Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

tiểu luận CCCT đặc điểm tín NGƯỠNG, tôn GIÁO ở VIỆT NAM và sự vận DỤNG của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM TRONG THỰC HIỆN đoàn kết tôn GIÁO THEO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.23 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC

BÀI TIỂU LUẬN
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG

TÊN MƠN HỌC: TƠN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG

TÊN BÀI TIỂU LUẬN: ĐẶC ĐIỂM TÍN NGƯỠNG, TƠN
GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM TRONG THỰC HIỆN ĐỒN KẾT TƠN
GIÁO THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ

- NĂM 2022


MỤC LỤC

PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƯỠNG,
Chương 1. TƠN GIÁO VÀ ĐẶC ĐIỂM TÍN NGƯỠNG TƠN
GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1.
Những vấn đề lý luận về tín ngưỡng, tơn giáo

1


1

1.2.

10

Chương 2.

2.1.
2.2.

Đặc điểm của tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÍN NGƯỠNG
TƠN GIÁO VÀ ĐỒN KẾT TƠN GIÁO TRONG
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tín ngưỡng,
tơn giáo và giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo
Một số giải pháp cơ bản thực hiện đoàn kết tôn giáo ở Việt

Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ chí Minh
PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2
2

14
14

16
20
21


1
Phần I: MỞ ĐẦU
Tơn giáo, tín ngưỡng tơn giáo ln là một vấn đề phức tạp, vì nó liên quan
dến lĩnh vực đời sống tâm lý, đời sống tâm linh của con người. Nước ta là một
quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng tơn giáo lại mang tính quần chúng phổ biến
nên tín ngưỡng tơn giáo đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh
thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam ln xác định vấn đề tín
ngưỡng tơn giáo và cơng tác tơn giáo là vấn đề chính trị quan trọng, quan hệ
đến sự phát triển của đất nước, đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của các tầng lớp nhân dân. Cũng như những lĩnh vực khác của xã hội, đời
sống tôn giáo hiện nay đang diễn ra rất sơi động, vì vậy nghiên cứu để hiểu
sâu sắc từ đó có đường lối, biện pháp đối xử với nó một cách đúng đắn ln
là vấn đề thời sự.
Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão,
khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và tưởng chừng con
người cùng với khoa học có thể giải thích được mọi vấn đề của tự nhiên, xã
hội, tư duy mà không cần viện dẫn thần linh. Nhưng thực tế đang có nhiều
vấn đề diễn mà chúng ta chưa giải đáp được. Trong những năm vừa qua, nhu
cầu tín ngưỡng tơn giáo của nhân dân ta có xu hướng gia tăng, hoạt động của
các tổ chức tôn giáo tiếp tục diễn ra phức tạp, các thế lực thù địch luôn lợi
dụng tín ngưỡng tơn giáo để chống phá cách mạng nước ta ngày càng thâm
độc. Tất cả những tác động đó đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội
của nhân dân ta và ngày càng gia tăng trong tình hình hiện nay. Vì vậy, nghiên
cứu vấn đề “Đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam và sự vận dụng của

Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện đồn kết tơn giáo theo tư tưởng Hồ
Chí Minh hiện nay” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc.


2

Phần II: NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN NGƯỠNG, TƠN
GIÁO VÀ ĐẶC ĐIỂM TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận về tín ngưỡng tơn giáo
1.1.1. Khái niệm
Tín ngưỡng tơn giáo và tôn giáo là những hiện tượng cùng bản chất
nhưng cũng có sự khác nhau nhất định.
Tín ngưỡng tơn giáo nếu định nghĩa một cách duy danh thì “tín” là lòng
tin, niềm tin. “ngưỡng” là sự “ngưỡng mộ”, “ngưỡng vọng” [6, tr.128], là
hướng vào một cái gì đó. Tín ngưỡng là lòng tin, và sự ngưỡng mộ, ngưỡng
vọng vào một cái gì đó. Tín ngưỡng tơn giáo là lịng tin và sự ngưỡng mộ,
ngưỡng vọng vào một lực lượng siêu nhiên, thần bí. Lực lượng siêu nhiên này
mang hình thức trừu tượng như: Trời, Phật, Thần thánh … có sức mạnh hư ảo,
vơ hình có thể tác động đến đời sống của con người, được người ta tin là có
thật và được người ta tôn thờ.
Xét về mặt lịch sử, tơn giáo đầu tiên xuất hiện dưới dạng các tín
ngưỡng ngun thủy. Những hình thức tín ngưỡng ngun thủy biểu hiện
phong phú, đa dạng ở các thị tộc, bộ lạc nguyên thủy, nhưng chúng đều ở
cùng một trình độ là lòng tin vào sự tồn tại của lực lượng siêu nhiên thần bí là
có thật, lực lượng này có sức mạnh thần bí, hư ảo, vơ hình có thể tác động đến
đời sống tâm linh của con người và được người ta tôn thờ. Quan niệm về lực
lượng siêu nhiên ở đây có thể đã mang hình thức trừu tượng, thậm chí cũng đã
hình thành những lễ nghi trong quan hệ với lực lượng siêu nhiên đó, nhưng

chưa được lý giải, chưa được hệ thống hóa thành hệ thống quan niệm về nó.
Tơn giáo, nếu hiểu một cách chặt chẽ, là một hiện tượng xã hội mang
tính lịch sử bao gồm hệ thống ý thức tôn giáo, tổ chức và các hoạt động tôn
giáo.
Hệ thống ý thức tôn giáo là toàn bộ những quan niệm về lực lượng siêu
nhiên, sự tồn tại, sức mạnh huyền bí của họ đã được khái quát, được hệ thống


