu biểu phát huy vai trị trong phòng, chống dịch bệnh; đồng bào
các dân tộc thiểu số nâng cao nhận thức, ý thức tự bảo vệ bản thân, bảo vệ
cộng đồng.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác dân tộc, tơn giáo ở xã Lộc
Thạnh vẫn cịn tồn tại những hạn chế, đó là:

16


17

Thứ nhất, các chương trình, đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội,

giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số và các
hoạt động liên quan đến lĩnh vực tôn giáo có mặt chưa hiệu quả.
Thứ hai, nhận thức của một số cán bộ, đồng bào dân tộc thiểu số và
đồng bào có đạo về cơng tác dân tộc và tơn giáo của Đảng và Nhà nước chưa
cao. Thậm chí có người còn vi phạm quy định của địa phương (trường hợp cơ
sở thờ tự trái với các quy định tại địa phương).
Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc, tơn giáo cịn thiếu kỹ
năng, kinh nghiệm thực tiễn.
Thứ tư, công tác đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn hoạt động lôi
kéo, xúi giục của các thế lực thù địch trên mặt trận dân tộc, tôn giáo có thời
điểm chưa quyết liệt, mạnh mẽ.
Những hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, song những nguyên
nhân cơ bản, trực tiếp đó là:
Một là, Đảng ủy, UBND xã trong công tác lãnh chỉ đạo, điều hành;
quản lý chặt chẽ vấn đề dân tộc và tơn giáo có thời điểm chưa tốt; chưa sâu
sát kiểm tra, giám sát kết quả thực hiện chính sách dân tộc, các chương trình,
dự án dành cho đồng bào dân tộc và các hoạt động liên quan đến lĩnh vực tôn
giáo.
Hai là, công tác tuyên truyền, quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc, tôn giáo chưa
được thường xuyên, liên tục, chất lượng tuyên truyền thấp.
Ba là, đội ngũ cán bộ, công chức làm cơng tác dân tộc, tơn giáo các cấp
cịn thiếu, năng lực, chuyên môn chưa đáp ứng với yêu cầu công tác, chưa
nhận thức được tầm quan trọng đối với công tác dân tộc, tôn giáo.
Bốn là, các thế lực thù địch và cán phần từ phản động thường xuyên lợi
dụng vấn đề dân tộc, tơn giáo để kích động chống phá, đặc biệt là lôi kéo các

17



18

đồng bào dân tộc thiểu số, và đồng bào có đạo phản đối các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước cũng như các hoạt động tại địa phương.
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC DÂN TỘC, TÔN GIÁO Ở XÃ LỘC THẠNH, HUYỆN LỘC NINH,

TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY
3.1 Một số giải pháp
Để làm tốt cơng tác tơn giáo trong tình hình mới theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng về công tác dân tộc, tôn giáo ở xã Lộc Thạnh,
huyện Lộc Ninh trong giai đoạn hiện nay, bản thân tôi thiết nghĩ cần phải thực
hiện tốt hơn nữa một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức cho đọi ngũ cán bộ và nhân dân
trên địa bàn về công tác dân tộc, tôn giáo; đặc biệt là nhận thức của đồng
bào dân tộc thiểu số và đồng bào có đạo.
Để nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân dân ở xã Lộc Thạnh về công
tác dân tộc, tôn giáo cần tiếp tục quan tâm việc tổ chức cho cán bộ, nhân dân
nói chung, đồng bào có tín ngưỡng, tơn giáo nói riêng học tập các quan điểm,
chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với các tôn giáo. Tuyên truyền sâu
rộng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của cơng tác dân tộc, tôn giáo trong việc
tập hợp, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đồn kết tồn dân tộc. Ban Văn
hóa xã cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong
vùng giáo, nhất là trong các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn
giáo nắm và thực hiện tốt tinh thần Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo, Nghị định
số 92/2012/NĐ-CP ngày 8-11-2012 của Chính phủ Quy định chi tiết và biện
pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng tơn giáo; ; Kết luận số 65-KL/TW ngày
30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về cơng tác dân tộc trong tình

