Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Ảnh hưởng Phật giáo đối với đời sống tinh thần người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.48 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Chủ đề:
Ảnh hưởng Phật giáo đối với đời sống tinh thần người Việt

Học viên:
Lớp HP: CH28AN3

Hà Nội, 06/2022


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC

MỤC LỤC ( Ghi số trang ở từng chương và đề mục lớn )
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1: Nguồn gốc Phật giáo và những quan điểm của triết học Phật giáo
I. Nguồn gốc lịch sử hình thành triết học Phật giáo
1. Bối cảnh kinh tế - xã hội Ấn Độ thời kỳ cổ đại
2. Nội dung triết học Phật giáo thời kỳ nguyên thủy
II. Những nội dung cơ bản của triết học Phật giáo
1. Quan điểm về thế giới quan triết học Phật giáo (Triết lý bản thể)
2. Quan điểm về nhân sinh quan triết học Phật giáo (Triết lý nhân sinh)
Chương II: Một số ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo đối với đời


sống tinh thần của người Việt
I. Qúa trình hình thành, con đường du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt
Nam
1.1. Con đường bộ - Phật giáo Trung Hoa
1.2. Con đường thủy - Phật giao Ấn độ
II.Những đặc điểm cơ bản của Phật giáo ở Việt Nam
2.1. Tính tổng hợp
2.2. Xu hướng hài hịa âm dương có phần thiên về nữ tính.
2.3. Tính hài hịa.
III. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần người Việt Nam
3.1. Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt tư tưởng
3.2. Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt đạo lý


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
3.3. Ảnh hưởng của Phật giáo về mặt phong tục tập quán
3.4. Ảnh hưởng của Phật giáo trong lĩnh vự văn hóa nghệ thuật
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần của từng con người,
của từng cộng đồng xã hội.Trong đó Phật giáo là một trào lưu triết học tơn giáo với
cái đích là cứu con người thốt khỏi nổi khổ. Nó xuất hiện cuối thế kỉ 6 trước công
nguyên ở Ấn Độ. Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo là đề cập đến việc lý giải
căn nguyên của nổi khổ và tìm con đường giải thốt con người khỏi nổi khổ triền
miên đó. Phật giáo khởi thủy ở Ấn Độ truyền đi khắp các xứ lân cận.Trước hết sang
các nước Trung Á rồi sang Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản và các nước miền Nam

Châu Á. Việt Nam cũng thuộc trong phạm vi ảnh hưởng ấy. Mỗi khi Phật giáo vào
nước nào tùy theo phong tục mỗi nước mà có sự phát triển khác nhau. Phật giáo
đến với người Việt Nam từ rất lâu đời, vào khoảng nửa cuối thế kỉ thứ I. Do bản
chất từ bi hỉ xã, đạo Phật đã nhanh chóng tìm được chỗ đứng và bám rể vững chắc
trên đất nước ta. Từ khi vào Việt Nam, Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống tinh thần của người Việt Nam. Vì các triết lý Phật giáo xuất phát từ tâm tư và
nguyện vọng của người lao động nên số người theo Phật tăng nhanh. Những ảnh
hưởng của tư tưởng Phật giáo ăn sâu vào đời sống của đại đa số người dân Việt
Nam không chỉ từ trong giai đoạn đầu của lịch sử dân tộc mà cịn ngay cả cuộc
sống ngày nay. Vì vậy việc tìm hiểu về Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đối
với đời sống tinh thần của người Việt Nam là hết sức cần thiết.


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC

CHƯƠNG I
NGUỒN GỐC, QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
Nguồn gốc lịch sử của Phật giáo: Là một đạo giáo hịa bình tràn đầy đức tính
từ bi, trí tuệ dũng cảm, bình đẳng, vơ ngã, vị tha… hiện nay Phật giáo lan khắp năm
châu bốn biển, không chỉ thu hẹp trong vùng Châu Á như trước đây. Nguồn gốc
Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ. Giáo chủ là Phật Thích Ca Mâu Ni.
I. Bối cảnh Ấn Độ thời Đức Phật
Vào thời cổ đại, Ấn Độ là nước đa thần giáo, chế độ mẫu hệ. Đến thời người
Aryan tràn vào xâm chiếm, xã hội Ấn Độ chia thành bốn giai cấp là Đạo sĩ (Bà La
Môn), Vua Quan (Sát Đế Lợi), Công Nông Thương (Phệ Xá) và Nơ lệ (Thủ đà la).
Gia đình chuyển thành phụ hệ. Về tư tưởng tôn giáo, dù nhiều đạo giáo vẫn tồn tại
nhưng giáo sĩ Bà la môn truyền bá tư tưởng nhất thần. Triết lý tôn giáo phủ nhận
vai trò của con người đối với cuộc đời và cả thế giới khách quan. Kết quả là sinh ra
hai xu hướng là trốn đời khổ hạnh hoặc xuôi theo dòng đời hưởng lạc thú vật chất.

Từ hai mặt xã hội và tôn giáo, người dân Ấn Độ mất niềm tin, mong ước có một vị
cứu tinh ra đời để xóa bỏ giai cấp bất cơng và ổn định tư tưởng tôn giáo, đem lại an
lạc hạnh phúc cho mọi người. Trong bối cảnh đó, đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời.
a. Thái tử Tất Đạt Đa: Ngoài bất công xã hội, tôn giáo phức tạp, đất nước Ấn
Độ chia thành nhiều nước nhỏ thường tranh chấp nhau chẳng khác thời chiến quốc
bên Trung Quốc, thời 12 sứ quân ở Việt Nam. Trong các nước đó, quốc gia giàu
mạnh nhất là Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), phía bắc Trung Ấn, nay là Pipsava, phía
nam nước Nepal. Nhà vua trị vì nước đó tên là Tịnh Phạn (Sudhodana). Vào năm
204 trước Cơng Ngun, hồng hậu MaDa (Maya) hạ sinh một hồng tử khơi ngơ
tuấn tú tại vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dước gốc cây Ưu Bát La thường
gọi là cây Vơ Ưu (Asokaa) có hoa với màu sắc rực rỡ. Thái tử có tên là Tất Đạt Đa.
Lớn lên, Thái tử văn võ song tồn, có vợ là công chúa Da Du Đà La (Yasodara),