3
hóa thành hệ thống và những niềm tin, tình cảm tơn giáo được hình thành trên
cơ sở những quan niệm đó.
Như vậy, tơn giáo với tư cách là hiện tượng xã hội, xét chỉ về phương
diện ý thức tôn giáo, nó đã đạt đến trình độ cao hơn, trình độ khái qt hóa,
trình độ hệ thống hóa. Ngồi ra tơn giáo còn bao gồm hệ thống cơ cấu, cơ chế
để duy trì, điều hành mọi hoạt động của tơn giáo như: các tổ chức giáo hội, hệ
thống các nhà tu hành, các nhà quản lý trong các giáo hội, các cơ sở vật chất
để duy trì, thực hành, phát triển các hoạt động tơn giáo và những tín đồ tơn
giáo, những người tự nguyện tuân theo các giáo lý, giáo luật, giáo lễ, chịu sự
quản lý, hướng dẫn về mặt tín ngưỡng của giáo hội.
Giữa tín ngưỡng tơn giáo và tơn giáo có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Mỗi tơn giáo đều được hình thành trên cơ sở một tín ngưỡng tơn giáo nhất
định, khơng có tín ngưỡng tơn giáo thì khơng có tơn giáo nào cả. Tín ngưỡng
tơn giáo xét về bản chất cũng là tôn giáo, nhưng là tôn giáo chưa phải theo
nghĩa đầy đủ, chặt chẽ của khái niệm này. Như Ph. Ăngghen trong tác phẩm
chống Đuy Rinh đã viết: “Bất cứ tôn giáo nào cũng đều là sự phản ánh hư ảo
vào trong đầu óc con người những sức mạnh bên ngoài chi phối cuộc sống
hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh mà trong đó sức mạnh ở thế gian đã
mang hình thức siêu thế gian” [1, tr.345]. Ở đây tín ngưỡng tơn giáo là hạt
nhân của ý thức tôn giáo, là yếu tố ban đầu của sự hình thành tơn giáo. Nói
như thế khơng có nghĩa là khi tơn giáo với tính cách là tơn giáo ra đời thì các

hình thức sơ khai, tín ngưỡng ngun thủy khơng cịn tồn tại nữa, mà trong
thực tế đời sống tâm linh vô cùng phức tạp, bên cạnh những tơn giáo vẫn tồn
tại những tín ngưỡng hoặc tàn dư của những tín ngưỡng nguyên thủy, hoặc là
sự pha trộn của các tín ngưỡng nguyên thủy với các tơn giáo để hình thành
nên một tín ngưỡng tơn giáo mới.
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tơn
giáo, tín ngưỡng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Các Nhà kinh điển Mác - Lênin không viết những tác phẩm chuyên biệt
bàn về vấn đề tơn giáo. Nhưng qua tồn bộ bác tác phẩm của mình, nhất là


4
các tác phẩm: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen - Lời nói
đầu”, “Về vấn đề Do Thái, Luận cương về Phoiơbắc” của C.Mác, “Chống
Đuyrinh, Lút vích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” của
Ph. Ăngghen, “Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo”; “Thái độ của đảng cơng nhân
đơì với tơn giáo”; “Chủ nghĩa duy vật chiến đấu” của V.I.Lênin, các ông đã
thể hiện sự hơn hẳn so với các nhà tư tưởng khác trong lịch sử khi luận giải
một cách cơ bản, toàn diện, hệ thống và rất đúng đắn khoa học về nguồn gốc,
bản chất, chức năng, vai trò và các mối quan hệ của tôn giáo với các hiện
tượng xã hội khác. Từ quan điểm đuy vật về lịch sử, C. Mác đã khẳng định:
chính “… con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra con
người” [2, tr.569]. Cho nên, tồn giáo là một hiện tượng lịch sử, nó chỉ xuất
hiện và tồn tại trong một giai đoạn nhất định, gắn với những điểu kiện kinh tế,
xã hội, nhận thức và tâm lý và nhất định nó sẽ mất đi khi các điều kiện đó
khơng cịn.
Trên cơ sở nguồn gốc của tơn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra
đúng đắn bản chất, chức năng và vai trị của tơn giáo trong lịch sử. Từ quan
niệm bản chất của tôn giáo là sự phản ánh hự ảo thế giới khách quan vào
trong đầu óc những con người chưa tìm thấy mình hoặc tự đánh mất mình một

lần nữa, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra một cách tồn diện các chức năng
của tơn giáo, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tính phức tạp của chức năng đền bù
“hư ảo” của tôn giáo. “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [7, tr.570] “Tôn
giáo là thứ rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của tư bản mất phẩm
cách con người” [7, tr.170]
Một trong những bộ phận quan trọng nhất trong tư tưỏng các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về tơn giáo là việc khẳng định tính tất yếu và
chỉ ra con đường, biện pháp đấu tranh khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực
của tín ngưõng, tơn giáo một cách khoa học và cách mạng. Từ thực tiễn lịch
sử và trên cơ sở luận giải bản chất, chức năng, vai trị của tơn giáo, chủ nghĩa
Mác - Lênin đã đi đến kết luận: Con người khơng có một lối thốt nào khác...