hình mới; Nghị quyết 120/2010/QH14 của Quốc hội khóa XIV phê duyệt

18


19

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Nghị định 05/2011/NĐ-CP
ngày 14/01/2011 của Chính phủ về cơng tác dân tộc; Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc dân tộc thiểu số lần thứ II; những quan điểm mới của Đại hội
XIII của Đảng về dân tộc, tôn giáo...
Thông qua tuyên truyền, cổ vũ, động viên đồng bào các dân tộc thiểu
số, đồng bào có đạo đóng góp tích cực vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, tăng cường, củng cố niềm tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Đồng thời, đấu tranh, phản bác các
thông tin, quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ, chia rẽ, phá hoại khối đại đồn kết
tồn dân tộc.
Cơng tác tuyên truyền cần thiết thực, có trọng tâm trọng điểm, phù hợp
với từng đối tượng, từng đặc điểm khu vực. Hình thức tuyên truyền là qua các
ấn phẩm tuyên truyền (tờ rơi, sổ tay, bản tin thông báo nội bộ, tài liệu tuyên
truyền, thông tin phục vụ lãnh đạo, sinh hoạt chi bộ...). Tuyên truyền trực
quan bằng khẩu hiệu, pano, áp phích... trên các tuyến đường, khu vực trung
tâm Văn hóa - Thể thao, nhà văn hóa, điểm sinh hoạt cộng đồng… trên địa
bàn xã. Tuyên truyền lồng ghép thông qua các sinh hoạt tôn giáo, các buổi
sinh hoạt cộng đồng, các hoạt động văn hóa, văn nghệ… ở thơn, bản. Tuyên
truyền trên internet, mạng xã hội.
Hai là, phát huy vai trị của cả hệ thống chính trị ở địa phương trong
công tác dân tộc và tôn giáo; đặc biệt là trách nhiệm của tổ chức Đảng,

chính quyền xã Lộc Thạnh, huyện Lộc Ninh.
Để thực hiện giải pháp này cần tập trung nâng cao nhận thức, thống
nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và bà con nhân dân địa
phương đối với công tác dân tộc, tôn giáo. Để làm tốt vấn đề này đòi hỏi các
Đảng ủy, UBND xã cần thực sự quan tâm, lãnh đạo việc thực hiện các chủ

19


20

trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với các dân tộc, tơn giáo một
cách đồng bộ, có tính thống nhất cao; cần phân định rõ vai trò lãnh đạo của
Đảng, cơng tác quản lý nhà nước của chính quyền và khơng ngừng phát huy
vai trị vận động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng trong việc động
viên đồng bào có đạo tham gia thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước,
đoàn kết, phấn đấu xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp. Đề cao
trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển
khai thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về dân tộc, tơn giáo. Có nghĩa là Đảng ủy, UBND xã Lộc
Thạnh cần tiếp tục thực hiện công tác quản lý tôn giáo theo pháp luật. Hoạt
động tôn giáo là hoạt động liên quan và ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời
sống xã hội, liên quan tới lợi ích chung của xã hội và lợi ích quốc gia; kiên
quyết xử lý các đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo làm ảnh hưởng tới lợi
ích quốc gia, dân tộc, bảo đảm hoạt động tôn giáo được tiến hành có trật tự.
Đảm bảo cho tơn giáo hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật;
hoạt động tôn giáo không được cản trở trật tự xã hội, trật tự cơng cộng và sinh
hoạt bình thường của người dân. Cùng với đó là, quan tâm xây dựng đội ngũ
cán bộ làm công tác dân tộc, tôn giáo đủ năng lực, đủ mạnh, tạo điều kiện về
mọi mặt nhằm góp phần tham mưu ngày càng tốt hơn cho cấp uỷ, chính

quyền xã giải quyết các vấn đề có liên quan đến tơn giáo theo đúng chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Giải pháp này cùng yêu cầu Mặt trận, các đoàn thể quần chúng trên địa
bàn xã cùng cả hệ thống chính trị tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được,
nâng cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đối với cơng tác dân tộc, tơn
giáo, góp phần tập hợp, động viên đồng bào các dân tộc, tôn giáo hăng hái thi
đua lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống "tốt đời đẹp đạo" thực hiện tốt
chính sách đại đồn kết tồn dân tộc, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện điều đó các

20


21

tổ chức, lực lượng đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu
nước, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc và toàn ven lãnh thổ, làm cho các tơn giáo
gắn bó với dân tộc, với q hương đất nước, tăng cường sự đồng thuận giữa
người có tín ngưỡng, tơn giáo và những người khơng tín ngưỡng, tơn giáo
cũng như giữa những người có tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau. Cần nhận thức
một cách sâu sắc rằng nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận
động quần chúng, thông qua công tác vận động nhằm giúp đồng bào các tôn
giáo phát huy những ưu điểm, khắc phục tồn tại, giữ gìn và phát huy những
truyền thống văn hóa của dân tộc, tơn vinh những người có cơng với Tổ quốc,
với nhân dân đồng thời chủ động đấu tranh chống lại các hoạt động lợi dụng
tự do tín ngưỡng tơn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp
luật và chính sách của Nhà nước, lợi dụng, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ
các dân tộc, gây rối , xâm phạm an ninh quốc gia.
Ba là, tạo điều kiện, quan tâm phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, trong đó ưu tiên cho đồng bào