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
con vua Thiện Giác. Cuộc sống Thái tử rất đầy đủ, không thiếu một thứ gì trên trần
gian.
b.Thái Tử Tất Đạt Đa xuất gia, tu hành và thành đạo: Trước bối cảnh xã hội
giai cấp, tư tưởng tơn giáo siêu hình, cuộc sống con người cậy mạnh hiếp yếu…
Năm 29 tuổi, Thái Tử đã thốt ngục vàng, đến bên dóng A Nơ Ma cắt tóc làm nhà
đạo sĩ. Sau thời gian học đạo 6 năm, Thái Tử thấy con người hưởng lạc sẽ bê tha
thối nát; còn tu khổ hạnh chỉ chuốc thêm khổ thân; chỉ có con đường trung đạo mới
mong thành chính quả. Bởi thế, Thái Tử đã bỏ năm anh em ông Kiều Trần Như,
dùng bát sữa của Tu Xá Đề (Sajata) xuống sông Ni Liên tắm rửa rồi lên thiền quán
dưới gốc cây Tất Bát La xứ Ba La Nại. Qua 49 ngày chiến đấu với nội ngoại ma,
Thái Tử đã chứng tam minh là Túc mạng minh,Thiên nhân minh, Lậu tân minh và
thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni năm 36 tuổi
c. Đức Phật giáo hóa và Niết Bàn: Thành Phật rồi, Đức Phật đến rừng nai xứ
Ba La Nai giáo hóa năm người bạn cùng tu khổ hạnh ngày trước cùng nhóm Kiều

Trần Như với phái Tứ đế Khắp vùng Ngũ Hà. Suốt 45 năm, đức Phật thuyết pháp
trên 300 hội, vào tận hang cùng ngõ hẻm một cách tận tụy và rộng rãi. Phật đã dừng
chân bên vệ đường xâu kim cho một bà già mù lịa; săn sóc, dọn dẹp ơ uế cho
người bệnh. Vì từ bi, bình đẳng, đức Phật đã nhận cái tát của em bé cúng dường,
nhận thức ăn dư thừa của một tiện nữ dâng cúng. Phật còn cho người dâm nữ vào
giáo hội. Với hiếu đạo, Phật đã đích thân khuân quan tài của vua Tịnh Phạn. Phật
đã giáo hóa không lúc nào ngừng nghỉ. Phật làm tất cả mọi việc dù là rất nhỏ… Tất
cả việc làm của Phật chỉ có mục đích duy nhất là bày trí kiến Phật cho chúng sinh.
Phật đến rừng SaLa vào Niết Bàn lúc nửa đêm dưới ánh trăng rằm tỏa rạng vào
năm 80 tuổi
II. Những quan điểm triết học của Phật giáo
Qua bao thăng trầm của lịch sử, mãi đến ngày nay, Phật giáo đã khơng những
vẫn tồn tại mà cịn được lan truyền khắp thế giới và được nhiều tầng lớp người tơn
kính, lưu tâm tìm hiểu. Được như thế, ngồi nhân cách của Đức Phật cịn nhờ giáo
lí, giáo luật, lễ nghi của Phật giáo.
1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan (Triết lý bản thể)


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
Quan điểm về thế giới quan về Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung của
ba cặp phạm trù: vô ngã, vô thường và Duyên.
- Vô ngã: cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do
một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố: “Sắc”
và “Danh”. Trong đó “Sắc” là yếu tố vật chất, có thể cảm giác được. Cịn “Danh” là
yếu tố tinh thần, khơng có hình chất mà chỉ co tên gọi “Danh” và “Sắc” hợp lại với
nhau tạo thành “Ngũ Uẩn” nào đó. Nhưng sự tồn tại của vật chất chỉ là tạm thời,
không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó, khơng có cái gọi là “Tơi”.
- Vơ thường: tức là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: sinh - trụ
- dị- diệt. Vậy thì có có, khơng khơng ln hồi bất tận, có đó rồi lại khơng, cái cịn

mà chẳng cịn, cái mất mà chẳng mất. Đức Phật dạy: “Cái gì có trong thế gian là
biến đổi, hư hại, là vơ thường. Vì vậy, vô thường nghĩa là không thường, không ở
mãi trong một trạng thái nhất định, ln ln thay đổi hình dạng, từ hình thành đến
biến đổi đến tan rã. Vơ thường là phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, bài trừ sự mê
lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục. Nó chưa phải là thuyết tuyệt đối. Vơ
thường là một định luật chi phối tất cả sự vật từ tâm đến hồng cảnh. Hiểu lí vơ
thường, con người dễ giữ được bình tỉnh, thản nhiên trước cảnh đổi thay bất
thường.
- Duyên: tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ, từ những cái vô
cùng nhỏ đến những cái vơ cùng lớn đều khơng thốt khỏi sự chi phối của nhân
duyên: cái nhân (hetu) nhờ có cái duyên (prattiya) mới sinh ra mà thành quả (phla).
Qủa lại do cái duyên mà thành ra nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành
ra quả mới… Cứ thế, nối tiếp nhau vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật, mn lồi
cứ sinh sinh hóa hóa mãi theo quy luật nhân quả. Nhân là cái mầm; quả là cái hạt,
cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương tựa
vào nhau. Khơng có nhân khơng thể có quả, khơng có quả thì khơng thể có nhân.
Nhân nào quả ấy. Con người do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bởi hai
thành phần: thể xác và tinh thần. Hai thành phần ấy là kết quả hợp tan của Ngũ
Uẩn. Hai thành phần tạo nên Ngũ Uẩn, do nhân duyên hợp thành. Mỗi con người
cụ thể có danh sắc (nâma-suna), Duyên hợp Ngũ Uẩn thì là ta, dun tan Ngũ Uẩn
thì khơng cịn ta, là diệt. Nhưng khơng phải là mất đi mà trở lại với Ngũ Uẩn. Ngay
các yếu tố của Ngũ Uẩn cũng ln biến hóa theo quy lt nhân quả không ngừng.


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
Cho nên, con người cứ biến hóa, vụt mất, vụt cịn, khơng có sự vật riêng biệt tồn tại
mãi mãi, khơng có cái tơi thượng đỉnh. Cái tơi hơm qua khơng cịn là cái tơi hơm
nay nữa. Vì khơng nhận thực được cái gọi là biến ảo (Maya),vô thường, vô định
của vạn vật mới là thường hằng và chân thực; không nhận thức được rằng: “cái tơi”