5
là khắc phục một cách căn bản tất cả mọi quan niệm tôn giáo và quay trở về
một cách kiên quyết, thành thực không phải với Thượng đế mà với bản chất
của mình. Nhưng C.Mác và Ph.Ẳngghen, V.I.Lênin lại kiên quyết đấu tranh
với những quần điểm cực đoan, siêu hình muốn tun chiến với tơn giáo,
dùng bạo lực hành chính để xố bỏ tơn giáo. Các ơng ln luồn địi hỏi những
người cộng sản phải thật sự “bình tĩnh, kiên trì và nhẫn nại” trong cuộc đấu
tranh chống những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng, tơn giáo phải gắn cuộc
đấu tranh chống những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo với cuộc đấu tranh
giai cấp và không bao giờ được đưa vấn đề tôn giáo lên hàng đầu của cuộc
đấu tranh. Trong cuộc đấu tranh chống những ảnh hưởng tiêu cực của tơn
giáo, V.I.Lênin địi hỏi phải tun truyền tư tưởng đoàn kết và đưa khoa học
vào trong cuộc đấu tranh ấy.
Những quan điểm tư tưởng trên đây của chủ nghĩa Mác - Lênin về tín
ngưỡng, tơn giáo là cơ sở để chúng ta luận giải thực chất quan điểm “Tín
ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân”. Thừa nhận tính tất
yếu và khả năng tồn tại lâu dài của tơn giáo trong q trình xây dựng chủ

nghĩa xã hội là sự phát triển nhận thức mang tính đột phá về tơn giáo của
Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
1.1.3. Những nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết tơn giáo
Đồn kết tơn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh là chúng ta phải tạo ra
được lực lượng tiến bộ trong các tôn giáo, đồng thời chống lại các hoạt động
phản động lợi dụng tôn giáo, cô lập bọn phản động, làm thất bại mọi hoạt
động của bọn tay sai, đế quốc; làm cho Giáo hội Việt Nam ngày càng tiến bộ
hơn, có tinh thần dân tộc, yêu nước, u hịa bình và đồn kết dân tộc hơn.
Từ mục tiêu cách mạng Việt Nam, tư tưởng đoàn kết tơn giáo của Hồ
Chí Minh nhằm phát huy sức mạnh của đồng bào các tôn giáo, các dân tộc ở
nước ta dốc lòng với sự nghiệp cách mạng chung của Đảng.
Đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo khác nhau về
quan niệm tâm linh, đức tin và hoạt động theo những thể chế và thiết chế văn


6
hóa - xã hội khác nhau. Nhưng dưới ách thống trị của thực dân và đế quốc, họ
đều bị bóc lột và bị chia rẽ sâu sắc. Chính sách "chia để trị" của thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng đã để lại hậu quả nghiêm trọng,
làm suy yếu khối đoàn kết cộng đồng, trong đó có vấn đề đồn kết tơn giáo.
Nhận rõ ý nghĩa của vấn đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đồn kết giữa
đồng bào theo tơn giáo và đồng bào khơng theo tơn giáo, đồn kết lương, giáo
là vấn đề trọng tâm, hệ trọng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồn kết lương, giáo có cơ sở và điều kiện
thực tế để thực hiện, bởi lẽ đồng bào lương cũng như đồng bào giáo đều có
chung một cội nguồn sâu xa từ truyền thống có lịch sử gắn bó lâu đời.
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết: "Hỡi đồng bào!", chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông,
đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.

Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước" 1.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy sức mạnh lịng u nước, phát huy lòng dũng
cảm và tinh thần hy sinh tiềm ẩn trong mỗi người dân Việt Nam để đoàn kết,
tập hợp họ lại thành một khối thống nhất không phân biệt Bắc - Nam, giàu
nghèo, dân tộc, tôn giáo để cùng nhau đứng lên cứu nước.
Người ln coi đồn kết lương, giáo là một nhiệm vụ cách mạng. Người
khẳng định trước quốc dân, đồng bào, đoàn kết tức là lực lượng, chia rẽ tức là
yếu hèn. Cho nên, Người luôn ln nhắc nhở, kêu gọi đồng bào lương, giáo
phải đồn kết, đồng tâm, hiệp sức, sát cánh bên nhau để đánh thắng thực dân
xâm lược. Người từng xác định, đồng bào ta, cơng giáo và ngồi cơng giáo
đều đồn kết chặt chẽ, nhất trí đồng tâm như con một nhà, ra sức đấu tranh để
giữ gìn nền độc lập của Tổ quốc! Ngồi sa trường thì xương máu của chiến sĩ
cơng giáo và ngồi cơng giáo đã xây nên một bức thành kiên cố vĩ đại để cản
lại kẻ thù chung là bọn thực dân. Ở khắp nước thì đồng bào công giáo và


7
ngồi cơng giáo đương đem cả lực lượng giúp vào cuộc kháng chiến kiến
quốc.
Người cho rằng, trong bản chất các tơn giáo đều có cùng mục đích vì
con người. Với những lời văn mộc mạc, chân thành có sức thuyết phục lịng
người, khi nói về các vị sáng lập ra các tơn giáo, Hồ Chí Minh viết:
"Chúa Giê-su dạy: đạo đức là bác ái
Phật Thích Ca dạy: đạo đức là từ bi
Khổng Tử dạy: đạo đức là nhân nghĩa"
"Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức
cá nhân. Tơn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lịng nhân ái cao cả...".
Mục đích của các tôn giáo là hướng tới mục tiêu giải phóng con người,
mong muốn cho con người có cuộc sống chí thiện, chí mỹ, tự do, dân chủ, bác

ái cao cả, mở lịng nhân từ... Đó chính là chiều sâu bản chất nhân văn của các
tôn giáo, là cơ sở để Người đập tan luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của kẻ
thù nhằm chia rẽ đồn kết giữa người có đạo và khơng có đạo. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói, mục đích của Chính phủ ta theo đuổi là chiến đấu vì nền độc
lập và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Song để đạt tới hạnh phúc đó cho mọi
người, cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu Đức Giêsu sinh ra vào thời
đại chúng ta và phải đặt mình trước những nỗi khổ đau của người đương thời,
chắc Ngài sẽ là một người xã hội chủ nghĩa đi tìm đường cứu khổ lồi người.
Đồn kết các tơn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đồn kết trên cơ sở
tương thân, tương ái giữa các bên cùng có lợi. Lợi ích cao cả của sự đồn kết
các tôn giáo là hướng tới phục vụ Tổ quốc, phụng sự tơn giáo. Đồn kết
khơng làm suy giảm mà cịn làm cho bản thân mỗi tơn giáo mạnh lên, có được
vị trí xứng đáng trong khối đại đồn kết chung của cộng đồng toàn dân tộc.
Như vậy, đoàn kết giữa các tơn giáo vừa đáp ứng lợi ích, nhu cầu của đất
nước, dân tộc, vừa phù hợp với lợi ích của mỗi tơn giáo, tạo cho nó những cơ
hội và điều kiện phát triển tốt hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết một