dân tộc và đồng bào có đạo. Tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo; quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho các sinh hoạt tín ngưỡn
dân tộc, tơn giáo bình thường theo pháp luật; không mặc cảm, kỳ thị dân
tộc, tôn giáo.
Các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương cần tập
trung ưu tiên cho đồng bào dân tộc thiểu số và cả đồng bào có đạo. Ưu tiên
lực lượng lao động là dân tộc thiểu số. Tập trung phổ biến kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm lao động – sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với đó
là tạo điều kiện giao lưu văn hóa, mở rộng quan hệ, với các tổ chức tơn giáo
khác ở trong và ngồi tỉnh (thậm chí là nước ngồi)
Chính quyền xã phải là đồng thuận và ủng hộ tạo điều kiện về cơ sở vật
chất, thời gian và hỗ trợ lực lượng cho các dân tộc, các tổ chức tôn giáo trên
địa bàn xã tiến hành giao lưu hợp tác với nhau. Trường hợp có những tơn giáo

21


22

có giao lưu, tun truyền đối ngoại ở ngồi nước thì cần trên cơ sở chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là độc lập, tự chủ, bình đẳng, hữu nghị,
đem lại sự hiểu biết và ủng hộ ngày càng lớn của các nước trên thế giới về sự
đúng đắn của chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng là
sự bảo đảm quan trọng để các tổ chức tơn giáo và tín đồ các tôn giáo không
chịu sự chi phối và khống chế của thế lực bên ngoài. Cần chỉ đạo và ủng hộ
các tổ chức tơn giáo tự giác kiên trì ngun tắc này, giúp đỡ và ủng hộ các tổ
chức tôn giáo phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của tôn giáo tham gia
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm quyền lãnh đạo của
những người đứng đầu các tổ chức tôn giáo thuộc về các chức sắc yêu nước,
yêu tôn giáo. Đồng thời phát huy tối đa các lực lượng có uy tín trong các dân

tộc, tôn giáo trong định hướng phát triển dân tộc, tơn giáo trong tiến trình phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Bốn là, định hướng và giúp đỡ các tơn giáo thích ứng với xã hội xã
hội chủ nghĩa.
Như trên đã trình bày, kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng ta cũng khẳng định sự tương đồng giữa lý tưởng xã hội
chủ nghĩa và đạo đức tôn giáo. Cho nên cần định hướng và giúp đỡ tơn giáo
thích ứng với xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì xã hội xã hội chủ nghĩa không phải
là giáo điều, cứng nhắc, xa lạ với lợi ích vật chất và tinh thần của con người.
Xã hội xã hội chủ nghĩa hết sức cụ thể và thiết thực. Chủ nghĩa xã hội trước
hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người
có cơng ăn việc làm, được ấm no và sống một đời sống hạnh phúc. Cổ vũ và
ủng hộ các tổ chức tôn giáo phát huy truyền thống tốt đẹp u nước, u tơn
giáo, đồn kết tiến bộ, phục vụ xã hội, cống hiến vì sự nghiệp đồn kết, phát
triển kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội, giữ vững độc lập, thống nhất đất
nước. Giúp đỡ, ủng hộ các tổ chức tôn giáo đưa ra sự lý giải đối với giáo lý
tôn giáo phù hợp với yêu cầu tiến bộ xã hội, tăng cường sự hiểu biết của quần

22


23

chúng theo tơn giáo đối với Đảng và Chính phủ. Ủng hộ các tôn giáo tham gia
phản đối và ngăn chặn các thế lực lợi dụng tôn giáo hoạt động phi pháp gây
nguy hại đối với Tổ quốc và lợi ích của nhân dân.
Năm là, tích cực nâng cao tinh thần cảnh giác và phòng ngừa âm
mưu của các thế lực thù địch trong nước và quốc tế thực hiện chiến lược
“diễn biến hịa bình” để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ nhân
dân với Đảng và Nhà nước.