có mà khơng, khơng mà có, nên người ta lầm tưởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng
thường định, cái gì cũng là của ta, là ta, do ta nên con người cứ khát ái, tham dục,
hành động chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những ham muốn dục vọng đó, tạo những
kết quả, gây nghiệp báo (Karma), mắc vào bể khổ triền miên không dứt (Samsara). Đã mắc vào sự chi phối của quy luật nhân duyên là chịu nghiệp báo và kiếp
luân hồi. Đó là cách lý giải căn nguyên của nỗi khổ của con người Phật giáo.
2. Quan điểm của Phật Giáo về nhân sinh quan ( Triết lý nhân sinh)
a. Quan điểm của Phật Giáo về nghiệp: Nghiệp có nghĩa là hành động hay
việc làm. Tư tưởng, lời nói hay việc làm thường có ý muốn làm động cơ khởi
xướng. Phật giáo gọi ý muốn hay ý chí ấy là tác ý. Nghiệp báo là một định luật
nhân quả trong lĩnh vực luân lý hay như người Phương Tây gọi là “ảnh của hành
động”. Có vài ý kiến cho rằng, thuyết nghiệp báo là loại xoa dịu, ru ngủ những con
người xấu số. Nhưng đức Phật không hề dạy thế, thuyết nghiệp báo trong đức Phật
cũng không bao giờ chấp nhận một cuộc sống phán sử sau kiếp sống. Theo lý
nghiệp báo, chúng ta không nhất thiết bị trói buộc trong một hồn cảnh nào vì
nghiệp báo khơng phải là số mệnh cũng khơng phải là tiền định do một ma lực
huyền bí đã định đoạt cho ta một cách bất khả kháng. Chúng ta có đủ năng lực để
chuyển phần nào cái nghiệp của chúng ta theo ý muốn.
b.Quan điểm của Phật Giáo về “Tứ diệu đế”: Nội dung của triết lý nhân sinh
của Phật giáo được thể hiện trong thuyết “Tứ diệu đế” mà Phật giáo coi là bốn chân
lý vĩ đại. Thông điệp “Tứ diệu đế” gồm hai mặt: Nhận thức và hành động. Đó là
bốn chân lý huyền diệu, chắc chắn, hiển nhiên, bao gồm:
- Khổ đế (Dukkha): Là chân lý về bản chất của nỗi khổ. Theo đạo Phật, thực
tại nhân sinh là khổ ải; ngoài nỗi khổ do sinh, lão, bệnh, tử gây nên cho con người
cịn có nỗi khổ vì khơng ưa mà hợp là khổ, ưa mà phải lìa là khổ, mong khơng
được cũng khổ, được cũng khổ mà mất cũng khổ. Đời là bể khổ.


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
- Tập đế (Samarudays): Là chân lý về nguyên nhân của nỗi khổ. Con người

trong thế giới hiện thực này khổ là vì đâu? Ngun nhân trực tiếp là do con người
có lịng tham, sân, si. Con người muốn còn mãi nhưng thực tại cứ biến dịch và thay
đổi, muốn trường tồn nhưng thực tại ln biến hóa trong vịng sinh, lão, bệnh, tử;
khơng có cái gì thực là ta, của ta. Do đó đã tạo nên cho con người những nỗi khổ
triền miên trong cuộc đời. Để giải thích cho căn nguyên ấy, đức Phật đã nêu ra
thuyết “Thập nhị nhân duyên” gồm: Vô minh (avidya), Hành (Samskara), Thức
(Vijnâna), Danh sắc (nâmarupa) Lục căn (Sandagatana), Xúc(Sparacs), Thụ
(vecsdana), Ái (Trisna), Thủ (Upadana), Hữu (bhava), Sinh (Jatri), Lão tử (janamarana).
- Diệt đế (Nirodha): Là chân lý diệt khổ. Nổi khổ sẽ được tiêu diệt khi
nguyên nhân gây ra khổ bị loại trừ. Lần theo thập nhị nhân duyên, tìm ra cội nguồn
của nỗi khổ và ái dục, dứt bỏ từ ngọn nguồn cho đến gốc mọi nguồn gốc đau khổ
đưa chúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng, ln hồi, đạt đến cảnh trí Niết bàn
(Nirvana). Đó là thế giới lý tưởng của sự giác ngộ và giải thốt. Trạng thái Niết
bàn, Thường trụ, Chính quả khơng thể lý giải được mà là tự mình giác ngộ. Mục
đích của Phật tử là thực hiện Niết bàn, khi đang tu dưỡng là thực hiện Niết bàn từng
phần, khi giác ngộ rồi là thực hiện được Niết bàn toàn phần, trở thành Phật.
- Đạo đế (Marga): là chân lý chỉ ra con đường diệt khổ, nói về những con
đường, cách thức để con người đạt đến trạng thái Niết bàn. Con đường diệt khổ,
giải thốt và giác ngộ địi hỏi phải rèn luyện đạo đức, rèn luyện tư tưởng và khai
sáng trí tuệ. Ba mơn học này được cụ thể hóa trong khái niệm “Bát chánh đạo”
(tám con đường chân chính), đó là;
+ Chính kiến (samyak-dristi): hiểu biết đúng đắn,kiến giải chính xác.
+ Chính tư duy (samyak-samkalpa): suy nghĩ đúng đắn.
+ Chính nghiệp (samyak-karmata): hành động chân chính, thực hện ngũ giới
(không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, khơng uống rượu, khơng nói dối)
+ Chính ngữ (samyak-vaca): lời nói chân chính, trung thực.
+ Chính mệnh (samyak-samadhi): kiên định, tập trung vào con đường chân
chính, khơng để bất cứ điều gì làm lay chuyển, phân tâm.



ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
Trong tám nẻo đường này thì chính kiến, chính tư duy thuộc về trí tuệ
(panna); chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh thuộc về Định (samadhi). Đạo Phật
còn đề ra những phương pháp trên con đường thực hành tu nghiệp là: “Ngũ giới”
và “Lục độ” (sáu phép tu)…Trong những giai đoạn đầu với vũ trụ quan nhân
duyên, đạo Phật đã có những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát. Về
chính trị xã hội thì đạo Phật là tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc nghiệt,
tố cáo chế độ xã hội bất cơng, địi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, nêu lên ước
vọng giải thoát con người khỏi nỗi bi kịch của cuộc đời…Tuy nhiên, trong luận
thuyết về nhân sinh và con đường giải thoát, tư tưởng Phật giáo cịn hạn chế, mang
nặng tính bi quan, yếm thế về cuộc sống, chủ trương “xuất thế”, “siêu thoát” có tính
chất duy tâm, khơng tưởng về những vấn đề xã hội. Sau khi đức Phật tạ thế, các đệ
tử của Người đã định kì họp lại.Và tại các cuộc họp càng về sau, sự bất đồng ý kiến
giữa các chư tăng trong việc hiểu và giải thích kinh phật ngày càng gay gắt. Hàng
ngũ Phật giáo do vậy chia làm hai phái: Phái của các vị trưởng lão gọi là Thượng
Tọa (theravada) theo xu hướng bảo thủ, chủ trương bám sát kinh điển, giữ nguyên
giáo luật; Phật tử chỉ giác ngộ cho bản thân, chỉ thờ đức Phật Thích Ca và chỉ cầu
sớm chứng quả La Hán. Phần đông tăng chúng cịn lại khơng chịu nghe theo, họ
khai hội nghị riêng, lập ra phái Đại Chúng (mahasanghika) chủ trương không câu
nệ cố chấp vào kinh điển, khoan dung đại lượng trong việc thực hiện giáo luật, thu
nạp rộng rãi tất cả những ai muốn quy y, giác ngộ, giải thoát cho nhiều người, thờ
Phật và nhân vật tiêu biểu là Bồ Tát. Tại các lần kiến tập thứ 3-4, phái Đại Chúng
soạn ra kinh sách riêng và tự xưng là Đại Thừa (mahayana) nghĩa là “cỗ xe lớn” và
gọi phái Thượng Tọa là Tiểu Thừa (hinayana) nghĩa là “cỗ xe nhỏ”. Phái Đại Thừa
phát triển lên phía Bắc nên được gọi là Bắc Tông, được phổ biến sang Trung Hoa,
Nhật Bản,Triều Tiên…Cịn phái Tiểu Thừa phát triển xuống phía Nam nên được
gọi là Nam Tông, từ trung tâm Srilanca (Tích Lan) phát triển sang các nước Đơng
Nam Á, trong đó có Việt Nam. Kinh sách Đại Thừa được viết bằng tiếng Sanscrit,
còn kinh sách Tiểu Thừa được viết bằng tiếng Bali.