8
cách nhuần nhuyễn, vững vàng, có tính ngun tắc vấn đề về phép biện chứng
giữa cái chung và cái riêng, lợi ích cục bộ và lợi ích tồn cục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến đồng bào theo các
tôn giáo khác nhau, tạo điều kiện cho họ hịa nhập vào cộng đồng, góp phần
vào sự nghiệp chung của cả dân tộc.
Người ln thổi luồng sinh khí mới vào lịng u nước kính Chúa, tơn
thờ đức Phật tổ của các tín đồ, khơi dậy lịng nhiệt tình cách mạng, xóa bỏ
những mặc cảm nghi kị, hiềm khích giữa các tôn giáo để cùng cộng sinh,
cộng hưởng; cộng đồng trách nhiệm trước vận mệnh chung của đất nước.
Người đã chủ trương giúp đỡ các tôn giáo lập ra các tổ chức yêu nước để phát
huy nội lực đoàn kết yêu nước của họ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm thường xuyên đến đồng bào các tôn
giáo và chăm lo lợi ích cho mọi người. Điều Người quan tâm trước hết là lợi
ích vật chất để cho dân đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở, được học hành. Người chú
trọng đến đời sống văn hóa, đời sống tinh thần của đồng bào các tôn giáo. Sự
quan tâm sâu sắc của Người là nguồn động viên to lớn đối với đồng bào,
nhằm khuyến khích đồng bào đồn kết chặt chẽ hơn nữa trong sự nghiệp
kháng chiến cứu nước giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.
Để củng cố và tăng cường đồn kết giữa đồng bào các tơn giáo khác
nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng giáo dục đồng bào nêu cao cảnh giác,
phát hiện kịp thời và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và làm thất bại âm mưu,
hành động của kẻ thù lợi dụng tôn giáo hịng chia rẽ đồn kết giữa các tơn
giáo. Cuộc đấu tranh chống âm mưu chia rẽ tôn giáo của kẻ thù cần gắn liền
với cuộc đấu tranh chống mưu đồ chia cắt đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Phải ra sức tuyên truyền chính sách
của ta và vạch rõ chính sách chia rẽ của kẻ thù "dùng người Việt đánh người
Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Người khẳng định, phần lớn đồng bào
tôn giáo, nhất là các tầng lớp lao động đều yêu nước kháng chiến, như Công
giáo ở nhiều nơi, như Cao Đài kháng chiến, v.v.. Một phần bị địch lợi dụng
như ngụy quân Cao Đài, Hồ Hảo, Cơng giáo ở Nam Bộ. Một số đồng bào


9
Cơng giáo tuy bản chất thì tốt, nhưng bị bọn cầm đầu phản động lung lạc, nên
họ hồi nghi chính sách của Đảng và Chính phủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ nguyên nhân phát sinh các mâu thuẫn rắc
rối liên quan đến các tôn giáo, làm ảnh hưởng đến sự đồn kết tơn giáo, một
phần do thủ đoạn chia rẽ của địch. Mặt khác, vì ta chưa có phương pháp thích
hợp để vận động đồng bào tơn giáo, chưa thực hiện đúng đường lối đại đoàn
kết của Đảng. Người đã thẳng thắn phê bình những yếu kém trong đội ngũ
cán bộ thực hiện chính sách tơn giáo. Có những cán bộ khơng biết tổ chức,

khơng biết giải thích tun truyền, lại tự tư tự lợi, không cảnh giác để cho bọn
phản động chui vào các đoàn thể để phá hoại. Trong khi thực hiện công tác
tôn giáo của Đảng, nhất là ở vùng đồng bào Công giáo, cán bộ chưa hiểu rõ
chính sách của Đảng và Chính phủ; chưa gần gũi học hỏi quần chúng; chưa
hiểu được phong tục tập quán của quần chúng nên đã dẫn tới hậu quả khơng
tốt: "Khơng những dân ghét bỏ, mà cịn ốn Chính phủ, ốn Đảng".
Để khắc phục những thiếu sót trong cơng tác vận động quần chúng có
đạo nhằm tăng cường sự đồn kết giữa các tơn giáo vì sự nghiệp chung của
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói với cán bộ làm cơng tác
mặt trận, phải kết hợp giữa công tác tuyên truyền vận động và việc đem lại
kết quả thiết thực cho đồng bào.
1.2. Đặc điểm của tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam
Một là, Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tơn giáo.
Việt Nam là một đất nước tuy đất không rộng, người khơng đơng,
nhưng đã và đang tồn tại nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau. Ở
Việt Nam có thể tìm thấy tất cả các hình thức tín ngưỡng ngun thủy dã từng
có mặt trên thế giới như: Tơ tem giáo, Bái vật giáo, Ma thuật giáo, Vật linh
giáo, Sa man giáo. Những hình thức tín ngưỡng tơn giáo ngun thủy này ở
Việt Nam thể hiện hết sức phong phú và rộng khắp. Ở Việt Nam vùng nào
cũng có đền thờ những vị anh hùng dân tộc, những người có cơng với dân với
nước. Trong phạm vi dân tộc có đền Hùng, đền những người anh hùng có