Trong thời kỳ hội nhập, tăng cường quan hệ quốc tế, các thế lực thù
địch và các lực phượng phản động không ngừng lợi dụng các hoạt động tự do
tín ngưỡng tơn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước, lợi dụng, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các
dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Chính vì thế, chúng ta càng cần
nêu cao tinh thần cảnh giác nhằm ngăn chặn sự thâm nhập của các tổ chức, cá
nhân lợi dụng tơn giáo kích động đồng bào tơn giáo chống đối chính quyền và
chế độ. Bằng cách tăng cường công tác tuyên truyền và quản lý công tác dân
tộc, tôn giáo bằng pháp luật, phối hợp với cơ quan chức năng cụ thể là công
an xã theo dõi, kiểm tra các hoạt động của dân tộc và tôn giáo.
3.2. Liên hệ trách nhiệm bản thân
Trên cương vị là phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã, bản thân tôi
xác định luôn nêu cao ý thức trách nhiệm, tích cực, chủ động thực hiện có
hiệu quả các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về công tác dân tộc, tôn giáo, đồng thời cùng với cấp ủy, chính quyền
địa phương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo trên địa
bàn xã.
Cụ thể: xác định xã Lộc Thạnh là xã đặc thù về điều kiện tự nhiên và
lịch sử, cư dân vùng biên giới của của xã là có 7 dân tộc và hai tơn giáo chính
hoạt động (hơn 500 tín đồ). Thực tế ấy đã khẳng định vai trò to lớn của các
dân tộc thiểu số cũng như tôn giáo trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh biên

23


24

giới nước ta. Để nâng cao vai trò của các dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới,
một trong những công tác cơ bản của xã xác định là vận động quần chúng.
Song, để thực hiện tốt công tác này, trước hết, bản thân tôi đã đi sâu, đi sát tìm

hiểu đồng bào, hiểu bối cảnh lịch sử và những đặc điểm kinh tế - xã hội của
họ có liên quan chặt chẽ đến công tác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới.
Bên cạnh đó, cùng với chính quyền xã quản lý tốt việc di dân tự do qua biên
giới, sự thuận lợi về đi lại trong làm ăn và thăm thân, nhất là đi lại qua đường
dân sinh sẽ gây khó khăn cho cơng tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu của cư dân
vùng biên giới. Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của các dân tộc,
tổ chức tôn giáo, phân biệt rõ hoạt động tôn giáo bình thường với việc lợi
dụng tín ngưỡng, tơn giáo. Kiên quyết xử lý việc lợi dụng tín ngưỡng, tơn
giáo vào các mục đích khác ngồi tơn giáo… để chống phá Đảng, Nhà nước;
biểu dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân làm tốt công tác dân
tộc, tôn giáo ở địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh đó với tư cách là lãnh đạo quản lý, bản thân vẫn có
mặt cịn hạn chế đó là: cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác dân tộc, tơn giáo
có thời điểm chưa bao quát tốt; kiến thức, kỹ năng giải quyết vấn đề dân tộc,
tơn giáo có mặt cịn hạn chế... song trên tinh thần nắm vững quan điểm của
Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc và tơn giáo, đặc biệt là quán triệt
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, về chính sách dân tộc và tơn giáo, bản
thân sẽ tiếp tục thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo với tinh thần “dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám nói, dám đột phá sáng tạo và dám
đương đầu với khó khăn, thử thách” để hồn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân giao phó.
Phần III. KẾT LUẬN
Trong q trình lãnh đạo, Đảng ta đã ln khẳng định dân tộc và tôn
giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, với rất nhiều chuyển
biến tích cực trong thời gian qua đã khẳng định quan điểm của Đảng về dân

24


25


tộc, tơn giáo là đúng đắn, hồn tồn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất
nước, đáp ứng được nguyện vọng của Nhân dân trong và ngoài nước. Nhờ có
những chủ trương, chính sách đúng đắn về vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng của
Đảng, Nhà nước, nên thời gian qua, vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng ở nước ta đã
được giải quyết một cách thỏa đáng; công tác tôn giáo đạt được những thành
tựu rất đáng ghi nhận, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới. Trong điều kiện hiện
nay, tiếp tục thực hiện tốt chính sách dân tộc, tơn giáo là góp phần quan trọng
tạo sự ổn định và phát triển bền vững đất nước.
Xã Lộc Thạnh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước là xã có đặc thù về
dân tộc và tơn giáo, lại là xã có đường biên giới với nước bạn Campuchia, do
đó cơng tác dân tộc, tôn giáo là vấn đề hết sức nhạy cảm và quan trọng. Dưới
quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc, tôn giáo; sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bình Phước, Huyện ủy, UBND huyện Lộc Ninh, địi
hỏi cấp ủy đảng, chính quyền, và các tổ chức lực lượng xã phát huy tinh thần
trách nhiệm cùng với nhân dân chung tay xây dựng và phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
4. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Lý luận
dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận
chính trị, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội 2021.
5. Ủy ban Dân tộc, Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra thu thập thông
tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019. Nxb.
Thống kê, 2020.


25


×