CHƯƠNG II
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN
CỦA NGƯỜI VIỆT
I. Quá trình hình thành, du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
1. Bối cảnh ở Việt Nam
Nước Việt Nam có hình chữ S, thuộc bán đảo Đơng Dương, có vị thế 7/10
bán đảo Đơng Dương, tiếp giáp với biển Trung Quốc và vịnh Băng Gan, được cấu
thành bởi các dãy núi chạy từ Tây Tạng đến phía Đơng và xịe ra biển như hình rẻ
quạt. Giữa các rặng núi là những thung lũng tạo thành các miền cao ngun, bình
ngun và các sơng lớn. Địa thế Việt Nam còn nằm giữa hai lục địa lớn và đông
dân nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ. Hai quốc gia lớn này cũng có nền văn
hóa rất sớm đối với nhân loại, trong đó có Việt Nam. Người Việt Nam, theo truyền
thuyết, thuộc nòi giống Tiên Rồng. Nhưng theo các nhà sử học, dân tộc Việt Nam
được hình thành có những thuyết như sau:
a. Tổ tiên Việt Nam gốc ở Tây Tạng. Vì đời sống, một bộ lạc theo lưu vực
sông Hồng, dần hồi tràn xuống Trung Châu Bắc Việt. Hạ lưu sông Dương Tử bị
nước Sở đánh đuổi. Để lánh nạn, người Việt chạy về phía Nam miền Quảng Đơng,
Quảng Tây rồi từ từ đến bắc Việt và Bắc Trung Việt. Cũng từ đó, người Việt có
truyền thống Nam tiến.
b. Theo các nhà nhân chủng học thời thượng cổ: giống người Indonesia bị
giống dân Aryan đánh đuổi, họ bỏ Ấn Độ chạy đến bán đảo Ấn Độ Chi Na. Số
người dân chạy về phía Nam lập thành nước Campuchia, Chiêm Thành theo văn
hóa Ấn Độ. Cịn số người ở phía Bắc kết hợp với giống Mông Cổ thành người Việt
Nam.
c. Theo các nhà dân tộc học: Việt Nam nằm giữa khu vực nối liền Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương, chịu ảnh hưởng của hai nền văn hóa cổ nhất là Ấn Độ

và Trung Quốc. Vì thế, Việt Nam là vùng quy tụ các thành phần dân tộc khác nhau
với tám nhóm ngơn ngữ: Mường, Thái, Dao, Khơmer, Chăm, Nam Á. Nhưng thành
phần người Kinh chiếm phần lớn, có ưu thế hơn. Người Việt Nam có nhiều đặc tính
q báu: thơng minh, sáng tạo, cần cù, nhẫn nại; u nước, u chuộng hịa bình;
độ lượng, hài hịa…tinh thần tự lập tự cường, ý chí độc lập, đoàn kết, hợp quần…
Việt Nam là bán đảo nối liền hai quốc gia là Ân Độ và Trung Quốc to lớn. Con
người Việt Nam lại có nhiều đặc tính ưu việt. Vì thế, Việt Nam đã tiếp nhận hai nền
văn hóa tư tưởng có từ lâu đời trên thế giới qua đường thủy và đường bộ.
2. Thời đại Phật giáo du nhập


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
Qua lịch sử, Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam cùng thời với con
đường truyền qua Trung Quốc Theo cuốn “Cổ sử các nước Ấn Độ hóa ở vùng Viễn
Đơng” và cuốn Roman coinsINDIA-1964P.559-683 cùa R.Sewedl. Trong những
năm đầu của công nguyên, các thương nhân hằng hải của Ấn Độ qua miền Viễn
Đông để buôn bán, đạo Phật đã theo bằng đường thủy qua Srilanca, Java,
Inddônêxia, Ấn Độ Chi Na và Trung Quốc. Ở những nơi thương nhân ghé lại, nơi
thừa tự được lập để nguyện cầu bình an, may mắn.Từ đó, tư tưởng tơn giáo được
thiết lập. Theo cuốn “Ngơ chí” của Trung Quốc vào đời Hán thì có nói: Sĩ Nhiếp
trong buổi loạn lạc đã giữ yên quận Giao Châu, giúp dân an cư lạc nghiệp. Vì thế
ơng được người dân bản xứ tơn kính. Đi đâu ơng cũng có người Hồ đi theo hai bên
đường. Mà theo Sylvainlevi, Hồ là từ mà người Trung Quốc dùng để chỉ người
Trung Á hay Ấn Độ.Như vậy, người Ấn Độ, kể cả các nhà sư có nhiều ở Giao Châu
lúc bấy giờ. Bản thân Sĩ Nhiếp cũng đã theo đạo Phật, đi đâu cũng có các nhà sư đi
theo…Như thế chứng tỏ là đạo Phật đã do các nhà sư Ấn Độ đem vào Việt vào hạ
bán thế kỉ thứ 2. Và con một số sách khác cho thấy rằng: Sinh hoạt Phật giáo đã bắt
đầu ở Việt Nam từ đầu thế kỷ do các nhà buôn đem vào .Rồi thực sự có các nhà sư
theo thuyền bn đến truyền đạo vào cuối thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ 3 bằng hai