10
công đánh giặc giữ nước và cứu nước như đền thờ Lý Thường Kiệt, đền thờ
Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn, đền thờ Lê Lợi, Nguyễn Trãi... Trong từng
làng, xã thờ thành hồng làng, trong dịng họ thờ ơng bà, tổ tiên, những người
đã khuất. Ngoài ra trong xã hội cồn tồn tại rất nhiều các hình thức tín ngưỡng
khác nữa. Ví dụ, các đối tượng của tự nhiên cũng đước sùng bái thần thánh để
thờ, cay đa, cây gạo, hịn đá, khúc sơng… cũng có thể trở thành vật linh

thiêng. Có lẽ người Việt Nam ai cũng biết những câu như “thần cây đa ma
cây đề”, rồi “sơn thần”, “thủy thần”, “bà chúa thượng ngàn”…
Bên cạnh các hình thức tín ngưỡng tơn giáo đa dạng, phong phú, ở Việt
Nam cịn tồn tại nhiều tơn giáo với tư cách là tơn giáo. Trong số các tơn giáo
này có các tơn giáo là tôn giáo lớn thế giới được du nhập vào Việt nam nước
ta với những thời gian khác nhau. Chẳng hạn Phật giáo từ Ấn Độ được du
nhập vào nước ta khoảng thế kỷ thứ hai sau công nguyên, Khổng giáo, Đạo
giáo từ Trung Quốc được truyền vào nước ta cũng rất sớm, đạo Thiên chúa từ
Phương Tây đến, Hồi giáo, dù là Chăm Bàni hay Chăm Ixlam thì cũng không
phải gốc Chăm, mà đến Việt Nam theo con đường thông qua Người Ấn Độ và
Người Mã Lai. Bên cạnh những tơn giáo ngoại nhập, ở Việt Nam cịn có các
tơn giáo nội sinh, tức là các tơn giáo này được hình thành từ chính mảnh đất
Việt Nam, đó là Đạo Cao Đài và Đạo Hòa Hảo, ra đời vào những năm đầu của
thế kỷ XX.
Hai là, tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt nam mang tính quần chúng phổ
biến, nhưng chủ yếu ở cấp độ tâm lý tôn giáo.
Ở Việt Nam, khơng chỉ những tín đồ tơn giáo, mà một bộ phận khơng
nhỏ quần chúng nhân dân có những tình cảm, tâm trạng, niềm tin gắn với tín
ngưỡng mang tính chất tơn giáo, mặc dù trong thực tế họ khơng theo tơn giáo
nào. Tín ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam mang tính phổ biến như thế, song chủ
yếu ở cấp độ tâm lý. Nhiều tín đồ tơn giáo tuy khá sùng đạo nhưng hiểu giáo
lý rất ít, thậm chí ra nhập vào hàng ngũ tín đồ chỉ là do sự xác tín, do sự lan
truyền tâm lý, hoặc do một sự vận động lơi kéo nào đó. Khơng mấy phật tử


11
hiểu rõ, hiểu đúng nội dung “quy y tam bảo”, “giải thoát” và những tư tưởng
cơ bản khác của nhà Phật, không nhiều con chiên hiểu được thực chất các “bí
tích” và tư tưởng chính của kinh “Cựu ước” và “Tân ước”, ngoài những điều
tiếp nhận được qua sự truyền giảng của linh mục.

Đối với một bộ phận khá lớn quần chúng nhân dân, tôn giáo chủ yếu
thuộc về lĩnh vực tình cảm, đó là niềm tin mang tính chất truyền thống. Nó
như là một cái gì tự nhiên, như một bộ phận tiềm ẩn của tâm linh, một sự
nương tựa, một hy vọng giải thốt. Nó như một màn sương mờ ảo bao phủ
đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt Nam.
Với nội dung như vậy, cần đưa vào khi trình bày đặc điểm cơ bản của
tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, bởi lẽ đặc điểm này nói nên phạm vi và trình
độ tác động của tín ngưỡng tơn giáo đối với xã hội.
Ba là, tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam mang tính chất đan xen, hoà
đồng.
Khác với Phương Tây và nhiều nước khác, ở Việt Nam khơng có tơn
giáo nào thống trị suốt chiều dài lịch sử, mà vị trí, vai trị của từng tôn giáo
cũng biến động qua các thời đại cùng với sự biến động của lịch sử. Như trên
đã thấy, Việt Nam nhiều hình thức tín ngưỡng tơn giáo tồn tại, thậm chí có
những tơn giáo cóa giáo lý, lễ nghi, cơ cấu tổ chức… khác nhau, nhưng hàng
trăm năm qua về cơ bản khơng có sự kỳ dị tơn giáo, càng khơng có sự xung
đột vì lý do dị biệt tơn giáo, mà các tơn giáo cùng tồn tại hịa bình bên cạnh
nhau, hịa hợp với nhau cùng tồn tại. Thực tế cho thấy ở nhiều làng quê Việt
Nam chùa là nơi thờ Phật và nhà thờ là nơi thờ chúa trời của đạo thiên chúa
tồn tại bên cạnh nhau, ngày Phật Đản, ngày Nôen là ngày vui chung của cả
“lương và giáo”. Trong một khơng gian có thể cùng hiện diện của nhiều tôn
giáo như: chùa, nhà thờ, miếu, am, thánh thất …
Trong lịch sử, có những cuộc tranh luận trên bóa chí hoặc dưới hình
thức này hay hình thức khác xung quanh giáo lý của Phật giáo và Thiên chúa
giáo vào những năm 30 của thế kỷ XX, nhưng khơng vì thế mà sự dị biệt tơn
giáo trở thành lý do để kỳ thị hay khinh miệt nhau. Hoặc ở một số thời điểm