con đường là đường thủy và đường bộ. Vào các thế kỷ đầu ở Giao Châu, Phật Giáo
đã có một trung tâm lớn tại Luy Lâu - một trong ba trung tâm lớn của đế quốc nhà
Hán. Trụ sở của quận Giao Chỉ là Luy Lâu đã sớm trở thành trung tâm quan trọng
của Phật giáo. Tại đây với hoạt động truyền giáo của Khâu - Đà - La (Kasudla) đã
xuất hiên truyền thuyết đầu tiên về Phật giáo Việt Nam với Thạch Quang Phật và
Mang Nương Phật Mẫu. Từ đây những nhà sư Ấn Độ như Ma-ha-kỳ-vực
(Marajivaka), Khâu Đà La (Kasudara), Khương Tăng Hội (K’ang-seng-houei ), Chi
Cương Lương Lâu (Kalaruci), Mâu Bác (meou-pô). Do Phật giáo được truyền bá
trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam nên ngay từ đầu công nguyên từ Buddha (Bậc
Giác Ngộ) tiếng phạn đã được phiên âm sang tiếng Việt là Bụt. Phật giáo Giao
Châu lúc này mang màu sắc Tiểu Thừa Nam Tơng và trong mắt người Việt nơng
nghiệp, hình tượng Bụt được hình dung như vị thần dân dã tồn năng có mặt khắp
nơi, ln sẵn sàng xuất hiện để cứu giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu. Sau này,
sang thế kỷ thứ 4-5 có thêm luồng ảnh hưởng của Phật Giáo Đại Thừa Bắc Tông từ
Trung Hoa tràn vào khơng bao lâu, nó đã lấn át và thay thế luồng Nam Tơng có từ
trước đó. Khi ấy từ Buddha tiếng Phạn vào tiếng Hán được phiên âm thành Phật


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
ngang đà, Phật đồ và tiếng Việt rút gọn thành Phật. Và từ đây từ Phật dần dần thay
thế từ Bụt. Từ Trung Hoa, có ba tơng phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam, đó
là: Thiền tơng, Tịnh Độ tơng và Mật tơng. Việt Nam là xứ nơng nghiệp, thiên nhiên
ít được ưu đãi, nhiều thiên tai bão lụt, con người tin nhiều vào thần thánh, phép lạ,
…bởi thế Mật giáo rất dễ du nhập. Các sư như Ma Ha Kỳ Vực, Khâu Đà La, Chi
Cương Lương làm nhiều phép thần thông lạ thường được dân Việt Nam ưa thích.
Mật tơng là tơng phái chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí như dùng linh
thù, mật chú, ấn quyết,…để mau chóng đạt đến giác ngộ và giải thốt. Ở Việt Nam,
Mật tơng không tồn tại độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng hịa vào
dịng tín ngưỡng dân gian. Tịnh Độ tông, với pháp môn niệm Phật cầu Vãng sinh,

lớp bình dân dễ dàng tin theo. Phép tu chỉ có chuyện niệm Phật A Di Đà. Dù chưa
dứt hết nghiệp, sau khi chết, người chuyên niệm Phật vẫn được Vãng sinh cực lạc.
Thiền tông là pháp môn thấy dễ mà khó, thiền khơng khéo sẽ bị tẩu hỏa nhập ma,
điên loạn, mất bình thường. Tuy thế, người Việt Nam vẫn tiếp nhận và cũng khá
phổ biến trong các nhà sư và trí thức.
II. Những đặc điểm cơ bản của Phật giáo ở Việt Nam
1. Tính tổng hợp
Đây là đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã
tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc ta, do đó, đã tổng hợp
chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa “Tứ pháp” kết hợp việc thờ Phật với thờ
các vị thần tự nhiên như Mây-Mưa-Sấm-Chớp và thờ đá. Lối kiến trúc của chùa
chiền Việt Nam là “tiền Phật hậu Thần” với việc đưa vào chùa các thần, thánh, các
thành hoàng thổ địa và các anh hùng dân tộc. Có chùa thờ cả Bác Hồ ở Hậu tổ và
hầu như không một chùa nào là không để bia hậu, bát nhang cho các linh hồn, vong
hồn đã mất. Bên cạnh đó, Phật giáo Việt Nam lại tổng hợp các tông phái với nhau
nên không có tơng phái Phật giáo nào ở Việt Nam là thuần khiết. Tuy Thiền tông
chủ trương bất lập ngôn, song ở Việt Nam, chính các thiền sư đã để lại khá nhiều
trước tác giá trị. Phật giáo Việt Nam cũng dung hợp chặt chẽ con đường giải thoát
bằng tha lực, phối hợp Thiền tông với tịnh độ tông (niệm Phật A di đà và cầu Bồ
tát). Chùa miền Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng chục pho
tượng Phật, Bồ tát, La hán của các tông phái khác nhau. Cịn ở phía Nam, Đại
Thừa và Tiểu Thừa kết hợp mật thiết với nhau trong đó: nhiều chùa mang hình thức


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
Tiểu Thừa (thờ Phật Thích Ca, mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại Thừa; bên
cạnh tượng Phật Thích Ca lớn vẫn có nhiều tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng
vẫn sử dụng đồ nâu và đồ lam. Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn kết hợp chặt chẽ
giữa việc đạo với việc đời. Tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng ở Việt Nam, Phật

giáo lại rất nhập thế: các cao tăng được nhà Nước mời tham chính hoặc cố vấn
trong những việc hệ trọng. Sự gắn bó giữa đạo với đời mật thiết tới mức khơng chỉ
có các nhà sư tham gia vào chính sự, mà các thời Lý, Trần còn khá nhiều vua quan
quý tộc đi tu ( thiền phái Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử). Với truyền thống gắn
bó giữa đạo với đời, đầu thế kỉ 20, Phật tử Việt Nam hăng hái tham gia vào các
hoặc động của xã hội như cuộc vận động đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu và đám
tan cụ Phan Châu Trinh. Thời Ngơ Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, Phật tử miền
Nam đã tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh địi hịa bình và độc lập, nổi bật
là sự kiện Phật tử xuống đường đấu tranh chống lại nền độc tài chun chế của gia
đình họ Ngơ năm 1963. Đặc biệt là sự kiện hịa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu
để phản đối chế độ độc tài đó. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ, một bộ phận không nhỏ các tăng ni Phật tử đã tạm lột bỏ lớp áo cà sa
để cùng nhân dân cả nước cầm súng đánh giặc cứu nước.
2. Xu hướng hài hịa âm dương có phần thiên về nữ tính
Đây là đặc trưng nổi bật thứ hai của Phật giáo Việt Nam - đặc trưng bản chất
của nền văn hóa nơng nghiệp. Các vị thần Ấn Độ vốn xuất thân là những vị đàn
ông, sang Việt Nam biến thành Phật ông Phật Bà. Phật Bà Quan Âm (biến thể của
từ Quán Thế Âm Bồ Tát) trở thành vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông
nước vốn là địa bàn của cư dân Nam Á. Đặc biệt, người Việt Nam cịn có những
Phật Bà riêng của mình, do mình tạo ra như: đứa con gái của nàng Man, tương
truyền sinh ngày 8 tháng 4, được xem là Phật tổ Việt Nam, bản thân nàng Man trỏ
thành Phật mẫu. Ở nước ta có khá nhiều chùa chiền mang tên các bà như: chùa Bà
Dâu, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh… và tuyệt đại bộ phận Phật tử tại gia cũng là các
bà.
3. Tính linh hoạt
Tính linh hoạt này đã khiến cho khi vào Việt Nam, Phật giáo đã bị Việt Nam
hóa mạnh mẽ. Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống phúc
đức, trung thực hơn là việc đi chùa: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu



ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
chùa”. Coi trọng truyền thống thờ ông bà cha mẹ hơn là thờ Phật. Vào Việt Nam,
đức Phật được đồng nhất với những vị thần tín ngưỡng truyền thống có khả năng
cứu giúp mọi người thốt khỏi tai họa. Hơn nữa vì muốn giữ cho Phật giáo ở mãi
bên mình, người Việt Nam nhiều khi phá cả giới luật. Người Việt Nam giao tiếp
theo nguyên tắc “ xưng khiêm hô nhường” nên các vị Bồ tát, hòa thượng mà người
Việt Nam yêu quý đều được tôn làm Phật hết: Phật bà Quan Âm (vốn là Bồ tát),
Phật Di Lặc(vốn là hòa thượng). Còn tượng Phật Việt Nam vốn mang dáng dấp
hiền hòa của người Việt Nam.
III. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống tinh thần của
người Việt.
Như đã trình bày ở các phần trước, Phật giáo là một học thuyết về sự giải
thốt, tồn bộ học thuyết hướng về con người tư tưởng giải thốt. Đồng thời, nó
cũng là học thuyết về đạo đức, đề cập đến vấn đề bình đẳng, bác ái. Vì vậy, ngay
sau khi được các nhà sư Ấn Độ đưa vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh chóng được
nhân dân ta tiếp nhận một cách tự nhiên và phát triển. Do thâm nhập một cách hịa
bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến rộng khắp. Cho đến nay Phật
giáo vẫn là tơn giáo có số lượng tín đồ đơng nhất ở Việt Nam. Đạo Phật thân thiết
với người Việt Nam đến nỗi dường như một người Việt Nam nếu không theo một
tôn giáo nào khác, ắt là theo Phật hoặc chí ít là có cảm tình với đạo Phật. Điều đó
cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của nhân dân ta mạnh
mẽ đến nhường nào. Với truyền thống gắn bó đạo với đời, ngay từ thời Đinh, Tiền
Lê, Lý, Trần…Các sư đều tham gia chính sự. Ngồi ra, vào các thời Lý, Trần, còn
khá nhiều vua quan quý tộc đi tu như vua Trần Nhân Tông…
1. Ảnh hưởng của Phật giáo về tư tưởng
Tư tưởng hay đạo lí của Phật giáo là đạo lí Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và Bát
chánh Đạo. Ba đạo lí này là nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo nguyên
thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng người dân Việt. Về giáo lí nghiệp báo
hay nghiệp nhân quả báo của đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lí

này đã trở thành nếp sống tín ngưỡng đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy
nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, nó chẳng những thích hợp với giới bình
dân mà cịn ảnh hưởng đến giới trí thức. Vì thế, giáo lí nghiệp báo luân hồi đã in


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
dấu ấn đậm nét trong văn chương bình dân, văn chương chữ Hán, chữ Nôm từ xưa
cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào triết lý
nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp, đem lại hịa bình an vui cho
mọi người. Mỗi người dân Việt Nam đều biết câu “ác giả ác báo”. Mặt khác, họ
hiểu rằng nghiệp nhân quả không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó
họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác thành thiện. Từ những hành động thiện, giảm bớt
điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta một cuộc sống yên vui.
2. Ảnh hưởng của Phật giáo về đạo lí
Đạo lí ảnh hưởng nhất là giáo lí từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã
ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn người Việt Nam. Tinh thần thương
người như thể thương thân này đã biến thành ca dao, tục ngữ rất phổ biến trong
quần chúng Việt Nam như: “lá lành đùm lá rách”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Đó là những câu ca dao tục ngữ
mà bất cứ người Việt Nam nào cũng thấm nhuần và thuộc lịng, nói lên lịng nhân ái
vị tha của người Việt Nam. Ngồi đạo lí Từ Bi, người Việt Nam cịn chịu ảnh
hưởng của Đạo lí Tứ Ân, gồm: ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng
sinh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát triển của
tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ thân đến
xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối quan hệ
xã hội, với thầy bạn, đồng bào quê hương đất nước và mở rộng đến quê hương cao
cả đối với cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý Tứ Ân, ta
tahays ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của
người Việt. Vì đạo phật rất chú trọng đến hiếu hạnh và đã được Đức Phật thuyết

giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nahu như Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh Thai
Cốt, kinh Hiếu Từ, Kinh Đại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan…nhắc đến công
lao dưỡng dục của cha mẹ. Phật dạy: “Muôn việc ở thế gian, không gì hơn cơng ơn
ni dưỡng lớn lao của cha mẹ” (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy: “cùng
tốt điều thiện khơng gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác khơng gì hơn bất hiếu”. Bởi Phật
giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên phù hợp với
nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt. Đạo lý Tứ Ân cịn có chung động
cơ thúc đẩy từ bi hỉ xa khiến con người ta sống hài hòa với xã hội, thiên nhiên để
tiến đến hạnh phúc đích thực và bền vững. Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý
trên đã giúp cho Phật giáo Việt Nam hình thành được một bản sắc đặc thù rất riêng
biệt của nó tại Việt Nam. Góp phần làm phong phú và đa dạng hóa nền văn hóa tinh
thần của dân tộc Việt.
3. Ảnh hưởng của Phật giáo qua phong tục tập quán


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
a. Ảnh hưởng qua tục ăn chay, phóng sanh, bố thí.
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của nếp sống
văn hóa này. Nó xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo. Đạo Phật không muốn
sát sinh mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Số ngày ăn chay tuy có khác nhau
trong từng tháng, nhưng cùng giống nhau ở quan điểm từ bi hỷ xả của Phật giáo.
Do hiệu quả của việc ăn chay trong việc tăng cường sức khỏe, chống bệnh tật, nên
người Việt Nam dù là Phật tử hay khơng đều thích ăn chay. Ăn chay và thờ Phật là
hai việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Dù không phải là Phật Tử cũng dùng
tượng Phật hay tranh ảnh về Phật giáo để trang trí cho đẹp và nghiêm trang. Cùng
với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam có từ lâu đời. Tục này
xuất phát từ lịng kính u đối với ơng bà, cha mẹ, tổ tiên và được xem là một dạng
tín ngưỡng quan trọng của người Việt Nam. Vào những ngày rằm, mùng 1 những
gia đình khơng theo đạo Phật cũng mua hoa quả thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên.

Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí và phóng sinh đã ăn sâu
vào đời sống tinh thần. Đến ngày rằm và mùng 1, người Việt thường mua chim,
cá… để đem về chùa cầu nguyện rồi đi phóng sinh. Người dân cũng thích làm
phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó hoạn nạn. Tuy nhiên, trong xã hội
hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên ngày càng bị thu hẹp. Thay
vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn,
hoàn cảnh sống khó khăn đúng với truyền thống đạo lí của dân tộc: lá lành đùm lá
rách.
b. Ảnh hưởng qua tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa:
Tập tục đến chùa để tìm sự bình an cho tâm hồn đã trở thành một nét phong
tục lâu đời “đi chùa lễ Phật” của tổ tiên. Những ngày lễ hội lớn trong năm bắt đầu
từ Phật giáo như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lể tắm Phật…thực sự đã trở thành ngày
hội văn hóa của người dân. Những ngày lễ lớn như trên của Phật giáo đã là chất keo
gắn người dân với nhau và ảnh hưởng ngày càng sâu đậm trong nhân dân. Có thể
nói phong tục tập quán ở Việt Nam trong qua trình tồn tại và phát triển đã chịu tác
động của trào lưu văn hóa khác nhau, nhất là từ Trung Quốc, trong đó Phật giáo đã
dự một phần quan trọng vào việc định hình và duy trì khơng ít các tập tục dân gian
vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
c. Ảnh hưởng qua các phong tục tập quán khác:
1. Lễ cầu an:


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
Trong cuốn Phật tử, Hịa thượng Thích Thiện Châu viết: Cầu an là thực hành
theo lời Đức Phật dạy. Đức Phật dạy:” Người nào muốn phụng sự Như Lai thì hãy
săn sóc người bệnh”, do đó, Phật tử đối với người đau ốm bệnh tật phải lưu tâm
thăm viếng, sặn sóc hỏi han, tùy theo bệnh hết lịng thuốc men giúp đỡ, khơng nên
tin nhảm nhí vào đồng cốt dị đoan. Trong khi tụng kinh, niệm Phật nên rải lòng từ
bi đến người bệnh và cầu mong họ được chóng bình phục và an lành”. Đại lễ cầu

an ngày nay tại các chùa Hà nội mang một ý nghĩa khác hẳn. Lễ cầu an thường
được tổ chức vào đầu năm, thường là trong tháng Giêng âm lịch, với mục đích cầu
Trời Phật phù hộ đem lại một năm mới tốt lành, bình an cho gia chủ. Lễ cầu an chỉ
tiến hành một lần. Kinh thường được tụng trong lễ này là Di Đà, Bát Nhã, Dược
Sư…
2. Lễ cúng sao giải hạn:
Tập tục này rất phổ biến và ăn sâu vào tập quán của người Việt và lại có
sự tham gia của Phật giáo. Nguyên nhân cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, sau truyền
qua Việt Nam rồi vào trong Phật giáo. Thời xưa ta có Tam giáo đồng nguyên; Phật,
Lão và Khổng giáo, đồng quy về mặt nguồn. Chủ trương như nhau, cùng một thiện
chí để đóng góp cho xã hội, phục hưng đạo đức, đưa đời sống của con
người đến ấm no hạnh phúc. Các lại sao thường được cúng giải hạn là La Hầu, Kế
Đô, Thái Bạch. Các cá nhân gặp năm tiểu hạn vào sao này thường ra chùa làm lễ
cúng sao giải hạn. Quy trình một lễ cúng sao tương tự như lễ cầu an. Tùy từng
chùa, lễ cũng sao được tiến hành một lần vào đầu năm hay tất cả các tháng trong
năm…
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển đã chịu
nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau. Nhất là từ Trung Quốc. Trong
đó Phật giáo đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì khơng ít các tập
tục dân gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tuy nhiên, không
phải các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo là tốt tất cả, mà trong đó có tập
tục cần phải chắt lọc lại như tập tục xin xăm bói quẻ, coi ngày giờ, cắt giải tiền
duyên, đốt vàng mã để phù hợp với chánh pháp. Đó là nhiệm vụ nặng nề của các
nhà truyền giáo trong thời hiện đại.
4.Ảnh hưởng của Phật giáo qua các loại hình văn hóa nghệ thuật
a. Ảnh hưởng qua ca dao, thơ:


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC

Tư tưởng đạo lý Phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong ca
dao, dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên răn dạy bảo
với mục đích xây dựng cuộc sống yên vui, phù hợp với truyền thống đạo lý dân tộc
Việt Nam. Quan niệm đạo Phật là đạo hiếu, lời dạy của Phật về việc nhớ ơn và báo
ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng người dân đã được thể hiện
qua ca dao, dân ca ví dụ:
Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lịng thờ mẹ kính cha
Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con.
b. Thể hiện qua nghệ thuật sân khấu:
Nghệ thuật sân khấu cũng là một loại hình văn hóa, nhất là các chủng loại
này thuộc về di sân mang tính bản sắc của văn hóa dân tộc song song với những
phần đã nêu ra ở trên. Tính triết lý nhân quả báo ứng của Phật giáo đóng vai trị
quan trọng trong các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý Phương Đông và nếp
sống truyền thống của dân tộc, giáo lý “nhân quả báo ứng, thưởng thiện phạt ác”…
được các soạn giả thể hiện trong các vở cải lương…. Ví dụ: “Quan Âm Thị Kính”,
“Mục Liên Thanh Đề”. Ngồi ra, cịn có các vở chịu ảnh hưởng ít nhiều của tư
tưởng Phật giáo như các vở: “Phạm Công Cúc Hoa”, “ Tấm Cám”, “Kim Vân
Kiều”… do sự ảnh hưởng tinh thần từ bi hỉ xả của Phạt giáo nên các vở tuồng, cải
lương luôn luôn ở phần kết thúc đều có hậu. Nhà nghiên cứu Sơn Nam từng phát
biểu về điều này: "Nước ta từ xưa vẫn theo truyền thống Tam giáo, nhất là nhờ ảnh
hưởng văn hóa Phật giáo mà tiến lên, nhân vật trong vở tuồng dù lố lăng, điều quan
trọng là nhân vật chính, nhân vật phụ ấy phải được giải quyết ở màn chót theo tinh
thần bi trí, dũng, theo luật nhân quả của Phật giáo. Phật giáo là phép màu dung
hòa mọi mâu thuẫn, chỉ nẻo cho con người thoát khỏi những cảnh ngộ éo le, khó xử
nhất. Nếu thốt khỏi ln lý ấy, cải lương sẽ là cái xác không hồn".
Đến đây, chúng ta có thể kết luận rằng những tư tưởng và hình ảnh của Phật
giáo đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong phong tục tập quán, trong văn học và
nghệ thuật của người Việt Nam trong lịch sử và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng cái tinh



ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
hoa độc đáo của mình cho dân tộc Việt nói riêng và cả nhân loại nói chung trong
tương lai.