12
lịch sử, giữa các tôn giáo cũng xảy ra sự bất hòa ở một số nơi, nhưng chỉ xảy

ra trong phạm vi hẹp và xung đột không lớn. Những sự xung đột này thực
chất không phải từ lý do tôn giáo, mà do âm mưu của bọn thực dân xâm lược,
chúng muốn chia rẽ khối cộng đồng dân tộc để làm yếu lực lượng cách mạng.
Tính chất đan xen, hịa đồng của tín ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam thể
hiện khá phong phú đa dạng và khá độc đáo. Đó là sự đan xen hịa đồng giữa
các tơn giáo với tính cách là tơn giáo với các tín ngưỡng dân gian, tơn giáo
ngun thủy. Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong các ngôi chùa của Việt
Nam. Chùa dúng ra là nơi thờ Phật, nhưng ở Việt Nam trên bàn thờ Phật
ngồi Phật cịn thờ cả các thần tự nhiên, các thần thánh trong tín ngưỡng đân
gian như: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi… Ngay cả, Thiên chúa giáo, Hồi
giáo là những tôn giáo độc thần, trong quan niệm của họ chỉ thờ chúa trời, thờ
thánh Ala, nếu thờ các thánh thần khác bị coi là tà đạo, thì ở Việt Nam tìn đồ
của đạo Thiên chúa và đạo Hồi cịn thờ cả ơng bà tổ tiên, một hình thức tín
ngưỡng phổ biến.
Như vậy, ở Việt Nam khơng có tơn giáo nào có giáo lý cứng nhắc và
cũng khơng có tơn giáo nào giữ vị trí thống trị trong suốt chiều dài lịch sử.
Trên thực tế, thế giới quan, nhân sinh quan của các tôn giáo không những
không thống nhất mà còn mâu thuẫn nhau, nhưng chung sống hòa bình bên
nhau, đan xen, hịa đồng, bổ sung, nương dựa, xâm nhập vào nhau, tạo nên
diện mạo khá độc đáo của bức tranh tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam.
Bốn là, tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt nam mang tính ưu trội yếu tố nữ.
Ở nước ta, hình tượng người phụ nữ xâm nhập và nổi bật trong tất cả
các hình thức tơn giáo. Điều đó phản ánh tình cảm và sự đánh giá cơng bằng
của nhân dân về vai trị của người phụ nữ trong xã hội. Tính ưu trội yếu tố nữ
trong tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam thể hiện rất đa dạng. Nó thể hiện trước
hết trong tín ngưỡng thờ mẫu. Tín ngưỡng thờ mẫulà hình thức tín ngưỡng
khá phổ biến trong hệ thống tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam. Dọc chiều dài đất
nước đền thờ mẫu nơi nào cũng có, với các hình thức rất đa dạng. Có mẫu là
thần thiên nhiên như: “Linh sơn thánh mẫu”, “Thánh mẫu thoải phủ”, “Thánh



13
mẫu thượng ngàn”, “Địa mẫu”, có mẫu là nhân thần, có mẫu là nhân vật có
thật, lại có mẫu là nhân vật huyền thoại.
Tính ưu trội yếu tố nữ trong tín ngưỡng tơn giáo Việt Nam cịn thể hiện
trong hệ thống thần thánh cũng là nữ và trong quan niệm về các phương thức
thờ cúngcủa các tôn giáo. Chúng ta biết rằng, trong hệ thống các thần thánh
trong các tín ngưỡng tôn giáo yếu tố nữ chiếm số lượng và giữ vai trò khá
quan trọng. Chẳng hạn các thần thiên nhiên chủ yếu là nữ như bà chúa dâu, bà
chúa đậu, pháp Vân... Trong các tôn giáo lớn cũng vậy.
Trên đây là những đặc điểm của tín ngưỡng tơn giáo ở Việt nam theo
chúng tôi là cơ bản nhất. Mỗi đặc điểm phản ánh một mặt, một khía cạnh của
tín ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam, trong đó đặc điểm một và hai nói lên tính đa
dạng, phạm vi, mức độ tác động của tín ngưỡng tơn giáo trong đời sống tinh
thần xã hội ta, dặc điểm thứ ba nói lên tính phức tạp, cịn đặc điểm thứ tư nói
lên tính đặc thù của tín ngưỡng tơn giáo ở nước ta. Tổng hợp tất cả những đặc
điểm ấy cho thấy bức tranh tín ngưỡng tơn giáo ở Việt Nam mang sắc thái đặc
thù riêng của nó.
II. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải quyết vấn đề tín
ngưỡng tơn giáo và đồn kết tơn giáo trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tín ngưỡng, tơn giáo và
giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo
Năm 1986, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng đánh dấu
bước khởi đầu sự nghiệp đổi mối toàn diện đất nước, nhưng do nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân là: “So với đổi mới tư duy kinh tế, việc đổi
mới tư duy về các vấn để văn hoá và xã hội, về cơ chế quản lý văn hố, xã
hội... cịn chậm” [3, tr.114], nên mãi tới năm 1990 chúng ta mới có Nghị
quyết số 24-NQ/TW ngày 16-10-1990 của Bộ Ghính trị về tăng cường cơng
tác tơn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết có nhiều nội dung, một trong

những nội dung đó là việc Đảng ta khẳng định: “Tôn giáo là vấn để cịn tồn
tại lâu dài. Tín ngưởng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân


14
dân, Sau 13 năm thực hiện, kế thừa tinh thần ấy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương khố IX khẳng định: Tín ngưỡng, tơn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan điểm trên chỉ rõ
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta việc tồn tại của tín
ngưỡng, tơn giáo là một thực tế khách quan. Nó là nhu cầu tinh thần phức tạp,
tồn tại thật trong một bộ phận quần chúng nhân dân. Tôn trọng và đáp ứng
nhu cầu này là tôn trọng quyền con người là tạo nên động lực của một bộ
phận nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Khẳng định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trinh xây dựng chủ nghĩa xã hội là
một đột phá lốn trong nhận thức về tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta trong thời
kỳ đổi mới. Nó góp phần đấu tranh khắc phục tư tưởng coi tôn giáo chỉ như
một hiện tượng tàn dư, còn rơi rớt lại từ các xã hội cũ, cần nhanh chóng loại
bỏ càng sớm càng tốt, hoặc quan niệm coi tôn giáo là sản phẩm chủ yếu từ các
hoạt động chống phá của kẻ thù, dẫn đến nóng vội chủ quan duy tâm, duy ý chí
trong cơng tác tơn giáo của khơng ít cán bộ, đảng viên hiện nay. Đây sẽ là cơ sở
nền tảng để hình thành, phát triển các quan điểm, giải pháp mới về tôn giáo vầ
công tác tôn giáo.
Trong thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta xem xét, đánh giá tín ngưỡng,
tơn giáo tồn diện, lích sử, cụ thể hơn.
Xem xét tơn giáo một cách toàn diện, trong mối quan hệ phong phú đa
dạng của nó với các lĩnh vực khác của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội làm cơ sở xác định quan điểm, chính sách đối với tơn giáo là một truyền

thống của Đảng, Nhà nước ta. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta tiếp
tục coi trọng xem xét, đánh giá tôn giáo trong sự thống nhất biện chứng giữa
ý thức tôn giáo, tổ chức tôn giáo và các hoạt động tôn giáo. Bằng tổ chức,
hoạt động tôn giáo và thông qua tổ chức, hoạt động tôn giáo mà sức mạnh và


15
vai trị của tơn giáo đối với xã hội và con người được thực hiện. Vì thế, các
“hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo phải bảo đảm an tồn, tiết kiệm, phù hợp với
truyền thơng, bản sắc văn hố dân tộc, giữ gìn, bảo vệ mơi trường” [8, tr.114]
và có mục tiêu, phương hướng, nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tơn
giáo trong khối đại đồn kết tồn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời khẳng định Mọi hoạt
động tôn giáo xa rời hoặc trái với mục tiêu, phương hướng ấy cần được đấu
tranh, phê phán, thậm chí phải kiên quyết “đình chỉ”. Đây là một căn cứ cơ
bản để xây dựng các văn bản pháp luật quản lý, điều chỉnh các hoạt động tôn
giáo và là tiêu chí quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của cơng tác tơn
giáo trong thời kỳ mới. Cho nên, có thể coi đây là một trong những nội dung
quan trọng nhất, thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng, Nhà nước ta về tôn
giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đảng, Nhà nước ta từng bước khẳng định những “hạt” tích cực trong
đạo đức, văn hố, cộng đồng tơn giáo và tạo điều kiện giữ gìn, phát huy
những giá trị tích cực ấy vào xây dưng xã hội mới.
Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, trong Nghị quyết số 24/NQ- TW của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khố VI, Đảng ta đã nhận định: “Đạo
đức tơn giáo có nhiều điều phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới” [3,
tr.45]. Và tiếp theo các kỳ Đại hội, cho đến Đại hội X và Đại hội XI, Đảng ta
chỉ rõ: “Tơn trọng và phát huy vai trị gương mẫu, dẫn dắt của những người

tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tơn giáo”, “Phát
huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo” [4, tr.45], đến
Đại hội XIII Đảng ta tiếp tục khẳng định: Xây dựng nếp sống văn hoá tiến bộ,
văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu
quả các cuộc vận động văn hố, phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời
sống văn hố” [5, tr.11]. Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn


16
hố giữa thành thị và nơng thơn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội.
Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hố tơn giáo, tín ngưỡng.
2.2. Một số giải pháp cơ bản thực hiện đồn kết tơn giáo ở Việt Nam hiện
nay theo tư tưởng Hồ chí Minh
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tơn giáo, trong đó, các tơn giáo lớn
trên thế giới như: Thiên chúa giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Tin lành đều có mặt ở
Việt Nam. Bên cạnh đó cịn có một số tơn giáo ra đời trong lịng dân tộc như:
đạo Cao đài, đạo Hoà hảo... cũng xuất hiện khá sớm càng làm cho "bức tranh"
tôn giáo ở nước ta đa dạng nhiều mầu sắc. Đồng bào theo tôn giáo chiếm số
lượng khá đông (khoảng 19,4% dân số cả nước). Đại đa số đồng bào có đạo là
người lao động, ln "đồng hành" cùng dân tộc và có nhiều cơng lao đóng
góp trong cách mạng giải phóng dân tộc trước đây, cũng như sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN ngày nay. Tuy nhiên, tôn giáo là một lĩnh vực
tinh tế và nhạy cảm trong đời sống xã hội, các thế lực thù địch luôn lợi dụng
tôn giáo để chống phá CNXH và thực tiễn chứng minh rằng kẻ thù chưa khi
nào từ bỏ lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Trong chiến
lược "diễn biến hồ bình" của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước
ta, chúng luôn sử dụng vấn đề "dân tộc, tôn giáo" để gây mất ổn định chính
trị, chia rẽ đồn kết dân tộc, đồn kết tơn giáo, hòng làm suy yếu và tiến tới
lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam.
Để góp phần vận dụng và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết

tơn giáo trong thực hiện chính sách tơn giáo ở Việt Nam hiện nay, theo tôi cần
thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về
tơn giáo, giáo dục lịng u nước, truyền thống dân tộc và các giá trị văn hoá
tốt đẹp của đất nước.
Đây là giải pháp có vai trị quan trọng để nâng cao nhận thức, trình độ
hiểu biết cho nhân dân, là cơ sở quan trọng để nhân dân hiểu rõ hơn về nguồn
gốc, bản chất của tôn giáo, trên cơ sở đó có hành động đúng đắn, phù hợp.


17
Thơng qua cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, góp phần định hướng nhận
thức cho nhân dân, giúp nhân dân hiểu được giá trị, vị trí to lớn của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội nước ta. Đặc biệt,
phải hết sức coi trọng tuyên truyền giáo dục đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước về tơn giáo để nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng và thực
hiện tốt, tạo niềm tin của nhân dân không phân biệt tôn giáo vào sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là, phát huy vai trị, trách nhiệm của hệ thống chính trị để thực hiện
tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.
Đây là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết tơn giáo ở Việt Nam. Bởi vì, tổ chức
và vận động nhân dân thực hiện đồn kết tơn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh
phụ thuộc trước hết vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và vai
trị, trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội trong tồn bộ hệ thống
chính trị các cấp. Đảng, Nhà nước ta luôn bám sát thực tiễn đất nước, kịp thời
đề ra những chủ trương, biện pháp thích hợp để thực hiện chiến lược đại đồn
kết tồn dân tộc, đồn kết tơn giáo... nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
của cách mạng.

Sau hơn 35 năm đổi mới, những chủ trương, biện pháp đúng đắn, kịp
thời của Đảng, Nhà nước về cơng tác tơn giáo đã có ý nghĩa quyết định tới
việc củng cố khối đại đoàn kết tồn dân tộc, đồn kết tơn giáo, củng cố niềm
tin của đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo vào đường lối
đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Tư tưởng đoàn kết tơn giáo, đại
đồn kết tồn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được tồn Đảng, tồn dân
ta vận dụng, thể nghiệm thành những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt
Nam hơn nửa thế kỷ qua. Điều đó đã khẳng định tính đúng đắn và khoa học
của tư tưởng Hồ Chí Minh qua thực tiễn cách mạng.
Ba là, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, cải thiện và từng bước nâng
cao đời sống nhân dân, đặc biệt là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có
đơng đồng bào theo tôn giáo.


18
Đây là giải pháp cơ bản, vừa mang tính cấp bách trước mắt vừa mang
tính chiến lược lâu dài đối với cơng tác tơn giáo. Bởi vì, nước ta với hơn 2/3
dân số là nông dân, điều kiện kinh tế - xã hội tuy đã được cải thiện song cịn
khơng ít khó khăn. Đặc biệt trong đó đồng bào theo tôn giáo phần đông là
người lao động nghèo (chủ yếu là nơng dân) đời sống cịn nhiều khó khăn, thu
nhập thấp so với mặt bằng chung của toàn xã hội. Chỉ có ổn định và phát triển
kinh tế, xã hội, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, đưa ánh
sáng của Đảng đến với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng có đơng đồng bào theo tơn giáo thì mới là giải pháp hữu hiệu nhất, giúp
nhân dân cảnh giác với sự tuyên truyền xuyên tạc của kẻ thù, không bị thủ
đoạn truyền đạo trái phép lừa bịp.
Bốn là, ngăn chặn kịp thời và kiên quyết trừng trị những âm mưu hành
động lợi dụng tơn giáo để phá hoại khối đại đồn kết tồn dân.
Đảng, Nhà nước ta ln nhất qn: tơn trọng tự do tín ngưỡng tơn giáo
và tự do khơng tín ngưỡng tôn giáo của công dân, kiên quyết trừng trị các âm

mưu hành động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng của kẻ thù. Quan
điểm trên chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
tín ngưỡng tơn giáo nói chung, về đồn kết tơn giáo nói riêng trong hồn cảnh
lịch sử cụ thể của cách mạng nước ta hiện nay.
Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân,
cịn tồn tại lâu dài cùng với tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Đoàn kết tôn giáo là quan điểm, chủ trương xuyên suốt, là một chiến
lược cách mạng của Đảng nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
khơi dậy và phát huy những giá trị tích cực của mỗi tơn giáo để đóng góp vào
cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo mục tiêu: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".


19

KẾT LUẬN
Tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm. Vì vậy, việc đề
ra chính sách và thực hiện chính sách đối với tín ngưỡng, tơn giáo là vấn đề
khó khăn, phức tạp, phải hết sức thận trọng. Do vậy, yêu cầu đặt ra là Đảng và
Nhà nước phải dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và căn cứ vào những đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam để đề ra các
chủ trương, chính sách đối với cơng tác tín ngưỡng, tơn giáo. Xác định rõ vai
trị của tôn giáo trong đời sống xã hội, thừa nhận tôn giáo là một hiện tượng
xã hội còn tồn tại lâu dài, đồng thời tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của
nhân dân. Những vấn đề tôn giáo cần gắn liền với quá trình vận động cách
mạng, cải biến xã hội và nâng cao nhận thức quần chúng. Đồng thời, để khắc
phục những yếu tố tiêu cực của tôn giáo, cần quan tâm đến cuộc đấu tranh
trên lĩnh vực tư tưởng, coi trọng tuyên truyền, vận động giáo dục thế giới
quan duy vật biện chứng, phương pháp luận khoa học cho quần chúng nhân
dân và các tín đồ. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động

quần chúng. Đồng bào có đạo hay khơng có đạo đều là cơng dân Việt Nam, có
quyền và nghĩa vụ bình đẳng như nhau trước pháp luật.
Đảng và Nhà nước ta ln thống nhất quan điểm “Tín ngưỡng, tơn
giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân”. Trong công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước Đảng coi đổi mới tư duy lý luận là khâu quan trọng. Trên tinh
thần đó, Đảng ta thực hiện đổi mới tư duy trong lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo;
đến nay, quan điểm, chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta
được phát triển, bổ sung phù hợp với tình hình đất nước và yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và P. Ăngnghen (1994), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc
gia - sự thật, Hà Nội.


20
2. C. Mác và P. Ăngnghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc
gia - sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Trung tâm ngôn ngữ học, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1994.
7. V.I Lênin (2005), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội.
8. Đặng Nghiêm Vạn, Lý luận về tôn giáo và tình hình tơn giáo ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, 2003.
9. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình tơn

giáo và tín ngưỡng, Dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị, Nxb Lý
luận chính trị. Hà Nội.



×