KẾT LUẬN
Qua những điều đã trình bày như trên về Phật giáo nói chung cũng như Phật
giáo khi vào Việt Nam, ta nhận thấy: Phật giáo là một học thuyết triết học vô thần
về sự giải thốt. Tồn bộ học thuyết hướng con người đến tư tưởng giải thoát; đồng
thời cũng là một học thuyết về đạo đức, đề cập đến vấn đề bình đẳng, bác ái. Vì thế
mà sau khi được các nhà sư Ấn Độ đưa vào Việt Nam từ đầu công nguyên, Phật
giáo đã nhanh chóng được nhân dân tiếp nhận một cách tự nhiên và ngày càng phát
triển. Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc
Việt Nam và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Đạo Phật đã
ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của người Việt từ triết lý, tư tưởng, đạo đức, văn học,
nghệ thuật cho đến phong tục tập quán, nếp sống, nếp nghỉ.... Tìm hiểu và nghiên
cứu về "Sự ảnh hưởng của triết học Phật giáo thế giới quan, nhân sinh quan đối với
đời sống tinh thần của người Việt", chúng ta càng thấy rõ nhận định trên. Từ quan
niệm nhân sinh quan, thế giới quan, đạo lý, thẩm mỹ cho đến lời ăn tiếng nói của
quảng đại quần chúng ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của triết lý và tư tưởng Phật
giáo. Những câu nói đầu lưỡi "ở hiền gặp lành", "tội nghiệp", "hằng hà sa số", "ta
bà thế giới"... là điều phổ biến trong quan hệ ứng xử giữa mọi người. Qua quá trình
lịch sử, trải qua bao cuộc biến đổi thăng trầm của đất nước, Phật giáo đã khẳng
định và có một chỗ đứng vững chắc trong lòng của dân tộc, tồn tại và phát triển
cùng với dân tộc. Rõ ràng Phật giáo đã đóng góp cho dân tộc ta nhiều thành tựu
đáng kể về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. yếu tố mang tính truyền thống,
hình thành nhân cách, bản lĩnh và bản chất của dân tộc là chủ yếu; đã gặp gỡ, hòa
quyện trong những yếu tố tinh thần, tư tưởng từ bi cứu khổ của Phật giáo Việt Nam.

Những yếu tố ngoại sinh đã góp phần lớn vào việc củng cố, duy trì vá phát triển nội
hàm bản sắc dân tộc. Trong đó Phật giáo góp phần vào việc làm phong phú thêm cá
tính, đặc trưng dân tộc người Việt. Ngược lại, chính những bản chất dân tộc đã làm
giàu hơn nền văn hóa Phật giáo. Một minh chứng của sự tác động qua lại này chính
là sự kết hợp giữa truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc với tinh
thần tập thể của Phật giáo Việt Nam, đã đưa đến nét đặc thù của Việt Nam, đem lại


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MƠN TRIẾT HỌC
hình ảnh sống động của Tăng ni Phật tử qua hai cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc trong gần một thế kỷ nay. Dân tộc Việt Nam, với vị trí địa lý, văn hóa đặc biệt,
dù có muốn hay khơng cũng tạo ra một sự hội nhập văn hóa, khơng phải là một sự
hội nhập văn hóa bình thường, mà là một sự hội nhập văn hóa của những tinh hoa
đến từ các trung tâm văn hóa tầm cỡ thế giới như Ấn Độ, Trung Hoa, được kết tinh
trong một tôn giáo lớn- Phật giáo. Đó cũng là một sự hội nhập mà cư dân nước Việt
làm chủ, lợi ích của dân tộc và đất nước là chuẩn mực cao nhất của sự hội nhập, sự
hội nhập đó là thử thách và kiểm nghiệm bằng một bề dày lịch sử. Qua thực tế cho
thấy rằng, Phật giáo sau khi nhập vào nền văn hóa nước ta đã tạo ra một thế ổn định
xã hội kéo dài. Nhân dân ta, qua các thế hệ, đã làm cho các giá trị nhân bản của đạo
Phật bén rễ sâu sắc và cắm gốc vào trong tâm hồn mình. Một phần là nhờ ở tính
uyển chuyển trong giáo lý, tính bao dung khơng cố chấp của đạo Phật, nhưng một
phần không nhỏ là do sức sáng tạo của người dân. Tin ở sức mình, tin ở luật Nhân Quả, nghiệp báo, động viên nhân dân hướng tới Chân - Thiện - Mỹ, đó là cơng lao
của văn hóa Phật giáo, là sự sùng đạo của nhân dân Việt Nam. Ngày nay, trong bối
cảnh đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
mở rộng giao lưu hợp tác với tất cả các nước trên thế giới thì Phật giáo ngày càng
bị cạnh tranh gay gắt bởi các luồng tư tưởng mới du nhập vào nước ta. Nhưng với
những thành tựu mà Phật giáo đã đạt được thì ảnh hưởng của nó sẽ còn khắc sâu
trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam khơng chỉ hiện nay mà cịn lâu
hơn nữa.



ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1). Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học (Dùng cho nghiên cứu sinh và
học viên cao học không thuộc chuyên ngành triết học, tập 1, NXB Chính trị Quốc
gia, 2001.
(2). Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Đại học tổng hợp TP.HCM, 1996.
(3). Thượng tọa Thích Minh Tuệ, Lược sử Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo
Việt Nam, thành hội Phật giáoTP.HCM ấn hành - PL2536-1993.
(4). Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học Phương Đông (tập 1), NXB TP.HCM.
(5) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, Hà nội, 1992,tập
1,tr.43
(6) Bài hội thảo, Phật giáo nhập thế trong thế kỷ XXI,
/>(7)Thích Thiện Châu, Phật tử, Paris, 1996, tr.110
(8)Chân Nguyên&Nguyễn Tường Bách,Từ điển Phật học,Nxb Thuận Hóa,tr.343tr.344
(9) Trần Quốc Vượng, Vài nét về Phật giáo dân gian Việt Nam, Tạp chí văn hóa
Phật giáo, số 7, 2005 />(10) Nguyễn Ánh Hồng, Phật giáo với văn hóa Việt, Tạp chí Đạo phật ngày nay
/>(11) O.O.Rozenberg - Nguyễn Hùng Hậu & Ngô Văn Doanh dịch, Phật giáo Những vấn đề triết học , Trung tâm tư liệu Phật học xuất bản, Hà Nội, 1990
(12) Nguyễn Hùng Hậu, Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà nội, 2002.
(13) 阮阮阮阮, 越越越越越越越越, 阮阮阮阮,2005 阮 00 阮


ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN TRIẾT HỌC
(14) 阮阮,越越越越越越越越越越越, 阮阮阮阮阮,2008 阮 10 阮
(15)阮阮阮,阮阮阮,越越越越越越—越越越越,阮阮阮阮,1984 阮 03 阮




×